NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9



NGH NHÂN DẪN GIAN
NGUYỄN XUÂN KÍNH


HH ĐC” “ẮI!
ĐIÊU KHẮC GỖ CỦA NGHỆ NHÂN LÊ TUÝ (THỪA THIÊN - HUẾ)
I - VĂN HOÁ DÂN GIAN VÀ NHỮỪNG ĐIÊM CHUNG CUA CÁC NGHỆ NHÂN DÁN GIAN XƯA NAY
Văn hoá dân gian bao gồm toàn bộ văn hoá vật chất và tỉnh thần của dân chúng, liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống dân chúng. Các lĩnh vực đó rất phong phú. Đó là việc sản xuất ra của cài vật chất, từ phương pháp, công cụ đến quy trình của mọi ngành sản xuất như sản xuất nông nghiệp, sản xuất thủ công nghiệp, sản xuất công nghiệp, dịch vụ xã hội,... Đó là sinh hoạt vật chất của dân chúng, từ phương tiện đến cách thức trong việc ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh. Đó là mọi mặt của phong tục, tập quán gắn với các tổ chức của cộng đồng người từ nhỏ tới lớn (gia đình, gia tộc, phe,
'!.G8. TS. Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian,
= R) k3 &'”:
giáp, thôn, xã,... dân tộc). Đó là mọi mặt sinh hoạt tỉnh thần như đạo đức, thị hiếu, tín ngưỡng, tôn giáo, học tập, vui chơi, giải trí, hội hè, văn nghệ.... Đó là trì thức về tự nhiên cũng như về xã hội của dân chúng và các trì thức liên quan tới các ngành nghề, kĩ thuật, kĩ xảão.... Đó là tư tương, tình cảm của đân chúng, nhận thức về thế giới, về nhân sinh, về mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh và môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội... `
Người sáng tạo, lưu giữ. trao truyền và hưởng thụ văn hoá dân gian là dân chúng. Nói đến dân chúng là nói tới rất nhiều người
đân, trong sô đó có người
KG TA ⁄1 2
thông mình, tài khéo bên sanh người chậm chạp, thô vụng: có người tốt, lại cũng có người chưa tốt; có người tiến bộ, lại cũng có người lạc hậu... Nghệ nhân dân gian chính là những người ưu tú nổi trội trong làng xã, trong phương hội, trong từng lĩnh vực của văn hoá dân gian. Dù các nghệ nhân dân gian sống ở những địa phương khác nhau, ở những thời gian khác nhau, đù có người còn được lưu tên tuổi, có người không còn được nhắc nhở, dù những cảnh ngộ riêng tư khác nhau nhưng họ đểu có những điểm chung.
1. Thứ nhất, họ là những người có năng khiếu, có khả năng hơn những người khác
Đành rằng, kể chuyện, kể vè, ca hát, nói vần,... - những hoạt động văn nghệ này không hề xa lạ với hàng vạn, hàng triệu người dân thuở trước:
Chợ nào chợ chăng có quà Người nào chăng thuộc một uà bốn câu 10
NGUYÊN XUÂN KÍNH
————ễễ—.
Chợ nào chợ chẳng có cau Người nào chẳng biết uài câu huê tình”. Nhưng nghệ nhân dân gian trong lĩnh vực văn nghệ là những người nổi trội hơn. Họ có trí nhớ có thể chứa được “những câu ví vặt chất ba gian đình”. Họ có giọng hát hay, có tài ứng đối linh hoạt””. Trong dân gian đã có lời ca ngợi tài hát của Trương Chi, người nghệ nhân sống dưới thời quân chủ xa xưa: Ngày xưa có anh Trương Chi Người thì thật xấu, hát thì cực hay!
Còn đây là sự thán phục của người dân Nghệ Tĩnh trước tài hát giặm bẻ vẻ của dì Tương, một nghệ dân sống ở nửa đầu thế kỉ XX:
Lên uoi múa búa
Lên ngựa múa dây cương
A¡ nhắc chuyện dì Tương
Bốn phương trời chuyển động ”'.
Trong lĩnh vực sơn quang đầu, vẽ nét truyền thống, do thông minh và khéo tay, mặc dù còn ở tuổi vị thành niên, nghệ nhân Bùi Văn Vệ (sinh năm 1916, người làng Cát Đằng, tỉnh Nam Định) càng ngày càng gây được cảm tình và sự nể trọng của các bác phó cả, phó hai. “Có những lần sau khi hoàn thành tốt công việc, làng vào đám khánh thành những đồ khí tự mới, trong những mâm cỗ thưởng cho phường thợ khéo, chú Vệ đã được các cụ “mời cậu phó trẻ ngồi cùng mâm trên”, mâm áp vách, lọt vào giữa chỗ các bác phó già với các chức sắc cao
nhất trong làng").
2. Thứ hai, ở họ thường có sự tiếp nối giữa các thế hệ trong một gia đình, dòng họ
. Ở Thạch Hà (Hà Tĩnh), Đồ Sĩ (tức Sĩ Đường) là người có tài hát giặm. Ông đã
từng đứng dưới lá cờ khởi nghĩa Cần Vương của cụ Phan Đình Phùng (1844 — 1895), đã đặt nhiều bài vè ca ngợi cụ Phan và binh sĩ. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông về làng mở lớp dạy chữ nho cho trẻ con và tiếp tục cùng gái trai tổ chức những đêm hát giặm. Ông đi hát ở đâu, thường đem con đi theo. Được cha bày vẽ, cậu con trai vốn bản tính thông minh, chẳng bao lâu cũng nổi tiếng về tài hát giặm. Người làng gọi cậu là “Đồ S1 con”. Cả làng Đồng Lưu và các làng khác trong huyện Thạch Hà đều tôn cha con ông “hát vào bậc thánh"?”.
Nghệ nhân Ngao sinh năm 1921, mất năm 2000, thuộc và hát kể rất nhiều sử thì của người Ba Na. Bà là con cháu một dòng họ xưa rất giàu có ở Kon Tum. Ông ngoại bà vốn là người Kinh (ở Bình Định), còn bà ngoại bà là người Ba Na, rất giỏi hát kể sử thi),
Nghệ nhân Bùi Văn Vệ nổi tiếng ở Nam Định về sơn quang dầu, vẽ nét truyền thống. Ông nội và cha đẻ ông là những thợ sơn đã từng được tuyển vào kinh đô Huế, Nguyễn. Mỗi lần trẩy kinh như vậy, những người thợ sơn phải làm việc liên
phục vụ vương triều
tục trong nửa năm ròng, từ đầu năm đến giữa năm, hoàn thành đủ và đẹp những đồ tế tự và đồ gia bảo cho nhà vua. Ông nội và cha ông đều đã dược vua nhà
- & 3 ¬ sở = h 1 Nguyễn ban tặng cửu phẩm văn giai”.
Nghệ nhân thêu Lê Văn Kinh (sinh năm 1981 tại Huế), hiện vẫn đang hành nghề tại Huế. Năm 1958, tác phẩm của ông tham gia triển lãm tranh thêu tổ chức tại New York. Cuộc triển lãm này có 40 nước tham gia. “Ông Kinh đã đem đến NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
l1
=7 —E _ ........
nước Mĩ hình ảnh một Việt Nam “Bất khuất” (tên tác phẩm) qua chân dung anh hùng dân tộc Trần Bình Trọng mặc chiến bào, cưỡi sư tử ra trận”? Người thày dạy nghề rất mực nghiêm khắc của ông không phải ai khác mà chính là thân phụ —- cụ Lâ Văn Hới, một nghệ nhân thêu giỏi có tiếng thời Nguyễn ở kinh đô Huế, đã từng được nhà vua phong Hàn lâm viện. Thời cụ Hỡi, thợ thêu phải tự nhuộm chỉ theo công thức riêng; công phu đến mức, để có màu vừa ý, người thợ phải xử lí chỉ qua cả hàng chục công đoạn khác nhau. Để có được cây kim láng, mảnh như ý, người thợ phải mài lấy những chiếc kim được rèn từ làng Mậu Tài vừa nhám, vừa to. Phải trải qua bao nhiêu công đoạn cầu kì, tỉ mỉ mới có thể ra được tác phẩm thêu. Vậy mà cụ Hỡi yêu cầu con trai không được phép hỏi, chỉ nhìn mà tự hiểu rồi làm lấy, mà nắm lấy bí quyết của nghề. Ông Lê Văn Kinh và người em gái út Bích Đàn đã học được bí quyết nghề nghiệp của thân phụ. Hiện nay, ông Kinh đã vượt qua tuổi “xưa nay hiếm”, song đã có người con gái thứ của
ông tiếp tục nghề cha”.
Còn có thể dẫn ra nhiều trường hợp khác để minh chứng cho sự tiếp nối truyền thống nghề nghiệp trong một gia đình.
Đó là nghệ nhân điêu khắc, chạm nổi Nguyễn Viết Lâm, người con của làng nghề gò đồng Đại Bái (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Ông được thân phụ là nghệ nhân Nguyễn Viết Phấn rèn cặp từ thuở ấu thơ. Lên 7 tuổi, ông đã biết giúp
cha chạm hoa văn, rồng, phượng!)
Đó là nghệ nhân dệt tơ tằm, làm nón thúng quai thao Nguyễn Thị Dằng. Cụ sinh năm 1921, là người làng Triều Khúc, nay thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Anh chị em cụ đã được thân phụ là nghệ nhân Nguyễn Hữu Dị truyền nghề với câu nói thường xuyên: “Dạy cho các con một thì các con phải biết phát triển nhiều nghề. Đấy mới là tỉnh, là giỏi?)
Đó là nghệ nhân làm hoa giả Mai Hạnh nổi tiếng gần xa. Chị sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống về thủ công mĩ nghệ ở Hà Nội. Mẹ chị là cụ Đàm Thị Thái, một nghệ nhân làm hoa
z _a Aể 14 lụa có tiếng.
Đó là nghệ nhân Nguyễn Lân Tuyết với nghề làm quạt tranh nghệ thuật. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, song chị lại là người gốc Tràng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Tràng Sơn là một làng có nghề làm quạt lâu đời. Cha chị là cụ Nguyễn Đức Lân, nghệ nhân làm quạt mĩ nghệ nổi tiếng một thời”).
Đó là cụ Nguyễn Văn Quẹn (1909 — 1999), một nghệ nhân đúc đồng Ngũ Xã (Hà Nội). Trong số bốn người con, người con thứ hai của cụ, ông Nguyễn Văn
Quyền là người nối nghiệp nghề cha.''”
Đó là gia đình nghệ nhân khảm trai Nguyễn Văn Tố. Cụ sinh ra và lớn lên tại vùng chiêm trũng Chuyên MI, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Cụ được học nghề theo lối cổ tại nhà theo cách thức cha truyền con nối. Hiện nay, “con trai và cháu cụ Nguyễn Văn Tố, nhờ thừa hưởng được nghề khẩm của cha ông, của quê hương, nên cũng trở thành những tay
nghề có thứ hạng trong làng khảm”®'?. 12
NGUYỄN XUÂN KÍNH
————==— ——. ca
3. Thứ ba, họ là những người có lòng say mê nghề nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp, có phẩm chất tốt được cộng đồng mến phục, tỉn yêu
Như trên đã viết, hai cha con Đồ Si "hát vào bậc thánh”. Họ rất say mê ca hát. Dù vẫn phải làm việc ban ngày, dù đời sống vật chất chẳng dư dật, dù hát chẳng bao giờ được trả thù lao như các ca sĩ bây giờ, nhưng “hai cha con cứ đi hát ròng rã suốt đêm này qua đêm khác”. Thời con gái, bà vợ ông Đồ Sĩ cũng mê hát giặm, nhưng sau khi đã có chồng con thì bà rất bực mình vì sự quá đam mê của họ. *Dạo ấy, đang mùa thu hoạch vụ chiêm. Suốt ngày lăn lộn ngoài đồng. đêm về cha con Đồ 6ï vẫn đi hát, có hôm hát đến gần sáng mới trở về, ăn vội vàng rồi đi ra đồng. Bà tức lắm. Một hôm, bà vẫn để nguyên cái nổi trên bếp, nhưng trong nồi không có hạt cơm nào. Tan cuộc hát, gà đã gáy canh năm, quen như những lần trước, hai cha con về và bê nồi cơm ra ăn. Nhưng nổi nhẹ tênh, mở vung, hoá ra nôi không. Ông Đồ 8ï biết vợ chơi xỏ bố con. Thôi, đành vậy, để cho yên chuyện, hai cha con nhịn đói, lặng lẽ ra đồng làm việc. Khi thức đậy, nghe nói chồng con đã vác hái, đòn xóc đi gặt, bà tức giận, nhưng lại cảm thấy thương. Bà vội rửa rổ khoai, bắc nồi luộc, mang ra đồng cho cha con ăn. Bà nói mát: “Đi hát no rồi chứ
£ * Ä + ~ xí 1B cần gì phải ăn nữa!"
Một trong những nơi nghe hát kể sử thi của những người Ba Na hai làng Kon Tum Kơnâm, Kon Tum Koơpỡng là nhà nghệ nhân Ngao. Ngôi nhà sàn của nghệ
nhân này thuộc loại cao ráo, lâu đời. Bên
bếp lửa luôn luôn âm ỉ than hồng trên sàn nhà, dân làng đến nghe hát kể sử thi có thể nằm, ngồi tuỳ ý. Có đêm, chỉ có vài ba người gồm trẻ em, người già. Tuy vậy. số người nghe thường khá đông, có đêm khoảng mười ngươi, lại có đêm đông hơn nữa, ngồi chật cả sàn nhà. Do đã nghe quen và thuộc một số đoạn, một số người đến chỉ để ngồi xa xa hóng chuyện. Có người tới chỉ để được im lặng trong sự đông đúc, đầm ấm của cộng đồng lúc về đêm. Người nghệ nhân luôn luôn cảm nhận được sự yêu mến của dân làng đối với mình. Vì thế, bà thường đồn hết hơi sức, rất tận tâm mỗi khi cất giọng. Người Ba Na ở thị xã Kon Tum đã quen giọng hát kể sử thi của nghệ nhân Ngao từ mấy chục năm nay. Có cụ bà gần như trở nên nghiện, tối nào cũng khoác khăn đến nhà bà Ngao, dù có được nghe hát kể hay không cũng vậy. Trong lúc hát kể, nghệ nhân và các khán, thính giả say sưa bên nhau. “Giữa người hát kể và người nghe không có khoảng cách, mà cùng hoà nhập vào diễn biến của cốt truyện tác phẩm. Nghệ nhân có thể nằm hoặc ngồi. Người nghe thường ra về khi kết thúc một tác phẩm sử thi, dù cho đêm đã rất khuya. Cũng có người ngủ lại, sáng sớm mai ra về. Những sử thi dài phải hát kể vài ba đêm mới hết, người nghe có thể đêm sau lại tới nghe tiếp. Ở đây, sự phục vụ của nghệ nhân là vô tư, tự nguyện. Ngược lại, ngươi nghe cũng không phải bận tâm gì lắm đến việc đền bù công sức cho nghệ nhân. Có chăng, đó là tấm lòng yêu mến, trân trọng mà người ta dành cho con người đã dồn cả tâm trí, sức lực ngâm hát cho mình nghe mà thôi”.® NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
13


Anh chị em nghệ nhân Nguyễn Thị Dằng sống với cha mẹ và được học nghề đan dệt thủ công từ nhỏ. Chính sự say mê sáng tạo và bàn tay vàng của cha mẹ đã truyền lại nghề cho anh chị em cụ. Gia đình cụ luôn làm các mặt hàng kĩ nghệ và lấy chữ fín làm trọng. Hàng của cụ được nhiều nơi biết tiếng cũng vì gia đình cụ biết giữ niềm tin với khách
(20)
hàng.
Đúc rút lại cuộc đời “kim nghiệp” của mình, nghệ nhân Lê Văn Kinh cho biết: “Nếu không yêu nghề đến đam mê thì không thể trở thành một thợ thêu thực thụ". Ông đau lòng khi một số tranh thêu hiện nay thiếu vắng cái hồn, được thực hiện một cách cấu thả. Những bức tranh này có thể làm cho ai đó nặng lòng với nghề thêu có thể lầm tưởng rằng, nghệ thuật, trình độ thêu ở Huế chỉ có thế thôi sao? Hiện nay, dù tuổi đã cao, người thầy của 19 vạn học trò ấy vẫn đang mải miết truyền ngọn lửa “đam mê” trong tim mình cho thế hệ trẻ với một kì vọng rằng chính họ - những người kế tiếp sẽ lại ghé vai gánh vác trách nhiệm bảo tổn nghề thêu truyền thống đã đồng hành hàng
se . ` ¬ Js ZÌ trăm năm cùng dân tộc ””
. Trong buổi làm việc với biên tập viên Đài truyền hình TRT, một đài truyền hình ở Huế, nghệ nhân Lê Văn Kinh thêm một lần khẳng định: “Có yêu nghề, nhất là nghề đó lại do gia đình tổ tiên truyền lại thì dù có khó khăn trở ngại, không có lợi nhuận nhiều, không thay đổi vị thế trong xã hội thì vẫn đeo bám lấy nghề (...)”””. Ông tha thiết nhờ Đài TRT chuyển đề nghị lên các cơ quan hữu trách: Mùa thi của học sinh vượt cấp sắp xong, một số lớn thí
sinh không đạt tiêu chuẩn đến trường và không có khả năng tiếp tục học chuyên môn, cũng như thiếu vốn buôn bán đành phải làm thuê mướn qua ngày, và một số khác dễ rơi vào cạm bẫy tệ nạn xã hội. Nay nên quy tụ kể cả một số trẻ em khuyết tật, ông xin tình nguyện đào tạo các em thành thợ thêu đủ khả năng tay nghề để cung ứng cho các eơ sở đang thêu ø1a công tại các công ty nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan.,... với một điều kiện duy nhất là ông không nhận tiền thù lao hướng dẫn”.
Dưới chế độ cũ tổn tại quan niệm "Xướng ca vô loài”. Quan niệm này cho rằng nghề ca hát là nghề thấp kém nhất, những người theo đuổi nghề này thường
không có phẩm hạnh, đạo đức.
Thực ra, thành kiến này chỉ đúng với một số ít người, chẳng hạn như anh chàng Hà Ô Lôi đời Trần. Dân gian kể rằng cái anh chàng đen nhềm, không biết chữ, nổi tiếng vì trí thông minh và tiếng hát hay ấy, vì đã nhiều lần tư thông với con gái các vương hầu nên cuối cùng đã bị một kẻ quyền cao chức trọng kết liễu
1M. cuộc đời“).
Đại đa số dân ta trước kia không có thành kiến với nghề ca hát. Theo họ, tài năng và sự say mê ca hát bao giờ cũng gắn liền với đạo đức: _
+ Năng uì tình nghĩa mấy câu
Non cao là nghĩa bể sâu là tình.
+ Ai có chồng nói chồng đừng sợ Ai có Uợ nót Uuợ đừng ghen Tới đây hò hát cho quen Rang ngày mai ai uê nhà nấy, há dễ ngọn đèn hai tim. 14
NGUYÊN XUÂN KÍNH
——————ễễễEEễễ——
Các nghệ nhân của vùng dân ca Quan họ Bắc Ninh rất có phẩm cách. Cụ Phạm Văn Thà vốn là anh Ba Thà nổi tiếng trước Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) về hát Quan họ, cho biết: “Quan họ chúng tôi có đạo đức, tư cách như thế cho nên ngay các chức dịch, lí trưởng ngày xưa cũng phải nể và đối xử kính trọng chúng tôi. Dân thì rất quý Quan họ
2zm(35)
TÔI
Có không ít câu chuyện ca ngợi tấm lòng yêu nước, hành vi anh dũng của các nghệ nhân. Dưới đây chỉ là một thí dụ.
Đầu thế kỉ XV, khi giặc Minh xâm lấn, chiếm đóng, tàn hại đất nước ta, một nữ nghệ nhân là Đào Thị Huệ khi bị giặc bắt đã biết dùng thanh sắc và mưu trí để tiêu diệt giặc ngay tại sào huyệt của chúng. Bọn giặc này có thói quen ngủ trong túi gai để tránh muỗi. Mỗi tên một túi, cứ tối đến sau khi chui vào rồi, chúng lại sai nàng thắt túi cho chúng. Sau khi thắt chặt những túi gai, lợi dụng lúc chúng canh phòng sơ hở, cứ mỗi đêm, người ca nữ họ Đào lại lên ra mở cổng trại, đón trai làng đem những túi gai đó ném xuống sông Cái. Trong vòng một tháng, số giặc mất tích lên quá 700 tên, giặc Minh vừa sợ vừa tức, phải nuốt hận rút khỏi đất Đào Đặng.
Sau khi nàng mất, nhân dân Đào Đặng lập đến thờ và gọi thôn nàng ở là thôn Á Đào ở®),
Tóm lại, Nghệ nhân Dân gian là người dân ưu tú của mỗi cộng đồng cư dân, là người nổi trội hơn cả trong việc
lưu giữ, trao truyền và thể hiện những bí
quyết, kĩ thuật và nghệ thuật của văn
hoá dân gian.
II - SỰ TÔN VINH VÀ CHÍNH SÁCH ĐI NGỘ NGHỆ NHÂN DÂN GIAN, NHỮNG VIỆC ĐÃ LÀM VÀ NHỮNG VIỆC CẦN LÀM
1. Những việc đã làm
Trong các năm 1998, 1999, tại Xơun (thủ đô Hàn Quốc) UNESCO (Tổ chức Văn hoá, khoa học, giáo dục của Liên hợp quốc) cùng với Uỷ ban UNESCO quốc gia của nhiều nước tiến hành liên tục hai cuộc hội thảo, ghi nhận kinh nghiệm của các nước Thái Lan, Nhật Bản, Pháp, Rumanli, khuyến nghị các nước tôn vinh và có chính sách thoa đáng với các nghệ nhân. UNESCO gọi các nghệ nhân là những “Báu vật nhân văn sống” (Living
(27)
Human Treasures)
Nước ta hiện đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước phát triển trung bình. Song song với quá trình này, nước ta cũng đang tham gia vào quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá.
Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam phải chuyển đổi cơ cấu lao động. Chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng nào để thực hiện mục tiêu đến năm 2005, tỉ lệ lao động nông nghiệp còn 50% trong cơ cấu lao động chung của cả nước đang là một thách thức lón”””. Phát triển ngành nghề thủ công, đặc biệt là thủ công mĩ nghệ là một hướng cơ bản. Trong hướng đi này, các nghệ nhân đúc đồng, điêu khắc, làm
gốm, thêu tranh, sơn quang dầu vẽ nét NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
lõö


truyền thống,... có vai trò hết sức quan
trọng.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá, bản sắc văn hoá đân tộc lại càng cần thiết phải được gìn giữ và phát huy hơn bao giờ hết. Các nghệ nhân dân gian là người lưu giữ và phát huy cố hiệu quả cái hay, cái đẹp, cái duyên riêng của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Luật Di sản văn hoá (được Quốc hội nước Việt Nam thông qua vào tháng 6 năm 2001) cũng đã ghi rõ ở điều 26 rằng Nhà nước tôn vinh các nghệ nhân. Tuy nhiên, cho đến thời gian Luật Di sản văn hoá được phê chuẩn, ở nước ta chưa có danh hiệu cao quý nào tương xứng với cống hiến và phẩm chất đạo đức của các nghệ nhân, trừ danh hiệu “Bàn tay vàng” dành cho các nghệ nhân trong nghề thủ công. Như chúng tôi đã trình bày ở phần I[. văn hoá dân gian bao gồm rất nhiều lĩnh vực, vì vậy đúng như Giáo sư Tô Ngọc Thanh đã nhận xét, “danh hiệu “Bần tay vàng” không đủ sức thể hiện trí tuệ và tài năng của nghệ nhân mọi
x01
ngành
Năm 1978, Phó Giáo sư Ninh Viết Giao là một trong số những người đầu tiên dùng cụm từ Nghệ nhân Dân gian trong bài “Nghệ nhân Dân gian trong làng hát ví ở Nghệ Tĩnh” (Tạp chí Văn học, Hà Nội, số 4).
Trong quá trình chờ đợi Nhà nước quyết định những hình thức tôn vinh và thực hiện chính sách đãi ngộ xứng đáng, tháng 6 năm 2003, Ban Chấp hành Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam đã thông
qua Quy chế công nhận danh hiệu nghệ nhân dân gian của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Việc công nhận này nhằm tôn vinh tài năng sáng tạo, công lao giữ gìn, thực hành, truyền dạy giá trị, kĩ năng, bí quyết của văn hoá - văn nghệ đân gian các tộc người Việt Nam. Nghệ nhân Dân gian là người:
1. Nắm giữ và thực hành ở trình độ cao những giá trị, kĩ năng, bí quyết văn
hoá - văn nghệ dẫn gian.
2. Săn sàng và có khả năng truyền dạy toàn bộ hiểu biết của mình cho thế hệ trẻ.
3. Khi được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam yêu cầu, sẵn sàng cung cấp, thực hành, trình diễn những vốn hiểu biết của mình về văn hoá - văn nghệ dân
gian để Hội tiến hành sưu tầm, lưu giữ.

TRANH THÊU CỦA NGHỆ NHÂN LỄ VĂN KINH (THỪA THIÊN - HUẾ) 16
NGUYÊN XUÂN KÍNH
=——————=ễễễ——ễ———ốằề⁄ ốc ẶốỐỄ
Ngày 11 tháng 4 năm 2005, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã công nhận danh hiệu Nghệ nhân Dân gian (đợt l) cho 15 vị. Đó là những nghệ nhân ở Lai Châu, Lào Cai, Hà Tây, Hà Nam, Thừa Thiên - Huế, Ninh Thuận, Cà Mau, ở các lĩnh vực văn thơ và ca hát, làm và thả điều, nghề thêu, đúc đồng, điêu khắc gỗ, nhạc cụ và dân nhạc, nói trạng, thuộc các dân tộc Thái, Tày, Dao, Việt (Kinh), Chăm, Raglai. Có một nghệ nhân được truy tặng: bác Ba Phi, sinh năm 1884. Trong 14 vị còn hoạt động, người eao tuổi nhất là cụ Nguyễn Văn Khôi, sinh năm 1916. Ngày 18 tháng 4 năm 2003, lễ phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Dân gian cho ông Hoàng Thím (nghệ nhân nhạc cụ tính tấu) đã được tổ chức tại tỉnh Lai Châu. Ngày 3 tháng 5 năm 2003, lễ phong tặng năm vị nghệ nhân ở Thừa Thiên - Huế được tổ chức tại thành phố Huế. Ngày 4 tháng 6 năm 3003, lễ phong tặng các vị nghệ nhân của Hà Tây, Lào Cai, Hà Nam đã được tổ chức tại Hà Nội. Ngày 27 tháng 6 năm 2003, lễ truy tặng danh hiệu Nghệ nhân Dân gian cho bác Ba Phi (tức Nguyễn Long Phi) đã được tiến hành tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Theo kế hoạch, lễ phong tặng ba vị nghệ nhân của Ninh Thuận sẽ được tổ chức tại tỉnh này vào tháng 8 năm 2008. Tại các buổi lễ này, với sự có mặt của lãnh đạo cấp uỷ và chính quyển địa phương cùng đại diện các ban, ngành, của lãnh đạo Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, mỗi nghệ nhân được tặng bằng công nhận kèm 500.000đ, một huy chương Vì sự nghiệp uăn nghệ dân gian cùng 100.000đ. Do quy định của Bộ Tài chính, do khả năng kinh phí rất khiêm tốn của Hội, trong sự phong tặng này,
quyền lợi vật chất dành cho các vị nghệ Nhưng về mặt tỉnh thần, đây là sự động viên hết sức to lớn
nhân là rất nhỏ
không chỉ đối với từng nghệ nhân mà còn là sự cổ vũ, niềm vinh dự, tự hào đối với người thân, gia đình, dòng họ của nghệ nhân, là sự khuyến khích những người trẻ tuổi noi theo và tiếp nối sự nghiệp của những nghệ nhân già. Việc làm của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam được chính quyền sở tại đồng tình, các cơ quan thông tấn báo chí hoan nghênh, quan tâm, khai thác”,
2. Những việc cần làm ngay
Tầm nhìn và việc làm của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam là sáng suốt và rất đáng trân trọng. Song sự tôn vinh như trên là chưa tương xứng với các nghệ nhân.
Thiết tưởng, Quốc hội và Nhà nước cần đầu tư thích đáng vào việc gìn giữ và bảo vệ các Báu vật nhân văn sống, xây đựng luật bản quyển cho các bí quyết nghề thủ công, y được học cổ truyền, cho các tác phẩm trình diễn nghệ thuật dân gian. Xin được nêu một vài thí dụ cụ thể. Có một chuyên gia người Nhật muốn sưu tầm âm nhạc dân gian Việt Nam, đã hỏi các cân bộ nghiên cứu văn hoá nước ta rằng: Việt Nam đã có luật bản quyền cho các tác phẩm trình điễn nghệ thuật dân gian chưa? Khi được biết chưa có, ông ta rất vui vì sẽ không gặp khó khăn gì khi mang những tư liệu sưu tâm (băng hình, băng âm thanh) của mình về thể loại này qua cửa khẩu xuất cảnh. Nhưng ông này cũng bày tỏ sự ngại ngùng của mình về sự thiệt thòi của những người lưu giữ chúng - những nghệ nhân. Ở Nhật Bản 12)
họ được xem là tác giả ””. Sự trọng thị NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

==-Ặ————_ễ
các nghệ nhân hát kể sử thi ở nước ta không chỉ thể hiện ở việc bồi dưỡng các thù lao vật chất mà còn cần thể hiện ở chỗ đảm bảo thích đáng quyền lợi tỉnh thần. Không ai xem nhẹ công lao của các nhà chuyên môn, những người sưu tầm (là người dân tộc Kinh rất yêu mến văn hoá dân gian các dân tộc ít người, đã nhiều năm gắn bó với vùng sâu, vùng xa, đã từng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ Thế nhưng nếu không có các nghệ nhân
với đồng bào các dân tộc ít người).
thì những áng sử thi quý báu cũng sẽ không đến được với đông đảo bạn đọc trong nước và quốc tế. Thiết tưởng, trong các sử thi được xuất bản, các nghệ nhân cần được ghi nhận trang trọng cùng với người sưu tầm, biên dịch. Trong phần giới thiệu, cần nói rõ tuổi tác, trình độ học vấn, địa chỉ của nghệ nhân. Đáng tiếc, phần lớn các cuốn sách về sử thi đã công bố chưa làm được điều này. Không riêng gì đối với đồng bào dân tộc, đối với người Kinh, việc ghi rõ họ tên, năm sinh, địa chỉ của những người kể, người cung cấp tài liệu như nhóm soạn giả Văn học dân gian Sóc Trăng đã thực hiện không những thể hiện sự ứng xử văn hoá - khoa học của thầy trò Khoa Ngữ văn và Báo chí Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn (Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh) mà còn tạo nên niềm tin, sự hưng phấn gìn giữ và lưu truyền văn
2 4. . ¬ + ˆ _ (3 hoá đân gian ở các nghệ nhân”,
Nhà nước cần có phụ cấp hằng tháng, có chế độ bảo hiểm y tế cho các nghệ nhân được phong tặng.Ø
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 20035 Nx.E
(1) Định Gia Khánh (1989) Trên đường từm hiểu uăn hoá dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 19.
(2) Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bưu (1976) Hát uí đồng bằng Hà Bắc, Ty Văn hoá Hà Bắc xuất bản.
(3) Những giai thoại về dì Tương, Tiu
Hào, Nguyên Hạnh, anh Ba Thà,... đều thể hiện rõ điều này. (4) Bùi Văn Nguyên, Đỗ Bình Trị
(1974) Tư liệu tham khao uăn học Việt Nam, tập I, Văn học dân gian, phần l, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 182.
(5) Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (1969) Hát giặm Nghệ Tĩnh, Tập L, quyển thượng, tr. 193.
(6) Trần Thức (1987) “Bùi Văn Vệ - nghệ nhân sơn quang dầu, vẽ nét truyền thống”, Văn hoá dân gian, Hà Nội, số 3, tr. Tủ.
Về năm sinh của nghệ nhân Bùi Văn Vệ, chúng tôi căn cứ theo: Nguyễn Lan Hương (2000) Làng nghề sơn quang Cát Đằng, luận văn thạc sĩ, bảo vệ tại Viện Nghiên cứu văn hoá dẫn gian.
(7) Võ Văn Trực (1996) Những thị sĩ dân gian, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr. 165 - 167
(8) Phan Thị Hồng (2003) Đặc điểm nhóm sử thi dân tộc Ba Na (Kon Tum), tài liệu đánh máy chưa xuất bản, tr. 4.
(9) Trần Thức (1987) bài đã dẫn, tr. 73.
(10) và (11) Kim Oanh (2003) “Người thầy của 12 vạn học trò”, Thừa Thiên - Huế cuối tuần, số 181, từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, tr. 4.
(12) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000) Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội, Trung tâm Triển lãm văn hoá nghệ thuật Việt Nam xb, Hà Nội, tr. phụ lục, tr. 330.
(13) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), sách đã dẫn, tr. 340 — 342.
(14) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), tr. 364.
(15) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo
(2000), tr. 347. Về địa danh Tràng Sơn, có ý 18
NGUYÊN XUÂN KÍNH


kiến cho rằng phải là Chàng Sơn mối đúng (N.X.E).
(16) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), tr. 363. (17) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo
(2000), tr. 367.
(18) Võ Văn Trực (1996) sách đã dẫn, r. 187 - 168.
(19) Phan Thị Hồng (2003) tài liệu đã đấm, tz. đổ —- ấT.
(20) Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), sách đã dẫn, tr. 340.
(21) Kim Oanh (2003), bài đã dẫn.
(22) và (23) Theo tài liệu đánh máy mà nghệ nhân Lê Văn Kinh gửi theo đề nghị của chúng tôi (N.X.K).
(24) Xem truyện Hà Ô Lôi, trong sách Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh, REiều Phú soạn (thế kỉ XV), bản dịch của Nguyễn Ngọc San, Đình Gia Khánh.
(25) Nhiều tác giả (1972) Một số uấn đề bề dân ca Quan họ, Ty Văn hoá Hà Bắc xuất bản, tr. 272.
_ (26) Nhiều tác giả (1980) Hát cửa đình Lô Khê, Sö Văn hoá thông tin và Hội Văn nghệ Hà Nội xb, mục “Tiếng thơm ä Đào".
(27) Xin xem:
+ Đỗ Lan Phương (2002) “Chương trình văn hoá phi vật thê ở Việt Nam và việc bảo vệ Những báu vật sống của UNESCO, Nguồn sáng dân gian, Hà Nội, số 3, tr. 78 - 82.
+ Tô Ngọc Thanh (2008) “Bài phát biểu tại lễ trao băng công nhận danh hiệu Nghệ nhân Dân gian tại Huế”, Nguồn sáng dân gian, Hà Nội, số 2, tr. 68.
(28) Trần Công Huyền (2009) “Làng nghề với việc chuyển dịch cơ cấu lao động”, Nhân Dân, ngày 11 thắng 1, tr. 4.
(29) Tô Ngọc Thanh (2008), bài đã dẫn, tr. ĐE.
(30) Ở Nhật Bản, những nghệ nhân được tôn vinh là “Báu vật nhân văn sống” được Chính phủ cấp 500 USD mỗi tháng, mỗi năm về họp ở Tokyo một lần và được đích thân Thủ tướng ra chân cầu thang máy bay đón. (Tô Ngọc Thanh, bài đã dẫn, tr. 68).
(31) Thí dụ, sau buổi lễ trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Dân gian ở Hà Nội ngày 4 tháng 6 năm 9003, báo chí tiếp tục phỏng vấn, viết bài giới thiệu nghệ nhân, Đài Truyền hình Việt Nam về tận quê hương các nghệ nhân làm phim về họ,...
(32) Đỗ Lan Phương (2002), bài đã dẫn, bị. Ba,
(33) Chu Xuân Diên chủ biên (2002)
Văn học đân gian Sóc Trăng, Nxb Thành phế Hồ Chí Minh.