LUẬN VĂN:
Năng lực sản xuất và phương pháp
tổ chức bảo quản vận chuyển và
sữa chữa máy
Lời nói đầu
Một vấn đề thực tế mà hầu như các trường đại học trong cả nước đều chưa có
đủ điều kiện để thực hiện, đó là kết hợp một cách hài hoà giữa những kiến thức lý
thuyêt thuần tuý và kiến thức thực hành. Một sinh viên có thể hoà nhập vào công việc
sau khi ra trường mà không bị thụ động, phụ thuộc rất nhiều vào những thời gian thực
hành những kiến thực tế trong quá trình học tập.
Một trong những phương pháp mà nhà trường, muốn sinh viên có thể tập dượt
một cách khái quát trước khi tốt nghiệp. đó là việc thực tập tốt nghiệp. Với mục đích tạo
điều kiện cho sinh viên định hướng cho bản thân để có thể lựa chọn theo ý muốn đè tài
làm đồ án tốt nghiệp. Ngoài ra đợt thực tập này thâm nhập thực tế chuẩn bị cho sinh
viên, những kiến thức thực tế vừa sâu vừa rộng. Khi tốt nghiệp đại học không bỡ ngỡ
dẫn đến thiếu tự tin vào chính mình trước những công viẹc được phân công.
Đợt thực tập này cũng giúp cho sinh viên làm quen với việc tổ chức quản ly, chỉ
đạo kỹ thuật tại một cơ sở: viện nghiên cứu, nhà máy chế tạo, nhà máy sửa chữa, công
ty, xí nghịêp hoặc đội thi công cơ giới... Mặt khác cũng giúp cho sinh viên làm quen với
công việc của một cán bộ kỹ thuật tại cơ sở thực tâp mà trước đó sinh viên hoàn toàn
chưa có bất kỳ một điều kiện tập dượt nào.
Nội dung báo cáo
I. cơ cấu tổ chức của cơ sở:
1. Quá trình phát triển của công ty qua từng thời kỳ:
Đơn vị thực tập là công ty Bê tông và Xây dựng Vĩnh Tuy và đây là một doanh
nghiệp Nhà Nước có tư cách pháp nhân thuộc Sở Xây dựng Hà Nội.
Tiền thân của công ty là xí nghiệp Bê tông Vĩnh Tuy được thành lập ngày
2/01/1975 theo quyết định số 02/QĐ-UB của UBND thành phố hà nội. Ngày
22/12/1992. theo quyết định số 3364-QĐ/UB xí nhgiệp được đổi tên thành nhà máy bê
tông Vĩnh Tuy. Ngày 16/08/1999 theo quyết định số 3247/QĐ-UB của UBND thành
phố hà nội cho đổi tên thành Công ty Bê Tông và Xây Dựng Vĩnh Tuy.
Giám đốc của công ty qua các thời kỳ:
1975-1983: Ông Phạm Văn Vọng (Hiện là phó giám đốc sở xây dựng hà nội)
1983-7/2000: Ông Nguyễn Quang.
Từ 08/2000 đến nay : Ông Đặng Văn Chi
* Từ ngày 2/1/1975 đến 21/12/1992 : xí nghiệp bê tông vĩnh Tuy
Nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ này là sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn
phục vụ cho các đơn vị trong sở và thành phố Hà nội :
Panel , cọc móng , gạch lát hè …
Trong thời gian 1975 – 1985 , trong cơ chế bao cấp đơn vị chủ yếu sản
xuất theo kế hoạch và cung cấp theo chỉ tiêu phân phối .
Từ 1986 – 1992 trong giai đoạn quá độ từ cơ chế bao cấp sang quản lý
theo cơ chế thị trường đơn vị đã đứng vững trước những khó khăn thử thách
ban đầu từng bước trưởng thành . sản phẩm được đa dạng hóa , thị trường
tiêu thụ mở rộng ra các tỉnh thành phố lân cận . sản phẩm tăng gấp 2lần so với
thời gian 1975 _ 1985 .
trong thời kỳ này đơn vị đã cung cấp sản phẩm cho nhiều công
trình như :
- Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh .
Bệnh viện nhi Thụy Điển , bệnh viện phụ sản -
- Trụ sở HĐND thành phố
- Các khu chung cư , trường học
* Từ 22/12/1992 – 15/8/1999 : Nhà Máy Bêtông Vĩnh Tuy
Do sự phát triển vững chắc của đơn vị trong thời gian qua nên đơn vị
Thành phố đổi tên thành Nhà Máy Bêtông Vĩnh Tuy theo quyết định số 3364 –
QĐ/UB ngày 22/12/1992 .
Tháng 5/ 1995 đơn vị đã đầu tư một dây truyền trạm trộn bê tông thương phẩm ( TEKA – CHLB Đức ) công suất 30 m3/ h và 4 xe vận chuyển bêtông
KAMAZ . Nhờ đó nhịp độ phát triển của đơn vị ngày càng tăng nhanh năm sau
tăng nhanh hơn năm trước tư 10 – 20 % , sản phẩm đa dạng hóa , chất lượng sản
phẩm nâng cao , uy tín của đơn vị được củng cố vững chắc ,
Trong thời gian này đơn vị đã cung cấp sản phẩm chính cho
nhiều công trình :
-Nhà khách chính phủ , văn phòng Quốc hội , chợ đồng Xuân, Chợ Hôm ,
Kho bạc Lạng Sơn , kho bạc Lào Cai
. Cấu kiện bể nước Phần Lan : Nhà máy nước Mai Dịch , Ngọc Hà , Yên
phụ.
Toàn bộ cấu kiện tấm sàn , phào , bồn hoa , tấm đan , công trình Hà nội
Ôpera Hilton .
Bêtông thương phẩm : công trình chợ Đồng Xuân , 24 Trang tiền , 44 Lý
Thường Kiệt , 2 Ngô Quyền , Nhà máy phụ tùng xe máy ô tô Như Quỳnh , khách
sạn Hà nội vàng .
*Từ 16/8/1999 đến nay : Công ty Bêtông và Xây dựng Vĩnh Tuy
Ngày 16 tháng 8 năm 1999 theo quyết định số 3247 / QĐ-UB của
UBND thành phố Hà nội cho đổi tên công ty Bêtông và Xây dựng Vĩnh Tuy và
xác định lại nhiệm vụ :
Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng bao gồm:
Cấu kiện bêtông định hình đúc sẵn , bêtông trộn sẵn vật liệu nung và
không nung ..
Thi công xây lắp công trình dân dụng , giao thông , thủy lợi , công nghiệp
vừa và nhỏ , sản xuất gia công các cấu kiện thép trong xây dựng , lắp đặt trang
thiết bị nội ngoại thất .
Kinh doanh vận tải hàng hóa đường bộ .
Được phép liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để
phát triển sản xuất kinh doanh theo luật định hiện hành .
Trước nhiệm vụ mới , công ty đã xắp xếp lại tổ chức sản xuất và liên tục
đầu tư nâng cao công suất và chất lượng sản phẩm .
Thành lập các xí nghiệp thành viên :
Xí nghiệp bêtông thương phẩm
Xi nghiệp bêtông đúc sẵn 1 và 2
Xí nghiệp xây dựng
Xí nghiệp cơ khi vận tải
Từ tháng 10 /2000 Công ty đã tiến hành đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ
dây truyền thiết bị để nâng cao công suất và chất lượng bê tông thương phẩm , ống
cống ly tâm và cấu kiện bê tông khác với giá trị 11.500 triệu đồng .
2. Cơ cấu tổ chức của công ty:
Quá trình thực tập tại cơ sở là công ty Bê Tông và Xây dựng Vĩnh Tuy. Em thấy
rằng sau khoảng hơn hai năm trở lại đây với sự điêù hành của vị Giám đốc mới là Ông
Đặng Văn Chi, bộ mặt quản lý và điều hành của công ty dã có sự thay đổi vượt bậc,
điều đó được thể hiện rõ trong sơ đồ dưới đây.
Giám đốc KS. Đặng Văn
Phó Giám đốc KS. Nguyễn Thị Thanh Bình
Phó Giám đốc KS. Trần Văn Dung
Phòng Kỹ Thuật
Phòng Tổ Chức
Phòng Tài Vụ
Phòng Kinh Doanh
Xí nghiệp Thương phẩm
Xí nghiệp Xây dựng
Xí nghiệp Bê tông đúc sẵn 2
Xí nghiệp Cơ khí
Xí nghiệp Bê tông đúc sẵn 1
Tổ Sắt
Tổ Cơ khí
Tổ Hàn
Tổ Cống va rung
Tổ sửa chữa
Tổ Cống ly tâm
Tổ cọc ép
Tổ Panel
II. Các tổ chức quản lý kỹ thuật và điều hành máy móc thiết bị của công ty:
1. Các tổ chức quản lý kỹ thuật máy móc:
Công ty gồm có hai phó giám đốc trong đó phó giám đốc Nguyễn Thi Thanh
Bình chịu trách nhiệm tổ chức quản lý kỹ thuật máy móc trong công ty.
Công ty được chia ra làm năm xí nghiệp, mỗi xí nghiệp chịu trách nhiệm quản lý
một số lượng máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất của xí nghiệp nói riêng và của
công ty nói chung cụ thể:
Xí nghiệp Bê tông thương phẩm là xí nghiệp sản xuất ra sản phẩm là
những khối bê tông đã được trộn sau đó được vận chuyển đến phục vụ cho các xí
nghiệp bê tông đúc sẵn và vận chuyển đến những đơn vị cơ sở hạ tầng đã được hợp
đồng trước.
Để phục vụ cho việc lao động sản xuất đó thì xí nghiệp Bê tông thương phẩm
quản lý lượng máy móc gồm có:
- Một trạm trộn bê tông thương phẩm năng suất 30m3/h .
- Một trạm trộn bê tông thương phẩm năng suất 60m3/h .
- Một trạm trộn bê tông thương phẩm năng suất 100m3/h, bắt đầu đi
vào vận hành.
Xí nghiệp bê tông đúc sẵn là xí nghiệp sản xuất ra những sản phẩm Bê
tông phục vụ cho quá trình thi công xây dựng từ khâu nền móng đến khâu xây
dựng. Cụ thể xí nghiệp sản xuất ra những loại cọc bê tông dùng để thi công nền
móng, cọc nối, các loại tấm Panel sử dụng cho nhà lắp ghép, các loại tấm lọc nước,
ống cống dạng khối, và đặc biệt các loại ống tròn có đường kính lớn đúc theo
phương pháp Va Rung và các loại ống cống dài đúc theo phương pháp ly tâm.
Hiện nay xí nghiệp đang quản lý và sử dụng một lượng máy móc gồm có:
- Máy đúc ống cống ly tâm.
- Máy Va Rung để đúc ống cống tròn ngắn có đường kính lớn.
- Nhiệm vụ cho việc vận chuyển thiết bị trong quá trình sản xuất xí
nghiệp cần quản lý và sử dụng hai cần trục và hai cổng trục.
Xí nghiệp cơ khí là xí nghiệp làm ra rất nhiều loại sản phẩm phục vụ cho
các xí nghiệp bê tôn g đúc sẵn và cho việc xây dựng của công ty như :
- Tạo cốt thép định hình cho các loại cọc bê tông có kích cỡ khác
nhau.
- Tạo cốt thép định hình cho các loại cống bê tông dạng khối và trụ
có kích cỡ khác nhau, các loại khuôn đúc bê tông phục vụ cho việc sản xuất
Panel và tấm lọc nước...
- Sản xuất các loại ván khuôn phục vụ cho xây dựng.
Các loại máy móc thuộc sự quản lý của xí nghiệp gồm có:
- Một máy cắt tôn 20mm với hệ thống dẫn động bằng cơ khí.
- Một máy cắt tôn 6mm với hệ thống chuyền động băng thuỷ lực.
- Một máy uốn thép.
- Một máy nắn thép tròn đường kính 10mm.
- Một vài máy mài và máy khoan thép,
Phòng kinh doanh chiu trách nhiệm quản lý lượng máy móc gồm có:
- 12 xe vận chuyển bê tông thương phẩm.
- Một xe bơm bê tông .
- Một số xe tải vận chuyển thiết bị và máy móc cho công ty.
Để cho quá trình vận hành và sử dụng, máy móc xí nghiệp cơ khí chịu
trách nhiệm quản lý về mặt kỹ thuật của toàn bộ máy móc hiện có trong công ty.
Trong xí nghiệp hình thành một tổ sửa chữa để khi cần có thể sữa chữa và bảo
dưỡng các máy bị hỏng hay không bị hỏng theo định kỳ. Ngoài ra mặt kỹ thuật máy
móc luôn được đội ngũ những kỹ sư nhiều kinh nghiệm và nghiệp vụ cao quản lý và
điều hành.
2. Cách điều hành máy móc trong công ty:
Mỗi xí nghiịep trong công ty quản lý nnột lượng máy móc nhất định để phục vụ
trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp , do đó máy móc thiết bị
trong xí nghiệp luôn được điều hành bởi giám đốc xí nghiệp chủ quản. trong đó sự điều
hành máy móc mà hoạt động không theo kế hoạch đã đặt ra thì luôn luôn phải có ý kiến
chỉ đạo của giám đốc công ty và ý kiến chỉ đó được đưa xuống các giám đốc cúa các xí
nghiệp trực thuộc.
Sự điều hành máy móc trong công ty luôn được điều hành theo một mạch do đó
có sự thông suốt không chồng chéo. Chẳng hạn sản phẩm làm ra của xí nghiệp bê tông
thương phẩm luôn được vận chuyển bởi lượng xe thuộc sự quản lý của phòng kinh
doanh, để có được điều này giữa phòng kinh doanh và xí nghiệp bê tông thương phẩm
đã có sự chỉ đạo thông suốt để máy móc khi cần luôn có sự phục vụ. Hoặc khi cần vận
chuyển bê tông thương phẩm đến công trình thi công thì trước đó đã có sự chỉ đạo giao
nhiệm vụ từ giám đốc công ty nên phòng kinh doanh được quyền điều hành trong toàn
bộ quá trình thực hiện công việc.
III. Năng lực sản xuất và phương pháp tổ chức bảo quản vận chuyển và
sữa chữa máy:
1. Năng lực sản xuất hiện nay của công ty:
- Công ty có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề.
- Công ty có 3 trạm trộn bê tông thương phẩm trong đó:
+ Một trạm trộn công xuất 30m3/h
+ Một trạm trộn công xuất 60m3/h
+ Một trạm trộn công xuất 100m3/h cung cấp tối đa 600 m3/ngày tới
công trình.
- Xe vận chuyển bê tông thương phẩm có 12 chiếc công suất
64m3/lượt và mỗi xe có thể tích vận chuyển là 6m3.
- Bơm bê tông có 2 chiếc trong đó:
+ 01 xe bơn bê tông SCHWING công xuất 150m3//h với tầm với là
34m.
+ 01 bơm tĩnh SCHWING công xuất 90m3/h
- có 3 cầu trục trong đó:
+ 01 cầu trục một dầm tải trong nâng 10 tấn khẩu độ 12m
+ 01 cầu trục một dầm tải trong nâng 4 tấn khẩu độ 10m
+01 cầu trục hai dầm tải trong nâng 15 tấn khẩu độ 12m
- Có hai cổng trục trong đó:
+ 01 cổng trục một dầm tải trong nâng 5 tấn khẩu độ 10m
+ 01 cổng trục một dầm tải trong nâng 4 tấn khẩu độ 8m
- 01 dây chuyền đúc ống công ly tâm.
- có hai dây chuyền va rung sản xuất ống cống ngắn
- 01 máy phát điện 360KWh và các phương tiện vận tải máy móc
khác.
- 01 phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn việt nam và quốc tế
- máy xúc gầu lật co 02 chiếc với công nghệ nhật bản
- 01 bàn cân điện tử dùng để cân xe trở xi măng
- 01 máy sản xuất gạch Block với hầu hết các cơ cấu sử dụng hệ
thống thuỷ lực.
- Có 10.000m2 sân bãi để sản xuất các cấu kiện đúc sẵn.
Trong giai đoạn chất lượng sản phẩm và uy tín của công ty ngày càng nâng cao
được khách hàng tín nhiệm. Công ty đã tham gia cung cấp sản phẩm cho nhiếu dự án
liên quan và trọng điểm nhà nước:
- Công trình thoát nước thải hồ yên sở : cọc móng , tấm đan, bê tông
thương phẩm với giá trị doanh thu đạt trên 10.000 triệu đồng.
- Công trình hệ thống cống thoát nước của thành phố: cống hộp,
cống tròn, các loại.
- Khu di dân 7,2 Ha Vĩnh phúc quận ba đình hà nội Panel, bê tông
trộn sẵn.
- Khu thể thao quần ngựa
- Khu liên hợp thể thao mễ trì.
- Khu đô thị mới bán đoả linh đàm: cọc móng, bê tông trộn sẵn.
- viện kiểm soát nhân dân tối cao: bê tông trộn sẵn
2. nhu cầu về máy móc của công ty:
Hiện nay cùng với nhiều sự đổi mới theo hướng đi lên của đất nước nói chung và
của công ty nói riêng bắt buộc ban lãnh đạo của công ty cần phải có sự nhìn nhận và tư
duy để thay thế để mua sắm máy móc mới hiện đại. Ngoài ra cũng phải hát triển thêm
hướng đầu tư sản xuất để công ty ngày càng phát triển mạnh hơn hiện nay.
- Công ty đang có nhu cấu thiết kế chế tạo và lắp ráp một cầu trục có
tải trọng nâng từ 10 đến 10 tấn và khấu độ khoảng 12m. Nhu cầu này được đặt ra
để phục vụ cho xí nghiệp bê tông đúc sẵn, mục đích chủ yếu là dể phục vụ cho
việc sản xuất ống cống ly tâm, và sản xuất cột điện ly tâm. đây là một hướng
phát triển mới của công ty.
- Một nhu cầu rất cần thiết nữa của công ty tự chế tạo ra máy cán
thép phục vụ cho xí nghiệp bê tông đúc sẵn, và cho ra được loại thép có đường
kính bát kỳ nào. Ngoài ra còn để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Để làm được
điều này công ty phải có sự lỗ lực rẩt lớn và đặc biệt là có đội ngũ kỹ thuật có
chất lượng cao.
- Hiện nay công ty đang có nhu cầu lắp đặt một dây chuyền sản xuất
cột điện ly tâm có kích thước chiều dài từ 18 đến 20m. Phục vụ cho các công
trình điện trong và ngoài nước, và đặc biệt là công trình thuỷ điện Sơn La đang
khởi công xây dựng sau khi hoàn thành sẽ cần một lượng rất lớn cột điện để dẫn
đi đến những nơi tiêu thụ.
- Một hướng phát triển và có tính đột phá của công ty là thành lập
một xí nghiệp mới đó là xí nghiệp xây dựng. Chính vì vậy hướng phát triển chủ
yếu hiện nay của công ty hiện nay là đầu tư và xây dựng. để phục vụ cho hướng
phát triển mới này của công ty, thì công ty có nhu cầu rất lớn về việc mua sắm,
tự sản xuất và thuê mượn máy mọc phục vụ cho xây dựng.
3. Phương pháp tổ chức, bảo quản,vận chuyển, bảo dưỡng và sửa chữa
máy:
Về bảo quản:
Trong công ty có một đội ngũ công nhân lành nghề với nhu cầu sản xuất rất lớn.
Máy móc trong công ty phải luôn đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Vì vậy vấn đề bảo
quản máy móc trong công ty là rất quan trọng. Cho nên công ty luôn có sự quan tâm về
vấn đề tổ chức quản lý bảo quản máy móc, qua đó máy móc luôn được phân định rõ
ràng những loại máy làm việc ngoài trời và có định không thể di chuyển được thì luôn
có sự che chắn những bộ phận rễ bị hư hỏng để tránh mưa nắng, đảm bảo được sự ổn
định chống gió bão....
Đối với những máy móc có khả năng di chuyển được thì sau khi làm việc, được
lau cùi sạch sẽ và đưa vào nơi thông thoáng không ẩm thấp và có mái che. Những loại
máy móc làm việc ở nơi có mái che được để ở những nơi cao thoáng để làm việc và
không ẩm thấp. Sau khi sử dụng xong máy luôn được lau chùi sạch sẽ và để vào nơi qui
định.
Về vấn đề bảo dưỡng sữa chữa máy móc:
Công ty luôn có một đội ngũ chịu trách nhiệm bảo dưỡng và sửa chữa máy móc,
và dưới sự quản lý của xí nghiệp cơ khí. Qua đó máy móc luôn được bảo dưỡng định kỳ
và luôn được sự kiểm tra tránh sự làm việc quá tải. Máy móc khi bị hỏng, nếu hỏng các
chi tiết đơn giản thì được sưau chữa lại máy. khi cần chế tạo thì được đi chế tạo ngay tại
xí nghiệp cơ khí trong đó có tổ cơ khí rất lành nghề. đối với các chi tiết phức tạp thì lôn
được cán bộ kỹ thuật nghiên cứu và tìm ra phương án khắc phục đúng nhất. Nếu chi tiết
có thể sửa chữa được thí sẽ được làm và chế tạo ngay tại công ty. Nếu không thì đặt
hàng tại nơi khác hoặc thay thế cái mới.
Khi máy hỏng những bộ phận không thể sửa chữa được trong công ty thì phải
thuê thợ sửa chữa, chữa bên ngoài có chuyên môn nghề nghiệp.
Về việc vận chuyển máy:
Máy móc trong công ty luôn được vận chuyển dựa vào con người và thiết bị
trong công ty là chủ yếu. Với những máy móc gọn nhẹ tải trọng không quá lớn, kích
thước không cồng kềnh được dùng xe cảu để cẩu., nếu khoảng cách xa thì được đưa lên
xe tải có kích thước thùng lớn, để vận chuyển đến, sau đó lại dùng cẩu đặt vào nơi quy
định.
Những máy móc có kích thước lớn và trọng lượng lớn thì được đội ngũ thợ sửa
chữa tháo rỡ từng bộ phận của máy và dùng cẩu kết hợp với xe tải chở đến nơi quy định
và được lắp ráp lại như ban đầu. Để làm được công việc như vậy nhanh nhẹn và chính
xác luôn có một cán bộ kỹ thuật và cán bộ công ty chỉ đạo trực tiếp chính vi vậy việc
vận chuyển máy móc trong công ty luôn được tiến hành đúng và chính xác kịp thời.
IV. Quy trình một dây chuyền công nghệ thi công cơ giới của một công trình
cụ thể:
Hiện nay trong công ty có một số dây chuyền công nghệ thi công bằng máy móc.
Nhưng trong đó rất đáng quan tâm là dây chuyền công nghệ máy ép gạch Block. Đây là
một dây chuyền công nghệ khá mới mẻ ở Việt Nam. Nó mang tính kỹ thuật cao và chế
tạo rất chính xác từ khâu thiết kế máy cho đến sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, và đặc
biệt có tính năng sử dụng vượt trội, và toàn bộ cơ cấu trong máy là dẫn động bằng thuỷ
lực nên rất êm và hiệu quả.
Đây là loại máy có hai hệ điều khiển đó là điều khiển tự động và điều
khiển bằng tay. Thông qua các nút bấm sơ dồ nguyên lý của máy thể hiện trong hình
bên.
Xét nguyên lý hoạt động của máy:
Máy có các bộ phận chính là: thùng nạp liệu, thùng dẫn vật liệu, khuôn trên,
khuôn dưới, bộ gây xung điện, bộ gây xung khuôn dưới, khung máy và bộ phận di
chuyển máy.
Ban đầu thùng nạp liệu(1) được đưa xuống phía dưới để vật liệu từ đó đưa
vào trong thùng, sau đó được hệ thống xi lanh thuỷ lực(2) đưa lên đến sát miệng thùng
dãn vật liệu(3) sau đó đóng thùng được 1 Xi lanh thuỷ lực đặt ở phía dưới cùng làm mở
ra, và vật liệu bên trong được xả vào thùng dẫn vật liệu(3)đã có vật liệu bên trong đi vào
khe giữa khuôn trên và khuôn dưới, lúc này khuôn trên (5) và khuôn dưới (6) đã được
tách rời từ khi kết thúc chu trình trước. Từ đó vật liệu được đưa vào các khe trong
khuôn dưới. Và khuôn dưới (6) lúc này đã nằm sát mặt đất.
Sau khi xả xong vật liệu thùng dẫn liệu được đưa về vị trí ban đầu. Sau đó hệ
thống xi lanh thuỷ lực (1) đưa khuôn trên (5) xuống áp sát vào bề mặt trên của vật liệu
trong khuôn dưới (6). Đồng thời xi lanh (1) ép chặt xuống và bộ gây rung khuôn trên (8)
và bộ gây rung khuôn dưới (9) rung làm cho vật liệu rần chịu ép, vừa chịu lực rung nên
bị ép chặt xuống.
Sau đó toàn bộ hệ thống khuôn trên và khuôn dưới được kéo lên nhờ hai hệ
thống xilanh thuỷ lực (7) và (10) lúc này gạch đã được làm xong và nằm sát mặt đất,
sau đó sẽ được điêu khiển di chuyển lên nhờ bộ phận chuyển động xích, và điều khiển
bằng hệ thỗng xi lanh thuỷ lực. Hai khuôn được tách ra, khuôn dưới liền sát mặt đất,
khuôn trên được đưa lên cao và kết thúc một chu trình hoạt động của máy.
a. Nhận xét và kiến nghị, về tổ chức quản lý điều hành xử lý kỹ thuật;
1. nhận xét và kiến nghị về tổ chức:
Đối với việc tổ chức của toàn bộ công ty thấy rằng công ty có một khâu tổ chức
khá chặt chẽ. Trong công ty mọi vấn đề về việc tổ chức được tổ chức từ phòng tổ chức
của công ty mà người nắm quyền cao nhất là ông Nguyễn văn Dung. Nhờ khâu tổ chức
chặt chẽ mà mối liên hệ giữa các phòng ban xí nghiệp trong công ty luôn có sự thống
nhất, rõ ràng.
Các xí nghiệp, phòng ban được tổ chức chặt chẽ từ cấp dưới đến cấp trên. Đối
với một cuộc họp toàn công ty thì giám đốc công ty là người chỉ đạo và đặt ra nhiệm vụ
cho phòng tổ chức, sau đó phòng tổ chức sẽ đưa ra
đề cương cho buổi họp và thông qua bởi giám đốc công ty. Phòng tổ chức chịu
trách nhiệm thông báo cho những cán bộ trong công ty mà sẽ phải có mặt trong cuộc
họp nên ai vắng mặt sẽ thông báo lại và có sự kiểm điển trách nhiệm của bản thân điều
nay sẽ được giám đốc công ty xem xét, và đưa ra kết quả cuối cùng.
Về vấn đề tổ chức con người trong công ty đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của
phòng tổ chức và đã có sự sắp xếp về mặt con người khá hợp lý nhưng vẫn có những
điều không nên có vẫn để có sự hẹp hòi cá nhân len lỏi vào trong công việc, sắp xếp con
người chưa đúng chuyên môn mà họ có, chuyển vị trí mà những người mà chỗ làm việc
đó họ không được khuyến khích chỉ với mục đích cá nhân. Ngoài ra vấn đề tổ chức còn
có chỗ chưa chặt chẽ trong việc tổ chức đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật tập huấn
kỹ thuật của máy móc mà công ty trang bị, khâu tổ chức sơ sài dẫn đến việc coi thường
và lơi lỏng việc học của một số người. Mà đáng nhẽ ra họ chính là những người đáng
phải quan tâm đầu tiên và là người đi đầu vì đây là trách nhiệm phải thực hiện.
Về khâu tổ chức kỹ thuật trong công ty đã có riêng một phòng kỹ thuật chịu trách
nhiệm về mặt kỹ thuật của toàn bộ công ty mà trưởng phòng là phó giám đốc Nguyễn
Thị Thanh Bình, trong đó mặt kỹ thuật của công ty được tổ chức phân cấp rõ ràng và
được phân chia nhiệm vụ cho từng xí nghiệp.
Sau đó sẽ được báo cáo lại để trưởng phòng kỹ thuật nắm được và được trình lên
giám đốc công ty. Công ty cũng đã thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn về kỹ thuật
máy móc, ngoài ra mỗi một quý còn có một buổi họp nhận xét về những vấn đề đã đặt
ra và chưa đạt được về mặt kỹ thuật mà đối tượng tham gia là các tổ trưởng đến giám
đốc các xí nghiệp.
Nói chung vấn đè tổ chức trong công ty tương đối tốt, cần phải có một người
quản lý về mặt tổ chức riêng biệt, không nên để một con người làm hai nhiệm vụ sẽ gây
nên sự chồng chéo. Tổ chức bố trí con người thật đúng không nên đưa ra những quyết
định có tính chất công việc mà không đúng với khả năng người ta có thể phát triển được
lên không phát huy được điều gì cả. nên có một người khi có việc xảy ra để luôn luôn
theo dõi và kiểm tra vê thái độ thực hiện công việc. Cần phải đưa ra cách tổ chức chặt
chẽ hơn, đặc biệt trong cuộc họp bàn luận về mặt kỹ thuật.
2. Về mặt quản lý:
Công ty có hệ thống quản lý chặt chẽ từ giám đốc công ty cho đến các xí nghiệp
và các ban nghành. Quá trình hoạt động của các xí nghiệp luôn được sự theo dõi và xem
xét của cán bộ kỹ thuật và của cả giám đốc công ty. Mỗi mảng chính được phân chia rõ
ràng và bầu ra những cán bộ quản lý có đủ tư cách trách nhiệm và năng lực quản lý trực
tiếp mọi lúc trong quá trình sản xuất của các xí nghiệp.
Giám đốc công ty luôn nắm bắt được toàn bộ hoạt động sản xuất và kỹ thuật xảy
ra từng ngày trong công ty. Nhưng mặt khác vẫn có sự lơi lỏng vê mặt quản lý, một số
người trong thời gian làm việc tự ý đến những phòng ban khác để chuyện trò đến khi
người khác có việc đột xuất cần đến thì lại phải đi gọi, đi tìm điều đó sẽ gây ảnh hưởng
tới công việc, tạo nên một trạng thái không tốt khi làm việc và thái độ thiếu nghiêm túc
trong công việc.
Tại mỗi xí nghiệp luôn luôn có một cán bộ chịu trách nhiệm kiểm tra lượng lao
động có trong ngày tại các tổ, điều náy sẽ ảnh hưởng đế công ty và tới chính bản thân
họ, sự theo dõi đó sẽ được tổng hợp lại và tổng kết vào cuối mỗi tháng..
Về mặt quản lý máy móc, công ty đã phân rõ ràng cho từng xí nghiệp, mỗi xí
nghiệp quản lý một số lượng máy móc phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất của xí
nghiệp nhr hưởng đến thu nhập của công ty. Vấn đề quản lý máy móc của công ty rất
hợp lý và rễ phân loại máy.
Công ty nên có sự quản lý chặt chẽ hơn tất cả các mặt khác nói chung và của mặt
kỹ thuật nói riêng. Nên đưa những người có trình độ thực sự về quản lý nên nắm giữ,
không nênphân biệt tuổi tác vì đây là một rào cản lớn ở các doanh nghiệp với vốn đầu tư
là nhà nước. Cần áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ và có trọng điểm.
Có chế độ thưởng phạt rõ ràng tạo nên sự công bằng cho dù người đó là ai trong
công ty. Không nên quản lý con người về mặt thời gian quá thời gian làm việc. Cần
phải đề xuất để họ tự nguyện. Tránh sự lợi dung quyền để ép buộc và áp đặt cho cán bộ
công nhân cấp dưới phải làm theo ý kiến của bản thân.
Luôn phải quản lý máy móc một cách chặt chẽ vì đây là năng lực sản xuất
xương sống của công ty, để luôn nắm được tình hình sử dụng hiện nay của máy, nên
máy hỏng có thể biết được đội ngũ cán bộ kỹ thuật trong công ty sửa chữa được hay
không. Ngoài ra nên quản lý máy theo một tiêu chuẩn nhất định và phân tích thật cụ thể
trước khi đưa vào thực hiện.
3. Về việc điều hành:
Giám đốc công ty là người điều hành cao nhất luôn luôn chỉ đạo cán bộ cấp dưới
đó là các phó giám đốc, và từ đó nhiệm vụ được chuyển đến giám đốc các xí nghiệp.
Khi đó sản xuất của các xí nghiệp lại hoạt động trở lại....
Các phòng ban trong công ty luôn được giám đốc công ty điều hành chung và
thông suốt những công việc mang tính phục vụ cho nhau.
Ngoài ra công ty còn phân cấp quản lý điều hành cho các phòng ban và xí nghiệp
và luôn có sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc công ty. Đây là hình thức điều hành công
ty mang tính công nghiệp cao. Trong đó lực lượng lãnh đạo có kinh nghiệm và có
chuyên môn cao, tầm suy nghĩ rộng nên quá trình điều hành luôn có sự thông suốt luôn
luôn được đi theo một mạch và không ngắt quãng.
Chẳng hạn về máy móc mỗi xí nghiệp, phòng ban chịu trách nhiệm điều hành
một lượng máy móc. Giám đốc công ty luôn là người đưa ra quyết định khi cần điều
động máy móc đi nơi khác phục vụ cho những công trình bên ngoài công ty.
4. Về vấn đề xử lý kỹ thuật:
Kỹ thuật là mặt đặc biệt quan trọng đối với một công ty mà sản phẩm làm ra là
bê tông xây dựng, chính vì vậy công ty luôn co sự giám sát rất chặt chẽ của phó giám
đốc công ty Nguyễn Thị Thanh Bình là người chịu trách nhiệm mặt kỹ thuật trong công
ty. Nên khi có sự cố kỹ thuật luôn được phát hiện ngay để xử lý. Ngoài ra công ty còn
có một đội sửa chữa gồm những cán bộ kỹ thuật nhiều kinh nghiệm và đội ngũ những
công nhân lành nghề luôn được điều động khi cần thiết.
Nhưng còn những thiết sót trong quá trình sản xuất, có những thợ phải làm
không đúng nghành, bị chỉ bảo làm mọi việc khi cần, chưa có nhiều những cán bộ kỹ
thuật chất lượng cao, vãn phải đi thuê bên ngoài vào sửa chữa, còn khá nhiều phản ảnh
năng lực sửa chữa chưa toàn diện. Công nghệ xử lý kỹ thuật không mang nhiều tính hợp
lý, với sự tư duy hẹp. Xử lý kỹ thuật vẫn chưa triệt để tận gốc nên có những lúc phải xử
lý nhiều lần. Kỹ thuật xử lý vẫn chưa mang tính kỹ thuật cao do thiết bị đơn giản, công
nghệ lạc hậu.
Công ty nên trang bị thêm cho đội ngũ cán bộ kỹ thật những công nghệ hiện đại
mới mẻ mà trong công ty họ không có điều kiện để học hỏi. Nên tham khảo thật kỹ
trước khi đi vào xử lý
đối với những loại máy hiện đại của nước ngoài luôn tìm ra phương án hợp lý
nhất. Kiểm tra độ yêu cầu mà máy móc cũ có. Xử lý thật chính xác những bộ phận có
độ chính xác cao.
b. kết luận và cảm tưởng sau đợt thực tập:
Sau đợt thực tập tại công ty Bê tông và xây dựng Vĩnh Tuy thấy rằng đây là một
công ty mới bắt đầu đi lên sau khoảng hơn hai năm trở lại đây, máy móc trong công ty
vẫn còn khá khiêm tốn nhưng sau hơn hai năm mà mua sắm được lượng máy móc như
vậy là một ván đê má khó công ty nào hoặc một doanh nghiệp nào có thể đạt được.
Điểm này đã nói lên rằng công ty đang có một giám đốc có trình độ kỹ thuật và trình độ
quản lý rất tốt. Công ty ký được nhiều hợp đồng sản xuất do đó mức lương ngày càng
được nâng cao. đi theo nó tạo nên sự hăng say làm việc để làm ra những sản phẩm có
chất lượng cao.
Ngoài ra công ty đang có nhu cầu rất lớn về sản xuất như lắp đặt thêm một dây
chuyền đúc ly tâm để sản xuất ra cột điện và thành lập thêm xí nghiệp bê tông đúc sẵn2
để phân ra một xí nghiệp chuyên đúc các loại cầu kiện tròn và cống hộp và một xí
nghiệp chuyên đúc ra các loại sản phẩm khác như tấm Panel, cọc...
Một hướng phát triển của công ty và đây là hướng phát triển đặt lên hàng đầu của
công ty là thành lập thêm xí nghiệp thứ năm là xí nghiệp xây dựng và sẽ phát triển theo
hướng xây dựng do công ty có những điều kiện thuận lợi, nên cung cấp được toàn bộ
vật liệu cho các khuôn từ nền móng, ván khôn, bê tông đúc sẵn, bê tông thương phẩm
và cán bộ kỹ thuật xây dựng.
Mặt khác cũng có một hướng đàu tư mới mẻ tận dụng măt bằng rộng lớn sẵn có
của công ty chưa dùng đến đem cho các doanh nghiệp khác thuê mặt bằng sản xuất và
kinh doanh. Nói chung toàn bộ công ty đang đi vào một guồng máy sản xuất và kinh
doanh để đạt được mục tiêu lớn mạnh và phát triển tầm cỡ .