NGÂN HÀNG PHẢI NHẬP CUỘC
Khối nợ xấu có thể tháo gỡ nếu NHNN tạo ra một cơ chế vận
hành năng động và giới ngân hàng có cái tâm gắn bó, san sẻ,
hy sinh quyền lợi trước mắt để giúp kinh tế phục hồi.
Trăm dâu đừng đổ đầu tằm!
“Việc thành lập công ty mua bán nợ mới chỉ dừng ở mức độ
nghiên cứu, chưa trình Chính phủ và nếu công ty này ra đời, cũng
không cần đến 100.000 tỉ đồng để xử lý nợ xấu vì NHNN sẽ sử
dụng nhiều công cụ tài chính. Khi mua bán, giá dựa trên giá chiết
khấu, có tính đến yếu tố trích lập dự phòng rủi ro” - quyền Chánh
thanh tra NHNN, ông Nguyễn Hữu Nghĩa, khẳng định trong buổi
gặp mặt báo chí vào cuối tuần trước.
Có thể ngành ngân hàng không cần nhiều tiền đến thế để giải quyết
nợ xấu, nhưng vẫn cần tiền ở mức độ nào đó. Và dù con số là bao
nhiêu, tiền ấy cũng xuất phát một phần từ ngân sách, từ tiền đóng
thuế của dân. Trong khi ngân sách còn bội chi, có nên đẩy thêm
gánh nặng lên vai người đóng thuế? Chắc chắn là không nên.
Nợ xấu một phần là hậu quả của lỗi cơ chế chính sách tồn đọng lại.
Không phải bây giờ người ta mới biết có nợ xấu. Nó tồn tại trong
nhiều năm, nó là sự tích lũy, dồn tụ của cả một thập niên tăng
trưởng tín dụng nóng. Một phần của nó do ngân hàng tạo nên. Ông
Nghĩa nói rằng “ngân hàng không phải tác giả của nợ xấu”. Nếu
ngân hàng thẩm định dự án chính xác, giải ngân theo đúng quy
trình quản trị rủi ro, liệu nợ xấu có giảm thiểu không? Có chứ. Sẽ
công bằng hơn khi nhận định nợ xấu là kết quả của cả cơ chế chính
sách, của hiệu quả sử dụng vốn vay chưa tốt từ khách hàng và quản
trị chưa đúng tầm của ngân hàng.
Phải biết hy sinh
Người ta đang bàn thảo đến các phương thức xử lý nợ xấu, nhưng
chưa có ý kiến nào nói đến nghĩa vụ, trách nhiệm và sự hy sinh
quyền lợi trước mắt để có một tương lai ổn định lâu dài của ngành
ngân hàng. Tương lai bền vững là cho ngân hàng, vì ngân hàng,
nên ngân hàng không thể không xắn tay áo vào cuộc.
Động thái đầu tiên nên chăng các ngân hàng hy sinh lợi nhuận để
đảm bảo an toàn hệ thống bằng cách giảm nhanh lãi suất cho vay,
kéo dần lãi suất đầu ra về mức 12-13%/năm nhằm giúp doanh
nghiệp tiêu thụ được sản phẩm và trụ lại được. Đây là sự hỗ trợ
thiết thực và để đổi lại, doanh nghiệp phục hồi, dần khỏe mạnh, sẽ
“nuôi” ngân hàng. Thực chất, ngân hàng có thể giảm lợi nhuận
ngắn hạn, nhưng lợi nhuận ấy không mất đi, nó sẽ được bù đắp
bằng lợi nhuận dài hạn ở thì tương lai.
Kế đó, cũng không ai khác ngoài ngân hàng có thể giảm nhanh nợ
xấu bằng cách trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn. Thay bằng hạch
toán lợi nhuận cao, chia cổ tức cao, hãy trích dự phòng tối đa có
thể. Giả sử mỗi ngân hàng trích thêm 500-1.500 tỉ đồng dự
phòng/năm, thậm chí những ngân hàng nhỏ cũng ráng trích thêm
100-200 tỉ đồng, thì mỗi năm sẽ có thêm khoảng 30.000 tỉ đồng để
tự xử lý nợ xấu. Số tiền này cộng với 67.300 tỉ đồng dự phòng hiện
có, đủ để đưa nợ xấu về con số không trong vòng 4-5 năm. Chỉ cần
các cổ đông, các chủ ngân hàng đồng lòng thời gian đó không có
cổ tức.
Trích lập thêm dự phòng có khả năng tác động đến nguồn thu thuế
từ các tổ chức tín dụng. Song, không nên quên rằng nguyên tắc thu
của thuế là có lãi thực mới thu. Ngoài ra, thống kê từ nhiều năm
qua cho thấy lợi nhuận của ngân hàng tăng trưởng khá đều và phần
tăng trưởng có thể bù đắp cho phần thu thiếu hụt từ trích lập dự
phòng thêm. Thí dụ lợi nhuận năm ngoái của ngân hàng A là 2.000
tỉ đồng, năm nay là 3.000 tỉ đồng, thì phần tăng thêm 1.000 tỉ đồng
dùng để trích lập thêm dự phòng sẽ không ảnh hưởng đến nguồn
thu thuế vì mức thuế nộp vẫn tương đương năm trước. Nhìn vào số
tuyệt đối, nguồn thu thuế sẽ không hụt.
Trong khi đó việc trích lập dự phòng thêm sẽ tạo điều kiện cho
ngân hàng mạnh tay trong đòi nợ, có thời gian thanh lý tài sản thế
chấp ở mức giá hợp lý, tạo nên nguồn thu những năm sau. Tất
nhiên những nguồn thu nếu có này cũng thuộc đối tượng nộp thuế,
sau đó phần còn lại sẽ thuộc lợi ích cổ đông. Lọt sàng xuống nia,
bỏ cái trước mắt, lấy cái lâu dài, ngân hàng có thể không mất hoặc
mất ít nhiều tiền bạc, nhưng thay vào đó, họ có được một giai đoạn
“tĩnh tâm”, nuôi dưỡng khách hàng cũ, tìm khách hàng mới, tạo
dựng sức cạnh tranh.
Trích lập thêm dự phòng rủi ro đến đâu thuộc thẩm quyền của mỗi
ngân hàng. Có quy định phân loại nợ theo định lượng và định tính.
Đâu cần đợi thời gian vay quá hạn mới trích dự phòng. Tháng này
ngân hàng cho vay, tháng sau nhận ra khách hàng có nguy cơ
không trả được nợ, dự phòng có thể được trích lập ngay để đảm
bảo an toàn. Luật pháp khuyến khích, cho phép, chỉ cần trích đúng
và trích đủ.
Có một điều nhạy cảm là màu cờ sắc áo ngân hàng. Lợi nhuận sau
trích lập thấp, cổ tức thấp, sức hấp dẫn của cổ phiếu ngân hàng có
thể loãng bớt. Bởi thế mới có chuyện ngân hàng “phải biết hy
sinh”.