Có nên uống axit folic để chuẩn bị

mang thai?

Trong khi có thai, ngoài chế độ dinh dưỡng thai phụ cũng cần dùng đến các

loại thuốc bổ để hỗ trợ thêm sức khỏe cho mẹ và thai nhi. Thai phụ nào cũng

mong muốn con mình sau này sẽ khỏe mạnh, cao lớn, thông minh. Vì thế họ

luôn nghĩ đến việc phải tẩm bổ trong thời kỳ mang thai.

Tuy nhiên, không phải thuốc bổ nào cũng cần thiết cho thai phụ, nên việc sử

dụng thuốc rất quan trọng, cần phải có chỉ định của bác sĩ và trước hết phải

bảo đảm an toàn sức khỏe cho cả mẹ và thai nhi.

Các thuốc bổ thường dùng cho phụ nữ có thai là viên sắt, acid folic, canxi,

magiê B6, polyvitamin…Trong đó, viên sắt và acid folic là không thể thiếu

cho phụ nữ có thai.

Sắt là thành phần quan trọng của huyết sắc tố, nếu thiếu hụt sắt kéo dài sẽ

gây rối loạn quá trình sinh hồng cầu và dẫn đến thiếu máu. Trong thời kỳ

mang thai, sắt rất cần thiết cho sự phát triển của thai nhi, nếu thiếu sắt sẽ dẫn

đến thiếu máu làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của thai, thai nhẹ cân.

Acid folic rất cần thiết cho hiện tượng phân chia tế bào của thai nhi, vì vậy

ngoài việc tham gia vào quá trình tạo tế bào hồng cầu, acid folic còn giúp

ngăn ngừa tình trạng khiếm khuyết ống thần kinh ở thai nhi. Do đó, nên

dùng acid folic (vitamin B9) trước khi có thai 3 - 4 tháng và trong khi có

thai, kéo dài cho đến hết quý 1 của thai kỳ (3 tháng đầu).

Vì vậy, AloBacsi có lời khuyên cho các bạn nên uống bổ sung sắt ngay từ

khi có ý định mang thai và kéo dài cho đến sau sinh 3 tháng để cung cấp đầy

đủ lượng sắt cho cơ thể giúp phòng ngừa thiếu máu, thiếu sắt cho cả bà mẹ

và thai nhi.

Trước đây, mang thai luôn được xem là nguyên nhân làm cho bệnh viêm cầu

thận mạn nghiêm trọng thêm, nên đã có quy định người bị bệnh này không

được mang thai, nếu có thai cũng phải bỏ. Tuy nhiên, khoảng hai thập niên

lại đây, qua nghiên cứu, người ta thấy rằng người bệnh viêm cầu thận mạn

vẫn có thể sinh đẻ. Điều này phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh.

Viêm cầu thận mạn tính là bệnh có tổn thương tiểu cầu thận, tiến triển từ từ,

kéo dài nhiều năm. Bệnh biểu hiện lâm sàng là phù, abumin và máu trong

nước tiểu. Bệnh có thể làm giảm chức năng thận với biểu hiện huyết áp tăng

cao, ambumin niệu, urê và creatinin trong máu tăng cao.

Viêm cầu thận mạn nếu chỉ có albumin niệu, huyết áp không cao, urê máu

vẫn bình thường thì bệnh vẫn ở mức độ nhẹ. Trường hợp này, nếu mang

thai, bệnh vẫn ổn định, trẻ ra đời có thể không bị ảnh hưởng gì. Nếu trong

thời gian mang thai có đủ các triệu chứng: albumin trong nước tiểu, tăng

huyết áp, urê máu tăng cao là bệnh ở giai đoạn cuối, đã nặng. Việc mang

thai ở giai đoạn này là quá nguy hiểm, tiên lượng rất nặng.

Vì vậy, sau khi có thai, người phụ nữ phải nghỉ ngơi hoàn toàn để giảm nhẹ

bệnh và ngăn ngừa sự phát sinh thêm triệu chứng. Vào những tháng cuối,

nằm nghiêng, đề phòng tình trạng tử cung đè vào động mạch chủ làm lưu

lượng máu cung cấp cho thận và tử cung giảm đi. Nếu không có dấu hiệu

tăng urê máu, chỉ có lượng lớn albumin niệu thì phải ăn thức ăn giàu đạm

như trứng, thịt, cá, đậu các loại. Khi có tăng urê máu, tăng axit uric máu,

nước tiểu có albumin và tăng huyết áp, điều trị tích cực mà không thuyên

giảm thì phải phá thai sớm.