54
HOÀNG TUẤN PHỔ



NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN “TRẠNG”
HOÀNG TUẤN PHỔ?)

(: ở đâu như Việt Nam, thật lắm “Trạng”?! Ngoài trạng Quỳnh còn trạng Lợn, trạng Án, trạng Vật, trạng Gũ, trạng HỘt,... Ủ nhiên, cặc “trang” này không ai đồ trạng nguyên, cho nên họ không được gọi là “ông trạng” hay “quan trạng” mà chỉ cộc lốc một tiếng “trạng”. Họ cũng không phải do tài học xuất chúng, được nhân dân tôn vinh là “trạng”. Như trạng Quỳnh cũng có đi học, đi thị, chứ trạng Lợn thì chữ “hạ mã” đọc thành chữ “bất yên”, câu “thiên tích thông minh, thánh phù công dụng” lại hoá ra “thiên tếch thông manh, thánh phù chõng gọng”! Các nhân vật khác được gọi là “trạng” đều không dính dáng gì đến văn chương chữ nghĩa như trạng Ăn với tài ăn, trạng Vật với tài đấu vật, trạng Cờ với tài đánh cờ Vậy “trạng” là gì? Là người có “tài”, nhưng tài này không nhất thiết phải là chữ nghĩa văn chương như người ta thường hiểu. Nói cho đúng cái tài của loại “trạng” như trạng Quỳnh, trạng Lợn không phải là thực tài, thường do dối phương bị lỡm, bị lừa mà trở lên được nổi tiếng, hoặc bởi sự ngẫu nhiên, tình cờ mà thành kẻ tài danh. Dẫu tính cách khác nhau, trạng Quỳnh và trạng Lợn vẫn có điểm giống nhau, cái chung nhất là tài nói đối, nói dối mà y như thật. Trạng Quỳnh nói dối cả vua, cả chúa khiến họ phải nhịn đói chờ ăn
'? Hội Văn nghệ Thanh Hoá.
“mâm đá”, bị mất con mèo tam thể ngay trước mắt v.v... Cái lối nói dối như thật của Trạng Lợn cũng rất tài như chuyện giả làm thầy bói, chuyện mua lợn, v.v... Chính trạng Quỳnh đã bịa đặt, hư cấu, sáng tạo ra nhân vật “trang Lột” để đánh lừa kế hiếu kì, người tò mò. Với nhân vật “trạng” này, dân gian cho biết quan niệm của họ về “danh hiệu” “trạng” đầy tính bỡn cọợt, khôi hài. Cho nên, trong thành ngữ dân gian, ngoài câu “nói dối như cuội”, còn có câu “nói như trạng”, hoặc chỉ vắn tắt hai từ “nói trạng”. “Nói như trạng” hoặc “nói trạng” là khoác lác, ba hoa, đối trá, bịa đặt... y như thật. :
Trước đây, một số nhà nghiên cứu đã bàn về ý nghĩa cái cười, tiếng cười trong truyện cười dân gian, nó là mục đích hay là phương tiện. Thực tế cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống thôn quê tăm tối ở thời kì chế độ phong kiến suy tàn, rất cần tiếng cười, cái cười, mọi lúc, mọi nơi không thể thiếu tiếng cười, cái cười. Tuy nhiên, tôi cho rằng đối với người bình dân, tiếng cười, cái cười vừa là mục đích, vừa là phương tiện. Đối với truyện cười dân gian, nó không đơn giản chỉ nhằm gây cười như câu ca dao dân gian:
Hòn đất là hòn đất bhôn
Có nói chuyện Ì. thì đất mới lên!
Hay dùng tiếng cười để đả kích kẻ thù giai cấp:
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mềần như ma!
Đặc điểm truyện tiếu lâm là đâm và tục bên cạnh những yếu tế khác như cường điệu, hiểu lầm,... Truyện “Thầy đồ nếm mật” cũng sử dụng chữ nghĩa, song chữ nghĩa chỉ là cái dân gian mượn để gây cười, để làm bật lên tiếng NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



cười. Khác truyện tiếu lâm chỉ là sáng tác của thuần tuý nông dân lao động, truyện trạng có sự tham gia của một bộ phận học trò Nho đứng về phía nông dân lao động, làm cho tiếng cười, cái cười sinh động hơn, biến báo hơn với nội dung sâu sắc hơn, trí tuệ hơn, do đó ý nghĩa châm biếm, đả kích sâu sắc, mạnh mẽ hơn, và lắm khi khá quyết liệt.
Dân gian xây dựng nhân vật cười trạng Quỳnh và trạng Lợn đều nổi tiếng hay chữ. Chỗ khác nhau của hai nhân vật này, trạng Quỳnh có họe, còn trạng Lợn vô học. Song, dù vô học hay có học, hai “trạng” đều dùng chữ nghĩa, mượn chữ nghĩa để thể hiện tài năng của mình. Tất nhiên, trạng Quỳnh có học, chữ nghĩa phải khác trạng Lợn vô học. Chữ nghĩa, văn chương trạng Quỳnh thường dem dùng chủ yếu vào câu đối và thơ, là hai thể tài mà bất cứ học trò chữ nho nào cũng được thầy đồ dạy bảo, rèn cặp rất sớm. Rất ít câu đối và thơ chữ Hán. Đa số là câu đối nôm và thơ nôm xen chữ. Trình độ văn chương ở loại câu đối cũng như thơ của trạng Quỳnh không đủ chứng tỏ học lực của một ông cống (cử nhân). Tác giả của loại câu đối và thơ ấy đều ở trình độ học trò. Ví dụ: Chuyện trạng Quỳnh đến xin học quan Bảng. Quan Bảng ra câu đối: “Thằng quỷ ôm cái đấu đứng cửa khôi nguyên”. Trạng Quỳnh dối lại: “Con mộc dựa cây bàng dòm nhà bảng nhãn”. Về mặt chiết tự thì được, nhưng “on mộc” không thể đối với “thằng quỷ”, thứ nhất: thất luật, thứ hai: quan Bảng gọi Quỳnh là “thằng quỷ”, mà Quỳnh xưng là “con mộc” để đối lại thì hoàn toàn vô nghĩa và tất nhiên không thể thích hợp. Hay như đôi câu đối chữ Hán: viên sứ Tàu đọc: “Sấm động Nam bang” mà Quỳnh chọi lại “Vũ quá Bắc hải”, khí văn hơi yếu trong khi câu của
sứ Tàu khá mạnh. Thực tế, những chuyện xin học quan Bảng, chọi lại sứ Tàu đều là chuyện bịa. Điều muốn nói ở đây là trình độ tác giả của những câu đối ấy chưa đạt đến mức như người ta thường ca ngợi, nghĩa là tác giả cũng “xoàng” thôi, cũng không tránh khỏi tình trạng “xuất đối dị, đối đối nan” như all
Căn cứ sự đối đáp giữa Quỳnh với Điểm thì tài học của Điểm hơn Quỳnh nhiều. Quỳnh vì bị thua kém một cô gái muốn trêu ghẹo không được mới nảy ra ý trả thù. Như thế là cái tài học của Quỳnh hoá ra tài hèn, vì những xuất đối của Điểm: “Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy đái đỏ hồng hồng”, “Da trắng vỗ bì bạch”, “Trướng nội vô phong phàm tự lập”,... đều là “xuất đối dị”. Mặt khác, một cô con gái có học hành, có giáo dục như Điểm, tại sao văn chương thô tục đến vậy? Toàn bộ câu chuyện Quỳnh - Điểm bộc lộ tính gán ghép, một mảng chuyện như vốn mang kết cấu riêng.
Thơ Quỳnh thì nôm na, bình dân đến mức cũng khó tin là của một ông cống, nếu chuyện kể bỏ chữ “cống”, chỉ một chữ “Quỳnh” hoá ra lại phù hợp. Thơ tạ ơn chúa Liễu, thơ “nắng cực” đều mang yếu tố dâm và tục của tiếu lâm, kể cả cách kết cấu có đầu, không cần kết, khi tiếng cười bật lên là hết chuyện. Cách nói lái thơ trạng Quỳnh giống cách nói lái thơ Hồ Xuân Hương, nhưng thơ Hồ Xuân Hương hơn hẳn thở trạng Quỳnh về nghệ thuật. Và cách nói lái dĩ nhiên là cách nói dân gian cũng được sử dụng trong truyện trạng Lợn. Những bài thơ “Nửa đêm giờ tí trống canh ba”, “Cõi Bắc anh mang thằng củ lắng” của trạng Quỳnh đều dâm và tục như truyện tiếu lâm và cũng lấy chất đâm và tục để tạo dựng nên tiếng cười như tiếu lâm. HOÀNG TUẤN PHỔ

Vì là sáng tác dân gian, Trạng Quỳnh không phải là truyện của một người, một thời đại, một địa phương. Nó có đấu ấn Thanh Hoá nhưng không phải tất cả. Từng mẩu chuyện không phải được sáng tác ngay trong thời vua Lê, chúa Trịnh đang sống, hay hoàn chỉnh ngay dưới chế độ phong kiến suy tàn Lê - Trịnh. Theo phương thức chung của sáng tác dân gian, truyện Trạng Quỳnh cũng như truyện Trạng Lợn là công trình tập thể của nhiều thời đại và trong từng mẩu chuyện không phải bao giờ cái tên nhân vật được gọi là trạng Quỳnh cũng được đặt ra ngay từ đầu. Sự định hình hoá, văn bản hoá truyện Trạng Quỳnh từ đầu thế kỉ XX của các nhà in Hàng Bồ, Hàng Gai, Văn Minh,... làm cho người đọc ngày nay quên mất cái gốc gác của từng mẩu chuyện và khó hình dung nổi cái hình hài thuở ban đầu của chúng. Nhà in định hình hoá, văn bản hoá, không chỉ là sưu tầm, biên soạn mà còn chỉnh lí, bổ sung, thêm mắm muối làm cho các cá thể trở thành nhất thể hoá một nhân vật trạng Quỳnh.
Ö Thanh Hoá từ xưa, người Mường và người Kinh đều lưu truyền phổ biến truyện thằng Quậy. Khi sưu tầm, biên soạn để in thành sách, thằng Quậy biến va thằng Cuội. Cũng chẳng khác gì trạng Quỳnh vốn là trạng Quềnh. Từ “quềnh” ở Thanh Hoá tương tự từ “khoèo” ở Bắc Bộ, đều chỉ một loại dị tật ở tay, chân khiến “quềnh” và “khoèo” trông bộ dạng đã rất tức cười. Cho nên nhân vật hể chèo thường mang tên “Khoèo” và nhân vật cười của truyện cười trước hết phải được đặt cái tên hài hước phù hợp với tính cách nhân vật, đủ nói lên tính cách nhân vật như “Quậy”, như “Quềnh”. Các nhân vật “trạng” khác cũng vậy, đã là trạng cười thì cái tên không thể nghiêm
chỉnh, phải cười ngay từ cái tên, ngay từ cái tên đã đáng cười rồi: trạng Lợn, trạng Ăn, trạng Vật, trạng Cờ, trạng Bột, trạng Lột,.. Sau khi “Quềnh” đã tiêu chuẩn hoá thành “Quỳnh” thì truyện vay mượn những tên tuổi có thật để tăng tính hấp dẫn cho truyện là điều dễ hiểu —- Những tên tuổi có thật như Bảng Đoàn, cô Điểm, vua Lê Bảo Thái chúa Trịnh, sứ Tàu... chẳng những làm cho truyện thêm phong phú, sinh động mà còn như những lời, ý cam đoan đây là câu chuyện có thật trăm phần trăm. Chính do vay mượn nên cái tên Cống Quỳnh, nghĩa là nhân vật Quỳnh với học vị cử nhân trở thành thừa. Vì thế, ở nhiều truyện kể, người ta không hề nhắc tên Cống Quỳnh, chỉ gọi độc tiếng Quỳnh cũng chẳng phương hai gì.
Trạng Quỳnh được rèn luyện trong cửa Khổng, sân Trình, nổi tiếng “hay chữ” nên biết dùng và sính dùng chữ nghĩa thánh hiền vốn thiêng liêng đến mức ai vô ý, lỡ chân dâm lên tờ giấy có chữ còn sợ “phải tội”, thế mà Quỳnh dám đem sử dụng vào chuyện “lỡm quan thị”, toàn những chuyện dâm ô, tục tĩu, uế tạp“, Điều này chứng tỏ gì, nếu không phải là truyện Trạng Quỳnh, nhân vật trạng Quỳnh có những mẩu chuyện phản ánh thời kì đạo học suy đổi, chữ nho “rẻ quá bèo”?
Tính phản phong của truyện Trạng Quỳnh rất mạnh, đã kích quyết liệt giai cấp phong kiến, hạ bệ cả vua lẫn chúa. Đối tượng đả kích, đả phá của truyện Trạng Quỳnh không còn bị giới hạn trong luy tre làng như truyện tiếu lâm, khiến một số nhà nghiên cứu cho rằng ý thức hệ giai cấp của truyện Trạng Quỳnh không phải là nông dân mà là thị dân, chỉ giai cấp tư sản thành thị mới có cái
(Xem tiếp trang 49) 42
NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN... (Tiếp theo trang 56)
nhìn thấu tìm gan quan lại, vua chúa. Sự thực, không ít mẩu chuyện, nếu thay đối tượng đã kích vua chúa, quan lại bằng địa chủ, phú nông, chánh tổng, lý hương lại phù hợp với nội dung hơn. Cho nên ý thức hệ giai cấp hay tính giai cấp đấu tranh trong trạng Quỳnh, trạng Lợn vẫn là nông dân, dù là nông dân có sự tham gia của lớp học trò nho. Lớp học trò này xuất thân từ nông dân, rốt cuộc vẫn là nông dân, vì họ không đủ sức tiến thân để vượt qua khỏi giai cấp nông dân của mình.
Đã thấy rõ trạng Quỳnh không thể là nhân vật của một thời đại, một địa phương, tất không thể truy tìm gốc tích, lai lịch nhân vật là ai đó, ở nơi nào đó. Việt Nam không chỉ có một trạng cười là trạng Quỳnh. Những trạng cười khác, tuy cũng được cụ thể hoá về tính danh, quán chỉ, nhưng tất cả đều mang tính phiếm chỉ. Không may cho trạng Lợn, ông có tên thật là Chung Nhi, sinh ra tại một làng quê ở Hà Nam, nhưng không có ai nhận ông là cụ tổ nên không được nổi danh ecä trong và ngoài nước như trạng Quỳnh. Do xuất thân của ông không được “cao sang” như trạng Quỳnh chăng? Dù sao ông cũng là “trạng”, kém gì ai? Không may cho ông mà lại hoá may cho ông, phải không ông trạng Lợn? Ông đã là người của dân gian, mãi mãi sống trong lòng dân gian, cần gì phải đúc tượng, lập đền, phải có “hậu duệ” để hưởng thừa tự!)
H.T.E (1) Những chuyện như chữ "ngoạ sơn"
giải nghĩa là "ngáy đèo" đều chung một ý này.
(*) Bài đã In trên Xứ Thanh, Thanh Hoá, số Xuân Nhâm Ngọ, 2001.