NGHIÊN CỨU* TRAO ĐỔI 2 6

NGHỆ THCIỘT KIẾN

TRÚC VÀ ĐIÊCI KHRC LĂNG Mộ THẾ KỈ

XVII, XVIII - TRCIỜNG HỢP LỒNG M ộ

PH0M ĐÔN NGHỊ

QUÁCH THỊ NGỌC AN

1. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc hết sức hệ trọng. Nhân dân ta rất trọng nơi "an nghỉ cuối cùng" này, có người còn sống nhưng đã tự chuẩn bị cho mình hoặc do con cháu lo trước cái gọi là "sinh phần", hoặc chí ít là một cỗ áo quan. Nhiều câu tục ngữ thể hiện tập tục ấy, như "sống nhà thác mồ", “sống về mồ về mả, không ai sống cả về bát cơm”, "không m ả đố ả lấm nên"... Họ xem đất, ngắm hướng rất kĩ, cho rằng nó quan hệ đến tiền đồ của con cháu, của dòng tộc, có đất phát khoa cử, có đất phát quan trường, cũng có đất khuynh gia bại sản... nên việc chôn cất không thể coi thường. Sự chuẩn bị cho nơi yên nghỉ cuối cùng của mình hay của người thân quả thật hết sức chu đáo. Do đó, đến nay, chúng ta có một loại hình di tích lăng mộ khá phổ biến với quy mô và lăng mộ thể kỉ XVII, XVIII giá trị khác nhau.

Người càng giàu sang, phú quý và có quyền lực thì việc chuẩn bị cho hậu sự càng

Lăng mộ là một loại hình di tích không chỉ có chức năng tưởng niệm người đã khuất, mà còn phản ánh nhiều khía cạnh: bối cảnh lịch sử, trình độ xã hội, nhân sinh quan, thế giới quan của người đương thời về sinh tử... Ngoài ra, việc xây cất lăng còn phản ánh các giá trị nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của triều đại đương thời. Nghệ thuật lăng mộ đã có sự kế thừa và phát triển từ nhiều thế kỉ trong suốt các thời kì lịch sử mĩ thuật cổ Việt Nam. Đây là loại công

lớn, lăng mộ càng được xây dựng công phu, đẹp đẽ và bền vững. Các vua chúa bao giờ cũng lo tất cả những việc này rất chu tất, có khi là ngay từ khi mới lên ngôi. Các quan lại cũng theo đó mà làm khi trong tay có đủ quyền lực và vật chất... Bởi vậy, ngày nay, nói đến lịch sử kiến trúc lăng mộ Việt Nam là phải nói đến các lăng mộ của vua, hoàng hậu, công chúa, quan lại các triều, vua đã từng tồn tại trên đất nước ta như Lý, Trần, Lê, N guyễn...

trình nghệ thuật tôn giáo, tín ngưỡng có bộ mặt đa dạng nhất trong thế kỉ XVII, XVIII, diện mạo của nó luồn thay đổi qua từng mô hình. Tuy vậy, số lượng lăng giai đoạn này còn lại tới nay không nhiều và ngay ở mỗi lăng, nhiều chi tiết, bộ phận đã bị thất lạc,

hư hoại.

Cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, đối với người Việt Nam, việc xây dựng mồ mà cho người đã khuất và lo “hậu sự” của bản thân ngay từ khi còn sống là một điều Phải từ thời Trần, kiến trúc lăng mộ mới hình thành dần, nhưng chỉ có thể nhận dạng qua dấu tích khảo cổ, qua tiềm thức dân địa phương và phần nào qua thư tịch. Trong các lăng mộ đời Trần, điêu khắc đá chủ yếu là tượng người, tượng thú chầu có vẻ đẹp trầm mặc và sinh động làm thần canh giữ cho thế giới vĩnh viễn cùa ông vua. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, tượng

2 7 TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011

thoải mái, lớn như thú thật, song dường như để ừang trí cho đẹp cảnh quan chứ không phải để chầu hầu.

trâu và chó ở lăng Trần Hiến Tông, tượng quan hầu ở lăng Trần Anh Tông là lối điêu khắc lăng mộ đầu tiên ở Việt Nam, mà cách tạo hình luôn gắn với sự xác định trong không gian quần thể kiến trúc lộ thiên.

Từ thế kỉ XV trở đi, nghệ thuật kiến trúc lăng mộ Việt Nam còn để lại những diện mạo thực của nó. Ở đó có khá đủ tượng được giữ nguyên vị trí từ ngày khỏi tạo. Các tượng quan hầu đều ở thế đứng chầu nghiêm trang, còn tượng thú, dù đứng hay nằm đều trong tư thế nghiêm túc, hai nửa cân đối gần như đăng đối. Có thể nói, tượng lăng mộ, dù là người hay thú đều gợi cành chầu hầu và canh giữ lăng mộ để tăng uy thế cho người nằm dưới mộ.

Bắt đầu từ thời Lê - Trịnh và nhất là

dưới thời Lê mạt, tượng lăng mộ của các quận công đều được làm lớn, ít nhất tương

Những tượng này đều bằng đá, mộc mạc, rất thực, hòa lẫn vào cảnh quan chung, tạo cho kiến trúc toàn cảnh như dành cho sinh hoạt của người sống chứ không phải lăng mộ của người chết. Do đó, mọi người có ấn tượng nhẹ nhõm về cái chết, không thê lương, không mất mát, đến viếng mộ tổ tiên hay người thân mà như đến thăm nhau, vì ở đấy vẫn còn hơi ấm cuộc sống. Không gian đặt tượng giai đoạn này vẫn là ở ngoài trời, trong các lăng mộ, song toàn bộ các thành phần kiến trúc và điêu khắc có thể không xếp thành hàng ở hai bên đường thần đạo, không theo một trật tự cứng nhắc. Điều đó gắn với tư thế tượng và biểu hiện một quan niệm triết lí riêng, số lượng và đề tài các tượng trong lăng mộ thời này không theo một quy định chặt chẽ nào.

Không gian ngôi chùa là để thờ Phật và phục vụ các lễ nghi tồn giáo, không gian ngôi đình dành để thờ thành hoàng làng và các sinh hoạt của cộng đồng làng xã, còn không gian của lăng mộ được tạo ra nhằm đáp ứng một nhu cầu hoàn toàn khác. Lăng

tự người thật trở lên. Lăng mộ các quan lại, dường như đều là thái giám, ở thời Lê - Trịnh có số lượng khá nhiều, điển hình như: lăng Quận Đăng, lăng Nguyễn Văn Nghi, lăng Quận Thạc (Thanh Hóa), lăng Nguyễn Công Triều, lăng Huệ Linh, lăng Hiển Linh (Hà Nội), lăng Vũ Hồng Lượng (Hưng Yên), lăng họ Ngọ, lăng Dinh Hương (Bắc Giang), lãng họ Đỗ, lăng Nguyễn Diễn (Bắc

Ninh), lăng Phú Đa (Vĩnh Phúc), lăng Phạm Huy Đĩnh (Thái Bình)... Ở đây, nếu quy mô

các lăng thời Lê sơ, dù của vua hay bà hoàng đều nhỏ, thì sang thời Lê - Trịnh, mộ là nơi tưởng niệm và an táng người chết, thường là những người có uy quyền và tiền tài trong xã hội. Họ cho xây lăng mộ vừa để đề cao uy quyền cá nhân, vừa đặt dấu ấn để thế hệ sau có nơi ghi nhớ và tưởng niệm. Lúc này, mỗi lăng mộ là biểu

tượng của một con người. Nó là hình thức tượng trưng cho một thế giới uy quyền như lúc chủ nhân nó còn sống.

lăng mộ tuy chỉ là của các quan thái giám, nhưng đã khá lớn. Và nói chung, cùng với quy mô lăng lớn lên thì kích thước các tượng cũng tăng theo, để giữ thế cân đối frong toàn cảnh. Trừ tượng quan hầu ở tư thế đứng nghiêm theo quy cách tuợng chầu

trong các lăng mộ từ thời Lê sơ, còn tượng các con thú đều trong tư thế nằm nghỉ rất Với một công trình kiến trúc cổ, vấn đề chọn hướng, vị trí và thế đất vô cùng quan trọng. Với lăng mộ, vấn đề này càng quan trọng hơn, vì lăng mộ không chỉ là không

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 2 8

vạn năm, “tiền án hậu chẩm” - núi án phía trước, núi gối phía sau, “chi lưu huyền

thủy” - nước chảy lặng lẽ, quanh co hình chữ chi;

3. Dựng cấu trúc lăng, tính tỉ mỉ bao

nhiêu hạng mục công trình: nơi thờ, bia, mộ phần với kích thước chi tiết; gian dành hoàn toàn cho người đã khuất mà còn liên quan đến người sống. Hướng gió, mạch đất, nơi đặt mộ, kĩ thuật chọn lựa áp dụng phong thủy và nhiều yếu tố khác được nghiên cứu vồ cùng chặt chẽ. Một ngôi mộ hội tụ đủ những yếu tố phong thủy làm cho người đã khuất được an lòng, xương cốt giữ được lâu bền hơn và con cháu trong dòng

họ sẽ được âm phù trợ, ban phúc.

4. Tượng người và thú từng đôi một sẽ được đặt hai bên thần đạo làm mô hình tiểu triều đình như khi vua còn sống, bản thân những tượng đó cũng là “thần” xua đuổi tà ma, chiến đấu cho người chết được an nghỉ;

“Xem xét các lăng mộ của vua, chúa, hoàng thân quốc thích, quan lại trong các thời kì lịch sử Việt Nam, có thể thấy hầu hết đều nằm trong hệ quy chiếu với các yếu tố phong thủy tiêu biểu:

1. Hướng 5. Đông kinh phía mặt trời mọc là nơi đô hội khi vua cai trị đất nước, Tây kinh phía mặt trời lặn nơi vĩnh hằng của các bậc đế vương” 2. Thủy (nước) [2, tr. 125 -126].

3. Tiền án, hậu chẩm (núi án phía trước,

núi gối phía sau)

4. Tả long, hữu hổ (gò đất hai bên công trình uốn lượn như hình rồng, hình hổ” [1, Tuy nhiên, từ các lăng vua thời Lê sơ ở Lam Sơn thế kỉ XV đến các lăng thời Lê - Trịnh, kiến trúc và điêu khắc đá của lăng mộ lại phát triển theo một đường hướng khác. Bối cảnh của xã hội Việt Nam thế kỉ tr. 17],

Nhưng, xét về mặt văn bản còn lưu truyền lại một cách rõ ràng về cách chọn đất đặt lăng mộ thì đến thời Lê sơ, điều này mới được viết rõ kèm với nhiều quy chế, định chế khác trong việc xây cất lăng mộ. “Là một triều đình chuyên chế, với nhiều tham vọng tạo ra nhiều mô hình thống nhất trong cương tỏa phong kiến, quy chế xây

XVII, XVIII là một giai đoạn lịch sử đặc biệt với nội chiến liên miên. Lí tưởng phong kiến suy sụp khiến tầng lớp quan lại thất vọng, tìm cách từ quan, hồi hương, lo cho hậu sự. Một trong số công việc họ thực hiện với sự đầu tư đặc biệt là xây dựng cho bản thân các lăng mộ kết hợp sinh từ. Do đó, đặc điểm của lăng mộ giai đoạn này không giống như lăng mộ các giai đoạn trước. Nếu xét những quy cách làm lăng mộ dựng lăng mộ thời Lê sơ được đặc biệt chú ý, chủ yếu gồm các đặc điểm sau:

1. Cân nhắc phẩm hàm của người quá cố để dự chi của cải cho việc xây cất lăng

mộ; từ các vua Lê sơ ở Lam Kinh, thì lăng mộ và sinh từ ba thế kỉ sau là XVI, XVII, XVIII có nhiều đặc điểm khác biệt. Trước hết, chủ nhân của chúng là quan lại, không

2. Thầy tướng, thầy địa lí qua ngày sinh ngày mất, tính toán chọn giờ tốt để đưa ma, hướng lăng và cảnh quan địa lí. Các nguyên tắc cơ bản là: “Vạn niên cát địa” - đất tốt được phép làm hoành tráng như vua chúa, lăng mộ không thể có núi chầu, núi án và sông suối bao bọc được. Mặc dù các lăng vua thời Lê sơ đều có cảnh quan sông núi

TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 2 9

quan lại cao cấp thời Lê - Trịnh, xây dựng

rất to và đẹp, nhưng bản thân các lăng mộ thì lại nhỏ bé khiêm tốn, trong khi lăng mộ

sinh từ là công việc được họ thực hiện từ khi còn sống. Tuy không nguy nga bề thế nhưng công trình lăng mộ kết hợp sinh từ giai đoạn này vẫn được bố trí theo chuẩn mực của một cung thất. Với đường thần đạo xuyên suốt từ cổng vào cuối quần thể lăng, các công trình kiến trúc đều được sắp xếp đăng đối hoặc cân đối theo lọi sắp đặt các

và sinh từ của các quan lại thời Lê - Trịnh tuy không có cảnh quan như vậy, nhưng quy mô thực thể của lăng mộ lại rất lớn; một số lăng mộ xây dựng quy mô như một cái thành trì nhỏ như lăng Bầu, lăng họ Ngọ (Bắc Giang), lăng Quận Châu, lăng Lê Thời Hiến (Thanh Hóa)... Như vậy, để thay cho yếu tố thiên tạo, mà các quan lại khó có thể lựa chọn và tạo dựng được thì họ dùng yếu tố nhân tạo.

hạng mục công trình trong hoàng cung. Xen kẽ với những kiến trúc đó, hai bên tả hữu là tượng hai hàng quân canh gác của triều đình gồm cả lính thú và quan hầu. Tất cả đều đúng vị trí, ngăn nắp, trật tự. Các quan hầu thì trang phục tề chỉnh, trang nghiêm, đúng tư thế của hàng cận thần. Dạng lăng mộ kết hợp sinh từ này còn khá nguyên vẹn cả về hệ thống kiến trúc, điêu khắc, thể hiện quy mô bề thế và nghệ thuật xây dựng, tạo tác tinh tế.

Mặt bằng kiến trúc của lăng mộ thời Lê - Trịnh cũng thay đổi theo từng lăng, không thống nhất như ở Lam Sơn, sự kết hợp giữa kết cấu mộ phần và nơi thờ cúng có tính hoành tráng với khối công trình lộ thiên dẫn đến loại kiến trúc sinh từ - m ột biến thể của đền lăng. Điêu khắc đá với các tượng thú (voi, ngựa, chó, sấu, nghê), các tượng người (quan văn, quan võ, thị giả, phỗng chàm) kết hợp với đồ nghi thức (bàn đá, hương án, sập đá) làm cho điêu khắc thời này đa dạng. Cùng với lăng mộ, sinh từ là một hình thức kiến trúc rất phổ biến trong đời sống người Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ,

Sinh từ và lăng của các quan lại Lê - Trịnh xét về quy mô của thành phần kiến trúc và các hiện vật điêu khắc còn to hơn cả lăng của các vua thời Lê sơ. Họ xuất thân phần lớn đều là các võ quan, hoạn quan cầm quyền, tham gia chiến trận, gần vua chúa, đuợc ban thưởng nhiều nên giầu có, đặc biệt là các võ quan - hoạn quan thuộc thế kỉ XVIII. Phần tiểu sử của các quan lại được chạm khắc trên các bia đá trong lăng đều ghi rõ các chức quan mà họ được ban tặng, phần lớn trong số các quan thời Lê -

Trung Bộ xưa. Công trình này dành riêng cho việc thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ. Đó là những đền thờ sống, thường được kết hợp với lăng mộ, đợi khi chính chủ quy tiên thì trở thành mộ phần và nơi thờ tự vĩnh viễn. Đây là loại hình kiến trúc đặc biệt phát triển trong giai đoạn Lê - Trịnh.

Trịnh là các hoạn quan - võ quan. Quận công Nguyễn Ngọc Trì (sinh từ Nguyễn Ngọc Trì - Hà Nội) vừa được phong Quận công đô đốc, vừa có chức Tổng thái giám

Do hoàn cảnh nội chiến liên miên, từ thế kỉ XVII, XVIII, Nho giáo vừa mới được độc tôn đã vội suy đồi, nhiều quan lại giầu có lo cho cuộc sống ở thế giới bên kia, nhiều hoàng thân quốc thích bỏ tiền “lập hậu”, xây dựng đền chùa. Với hầu hết các chưởng tham tri giám sự, Phương Quận công Ngọ Công Quế (lăng họ Ngọ - Bắc Giang) giữ chức Tả binh phiên, Bắc quân đô đốc phủ, đồng thời là Đô thái giám,

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 3 2

biểu cho hệ thống kiến trúc và điêu khắc đá này.

mới được xây lăng, rất hãn hữu mới có lăng đại thần (như lăng Trần Thủ Độ), thì sang thời Lê - Trịnh lại có chiều hướng ngược lại. Giai đoạn này, trong hệ thống quản lí quốc gia, bên cạnh vua Lê lại có thêm chúa Trịnh, đáng ra sẽ có cả hệ thống lăng mộ của vua Lê và chúa Trịnh. Nhưng thực tế các lăng mộ còn lại đến ngày nay với niên đại thòi Hậu Lê có số lượng rất ít. Một vài

Những biến động lớn là về xã hội và những nhận thức không đầy đủ trong thế kỉ trước đẫ khiến cho nhiều thành tựu văn hóa bị phá hủy, mai một. Vì thế, việc bào tồn những giá trị đó là vô cùng cần thiết. Để xây dựng một nền văn hóa mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta không thể không quan tâm đến những di sản văn hóa của cha ông, trên cơ sở đó kế thừa những tinh hoa và phát huy vào cuộc sống hôm nay.

2. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc

lăng Phạm Đôn Nghị

Người Việt Nam có truyền thống luôn coi trọng tổ tiên, coi trọng nơi “chôn rau cắt rốn” của mình. Bởi vậy, dù có phải đi làm

lăng có quy mô hơn cả như lăng chúa Trịnh Doanh (Nga Mi, Thanh Hóa - thế kỉ XVIII) lại càng hiếm. Và trên một cơ sở nào đó quy mô của lăng mộ này có phần tương tự hoặc lớn hơn không nhiều so với các lăng quan lại. Điều này được các nhà nghiên cứu giải thích trên quan điểm lịch sử đất nước trong hoàn cảnh nội chiến, và bởi sự tiếm quyền lẫn nhau trong xã hội, vua Lê bù nhìn và chúa Trịnh nắm quyền thế. Các thế lực này không thể quan tâm một cách sâu sắc đến việc xây lăng mộ cho chính bản

ăn, phiêu bạt ở nơi nào, giàu sang phú quý đến đâu, lúc chết, ai cũng muốn được trở về yên nghỉ tại quê hương - nơi ông bà tổ tiên mình đã từng yên nghỉ. Vì thế, lăng mộ của vua, quan các triều đại đều được đưa về chôn cất ở quê hương cùa dòng họ mình.

Trường hợp lăng Phạm Đôn Nghị cũng không phải là ngoại lệ. Trong vô số các lăng mộ quan lại được xây dựng trong thế

thân mình. Hơn nữa việc trả thù cá nhân của các triều đại tiếp sau rất có thể khiến vua chúa có lăng nhưng không thể tồn tại đến bây giờ, hoặc xây lăng nhưng lại ẩn danh như trường hợp lăng chúa Trịnh Doanh phải lấy tên bà Thái phi Ngọc Diệm. Mặt khác các quan đại thần nắm giữ quiyền lực trong tay, để củng cố địa vị, đã tự xây

dựng lăng mộ cho mình tại quê hương bản quán. Có lẽ ở thế kỉ XVIII, việc xây cất kỉ XVIII, lăng Phạm Đôn Nghị - một quận công thời Lê - Trịnh (1592 - 1788) - là một di tích đẹp, khá nguyên vẹn còn tồn tại đến ngày nay. Nằm trên xã Lại Yên, huyện Hoài

Đức, tỉnh Hà Tây, lăng được xây dựng cách đây gần 300 năm. Công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo này được xem là khu quần thể lăng mộ thế kỉ XVIII đẹp nhất ở Hoài Đức.

lăng mộ đã trở thành phong trào. Nó cũng giống như việc cúng tiền để xây đình, chùa, đặt làm tượng hậu để thờ, ý nghĩa của việc lưu danh hậu thế đã khiến người ta không dè xẻn tiền của. Vậy nên các lăng quận công xuất hiện chiếm một số lượng lớn như: lăng Phạm Mẩn Trực (Hà Tây -1713),

Việc xây lăng mộ là một truyền thống lâu đời trong nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam. Nếu lăng mộ từ thời Lê sơ về trước

lăng quận Thạc (Thanh Hóa - 1716), lăng Dinh Hương (Bắc Giang - 1729), lăng họ dường như chỉ có vua hay các bà hoàng

TẠP CHÍ VHDG s ố 4/2011 3 3

Đỗ (Bắc Ninh - 1734), lăng Phạm Đôn

này không còn, thay vào đó là tường gạch, riêng cổng bên trái bằng đá là còn dấu vết của đá ong cũ, cổng bên phải được tôn tạo thêm bằng đá ong mới. Gần đây, dòng họ

Phạm xây thêm m ột toà nhà năm gian làm nơi thờ.

Nghị (Hà Tây - xây năm 1734, sửa năm 1754), lăng.Phú Đa (Vĩnh Phúc - 1767), lăng Nguyễn Diễn (Bắc Ninh - 1769), lăng Phạm Huy Đĩnh (Thái Bình - 1772) v.v... Các lăng này có phong cách và quy mô ít nhiều tương đồng.

Lăng Phạm Đôn Nghị, cỏ lẽ cũng không nằm ngoài những mô thức chung cho việc xây cất lăng mộ thế kỉ XVIII, nhưng so với rất nhiều lăng hiện tồn, nó lại nằm trong số ít các lăng còn nguyên vẹn các giá trị về nghệ thuật cũng như kiến trúc. Quần thể

lăng Phạm Đôn Nghị có hướng tây nam, rộng khoảng 850m2, chiếm một bãi đất rộng ở đầu làng tạo một không gian thoáng đãng. Nét tĩnh mịch phủ mầũ thời gian trên lăng,

nhưng không hoang sơ chìm vào quên lãng như ở những lăng khác, m à lăng Phạm Đôn Nghị được con cháu thay nhau trông coi, nhang khói. Bên trong cổng là một khoảng

sân rộng với cậy xanh quanh năm tạo cho không gian lăng mộ lúc nào cũng yên tĩnh và trầm lặng.

Bước qua gian điện thờ mới xây, người đến thăm sẽ phải ỹửng sốt khi bắt gặp toàn bộ khu lăng tẩm kết thành một khối kiến trúc cũng được bao bọc bằng một bức tường đá ong dày gần lm . Các hiện vật trong lăng đều được chạm khắc tinh xảo từ đá xanh nguyên khối. Theo Hồ sơ di tích tỉnh Hà Tây (cũ) thì các khối đá này được vận chuyển từ Thanh Hóa nhờ bè mảng bằng đường sông [3, tr. 3]. Các nhà khảo cổ học cho rằng, để có được những bức tượng quan hầu đá, ngựa đá, nhà bia này ước tính nặng 7 - 10 tấn thì cần phải đẽo từ khối đá to gấp ba lần nó, nặng vài chục tấn. Đó là chưa kể đến những phiến đá to khổng lồ được đẽo bằng, làm móng đỡ bên dưới. Nhà bia cũng hoàn toàn được dựng bằng những khối đá, phiến đá lắp ghép tinh vi... Cho đến tận bây giờ, người dân xã Lại Yên vẫn

Quận công Phạm Đôn Nghị một là võ quan từng đi kinh lí giữ yên cõi bờ và bình định những cuộc nổi dậy. Ông cũng là người giàu có, nhiều thế lực, nhưng đã có công dồn tiền của xây dựng quê hương, giúp đỡ dân làng. Đồng thời ông cũng dành một phần của cải công sức cho dòng họ và

không sao lí giải được việc người xưa đã làm cách nào để có thể vận chuyển những khối đá to, với một quãng đường dài, trong khi phương tiện vận chuyển thời đó quá thô sơ để tạo nên m ột kiệt tác khổng lồ như thế. Riêng việc di chuyển những khối đá lúc bấy giờ bằng những phương tiện thô sơ và chủ yếu là dùng sức người đã là một điều kì diệu. Được xây rất kiên cố nên trải qua ba thế kỉ, khu mộ dường như vẫn giữ được nét kiến trúc ban đầu. Lăng mang nhiều nét uy nghi, diễm lệ và mang đậm những dấu tích và ý nghĩa lịch sử cũng như giá trị văn hóa nghệ thuật. Cổng vào lăng được làm bằng đá, phía trên cổng được lợp ngói bằng đá xây dựng nơi yên nghỉ cho bản thân. Phạm Đôn Nghị là người đã ghi công lớn làm đốc lĩnh các đạo Hải Dương, Kinh Bắc, làm chưởng đốc xứ Sơn Tây, nên được phong tước quận công. Do vậy, lăng của ông cũng được dân làng gọi là ông Quận. Theo lời kể cùa các bô lão ở làng thì trước đây, toàn bộ tường bao xây quanh lăng đều bằng đá ong, cao gần 2m. Nhưng hiện nay, tường đá ong

3 4 NGHIÊN CỨ U-TRAOĐỐI

làm cho nó duyên dáng hơn, nhẹ nhàng hơn so với cái kết cấu thực sự cùa nó.

Đẳng thờ là một dạng biến thể của

ong, hai bên trụ có chạm khắc câu đối. Toàn bộ bốn bức tường bao quanh khu mộ được xây dựng bằng đá ong gần như còn nguyên vẹn. Sự ấm áp của màu đá ong khiến người đến thăm lăng không có cảm hương án, cũng được tạo tác hình hộp. Trong các lăng mộ, đẳng thờ thường đi theo giác lạnh lẽo.

Đôi chó đá được tạc ở hai bên cổng như một quy cách chung nhằm bảo vệ trật tự trị

an ngày đêm canh chừng. Đôi chó được tạc mập mạp, ngồi phủ phục trên bệ, cổ đeo chuông nhạc với vòng nhạc tròn thể hiện kĩ thuật chạm nổi với trình độ cao. Qua cổng là tới khu tẳm, đồng thời là noi thờ chính.

đôi, được đặt trước hương án với chức năng dùng để đặt các đồ thờ cúng như mâm cỗ hay đĩa hoa quả, đồ lễ... khi con cháu làm lễ trong lăng. Hai đẳng thờ bằng đá hình chữ nhật cao khoảng gần lm , khối đặc, chạm trổ tinh vi, xung quanh mặt bàn khắc văn kỉ hà lồng móc vào nhau đăng đối. Đây là dạng hoa vẳn phối hợp giữa các đường thẳng và đường cong biến hóa linh động. Hoa văn này tạo cho đồ vật được trang trí Trung tâm đặt một hương án lớn trước một nhà chứa sập thờ, hai bên là hai đẳng thờ

một vẻ đẹp trang trọng, >đặc biệt phù hợp với những bức hoành phi, câu đối, ngai thờ, hương án.

Kiểu thức kỉ hà là phong cách trang trí bao trùm cả hai đẳng thờ của lăng Phạm Đôn Nghị, cũng là phong cách thể hiện trên lăng Dinh Hương (Bắc đẳng thờ của

Giang), lăng Quận Châu (Thanh Hóa). Những đoạn gấp khúc hình vuông, chữ nhật được chạm đối xứng nhau, tập trung ở tầng mặt của đẳng thờ. Kiểu thức này được lặp lại ở phần thân, phần chân của đẳng thờ lăng Phạm Đôn Nghị với hoa văn kỉ hà lồng móc vào nhau tập trung ở giữa thân và hai bên chân đẳng thờ gợi lên dạng bàn gỗ. Suốt từ trên tầng mặt xuống dưới chân đẳng thờ đều được chạm nổi văn kỉ hà lồng móc vào nhau

nhung sử dụng hình dáng khác nhau mà tạo nên những hình thái thay đổi, ít đơn điệu.

đặt trước hai nhà bia. Hương án phía trên ngai, được chạm hình rồng mây, phía dưới là đồ án hoa văn hoa thị xen kẽ với mây trong đan hình cánh sen. Các đồ án có bố cục khá chỉn chu, cân đối, mặc dù các họa tiết được lặp đi lặp lại nhưng không gợi sự nhàm chán. Các nghệ nhân chạm khắc đã khéo léo sắp xếp hợp lí giữa các mảng lớn nhỏ, giữa vị trí đặt để trên và dưới, khiến cho người xem lại cảm thấy rất vui mắt. Những phần trang trí trọng yếu trong lăng Phạm Đôn Nghị tập trung ở phần bia, hương án, đẳng thờ, Các nghệ nhân đã đục chạm lên đó những hoa văn trang trí tạo thêm sức cuốn hút mạnh mẽ, phảng phất không khí cung cấm, tách biệt hẳn với cuộc sống đời thường. Được đầu tư về tạo dáng, những kiến trúc đá, những bia kí, án thờ, đẳng thờ lăng Phạm Đôn Nghị lại được phủ đầy các họa tiết trang trí đục chạm tinh xảo và uyển nhã, khiến cho các đồ thờ bằng đá nơi đây ẩn chứa sức mạnh biểu hiện như một tác phẩm điêu khắc. Như thế, sự có mặt của các đồ án trang trí đã thực sự làm thay đổi diện mạo của kiến trúc lăng Phạm Đôn Nghị, Song song với việc tạo ra các thức chạm khắc cân đối và đăng đối trong các mẫu thức hoa văn trang trí, thì bố cục lăng cũng có tính cách hoà điệu như vậy. Sự đăng đối hai nửa phải trái của hình thức kiến trúc lăng và các lóp cửa trước sau, đã

TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 3 5

tổng thể - nhất là đứng ở trên đường thần đạo, chúng ta đều thụ cảm được vẻ đẹp bổ sung nhau để cỏ được hình ảnh hoàn chỉnh về từng đối tượng và cả tổng thể.

tạo nên sự tôn nghiêm cho khung cành tĩnh mịch này. Trong hệ thống tẩm thờ, ngoài những bệ - sập - ngai thờ còn có hệ thống các/tượng người và thú xếp từng đôi một đăng đối nhau qua trục đường thần đạo. Các tượng này được làm bằng đá xanh, to bằng Trong các dạng chạm khắc lăng nói chung, dù là tượng người hay thú (phổ biến

là ngựa, voi, chó) được chạm ở dạng tĩnh lặng, thường ở dạng đứng đơn chiếc độc

kích thước người thực, gợi cho người đời sau liên tưởng tới không khí nghiêm trang của cảnh phục dịch khi nhân vật được thờr còn sống.

lập. Nhưng tượng ở lăng Phạm Đôn Nghị lại là một trong số ít trường hợp đặc biệt ở chỗ các tượng này được bố trí thành nhóm đặt cạnh nhau. Điển hình là pho tượng

người và ngựa. Cặp đôi tượng người - ngựa này có một sự tương đồng với lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa, Bắc Giang). Nhung ở

lăng Dinh Hương, cặp tượng này là người dắt ngựa, tức có sự liên kết gần kề, thì ở

lăng Phạm Đôn Nghị, tượng người chỉ đơn thuần được đặt cạnh tượng ngựa để tạo

Lăng mộ là kiểu thức kiến trúc bỏ ngỏ ngoài trời. Ở công trình này, mối quan hệ giữa điêu khắc và kiến trúc cực kì chặt chẽ. Các pho tượng được sắp xếp đăng đối, tạo nên đường thần đạo mang tính chất như một tiểu kiến trúc, bởi' chúng tự định hình và xác định không gian của kiến trúc tổng thể. Điêu khắc nổi bật tính hướng ngoại bởi yêu cầu đặt để tác phẩm, chiếm lĩnh và chia cắt không gian, khả năng biểụ hiện độc lập bởi ngôn ngữ tự thân. Điêu khắc lăng Phạm

thành nhóm. Con ngựa được tạc trong một khối đá đặc kể cả phần giữa bốn chân. Song, điểm độc đáo ở đây là tính chất hiện

Đôn Nghị mang đặc trưng này của điêu khắc thế kỉ XVIII, khi dùng tượng để thay đổi không gian lăng, cùng với các kiến trúc thành phần quyết định bộ mặt tổng thể của

công trình lăng.

thực được gợi tả bởi cặp chân mảnh dẻ lại được các nghệ nhân khéo léo tạc theo dạng phù điêu trên đá. Do vậy, tuy không đục rỗng phân giữa của hai chân ngựa giống như các dạng điêu khắc tượng ngựa thời Lê sơ, nhung dáng vẻ của con ngựa vẫn họp lí và thanh thoát. Cái khối đặc tưởng chừng như nặng nề ấy lại được giải quyết khéo léo bằng việc trang trí yên cương một cách khá cầu kì. Không chỉ vậy, chẳng những tóc và bờm đã mang chất trang trí mà yên cương cũng được thắng đầy đủ làm cho vui mắt hẳn lên. Điều này khiến cho toàn bộ khối tượng chắc chắn hơn và vẫn giữ được nét hiện thực cần thiết. .

Các tượng trong lăng Phạm Đôn Nghị, giống như tượng các lăng khác thuộc thế ki XVIII, đều được tạc bằng chất liệu điêu khắc đích thực là đá có sẵn trong tự nhiên, có đặc tính bền trước sự tác động của thời tiết. Những tượng này luôn tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng tự nhiên, được chiếu từ một phía hướng về mặt trời với cường độ mạnh, còn phía bên kia chỉ là tia hắt tự nhiên yếu, do đó, tạo khối sáng - tối rõ ràng. Lại do hai hàng tượng song hành đối nhau, phần sáng của hàng tượng bên này lại là phần tối của hàng tượng bên kia. Vì thế, nếu đứng ở bất cứ điểm nào để quan sát Tượng quan hầu được đặt sát với ngựa. Ở đây, nghệ sĩ đã vận dụng khéo những mảng khối ngang là mình ngựa với khối

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl 3 6

các lăng mộ thời kì này, nhung đa phần

dọc là thân người tạo nên sự đối lập để tôn nhau lên trong cùng một tổng thể. Con ngựa hiện ra với bọn chân thẳng, đầy đủ dây

mang khuynh hướng tự nhiên, ít tính trang trí. Các tượng thường được chú trọng vào cách tạo khối trên thân, khiến con vật trở nên đậm chất hiện thực. Do vậy, việc xuất hiện một số mảng chạm tỉ mỉ và mang tính cách điệu cao như phần yên cương, bờm

của ngựa ở lăng Phạm Đôn Nghị và lăng Dinh Hương đã làm hình thức điêu khắc

hiện thực này trở nên độc đáo.

buộc mõm, yên cương, bàn đạp, vải phủ có hoa văn mây, bông ngù, tua rua, lục lạc... rất cầu kì. Bên cạnh là một võ quan, mặc áo giáp, một tay úp lên ngực thể hiện sự trung thành, một tay nắm cây chùy đài trông rất sống động và chân thực. So với lăng Dinh Hương, thì nhóm tượng này có phần khác nhau về tỉ lệ tượng người ở lăng Dinh Hương nhỏ nhắn hơn so với tượng ngựa,

còn ở lăng này, tượng người có tỉ lệ lớn hơn hẳn. Điều này tạo cho nhóm người - ngựa Các tượng ừong lăng mộ thời Lê - Trịnh không theo một sự quy định chặt chẽ về số lượng và đề tài, m à thường do tính chất tự phát của việc xây lăng. Nằm trong

tuy tách nhau ra trong một khoảng cách vừa đù nhưng vẫn tạo cảm giác gắn kết.

dòng chảy chung của tượng lăng mộ thời Hậu Lê, các tượng người và thú ở lăng Phạm Đôn Nghị vừa có cái chung như tượng ở các lăng mộ khác, vừa có nét đặc sắc riêng biệt. Xét về vị trí chung mà nói,

thì vị trí các tượng trong lăng Phạm Đôn Nghị vẫn theo một quy tắc nhất định nhìn Nhân vật võ quan ở đây có tư cách chủ thể hơn so với tượng dắt ngựa của lăng Dinh Hương, v ề mặt điêu khắc chân dung nhân vật, tính chất võ quan ở các pho tượng này cũng được thể hiện ra một cách rõ ràng hơn với khối cằm bạnh, mũi và m á gồ cao.

từ phía trong ra: người - ngựa - chó theo trục thần đạo không có gì đặc biệt. Nhung

việc đặt tượng võ quan sát với tượng ngựa đã làm thay đổi kết cấu chung này khiến chúng tạo thành một nhóm, thay đổi đi cái nhịp điệu đơn giàn của một cấu trúc lăng

mang tính tôn nghiêm. Chân dung của hai nhân vật võ quan trong nhóm tượng người - ngựa này cũng khác nhau khá rõ ràng. Một ông có khuôn mặt bạnh hơn, còn ông kia lại thanh thoát hơn. Việc chú ý đến tả thực chân dung cũng là một nét rất đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc thế kỉ XVII - XVIII m à các bức tượng

này được thừa hưởng.

So với các lăng quan lại khác trong thế kỉ XVIII, như lăng Dinh Hương, lăng Bầu, lăng Cẩm Bào, lăng Nội Tròn (đều thuộc Hiệp Hoà, Bắc Giang), lăng họ Đỗ, lăng Nguyễn Diễn (Tiên Sơn - Bắc Ninh), lăng Đoàn Văn Khôi (ứ n g Hòa - Hà Tây)..., thì cặp tượng quan hầu và ngựa ở lăng Phạm Đôn Nghị và lăng Dinh Hương được xem là những kiệt tác cùa nghệ thuật chạm khắc đá. Chúng được xuất hiện khá phổ biến trên Một đặc điểm khá độc đáo nữa của lăng Phạm Đôn Nghị là hình tượng võ sĩ cầm chuỳ được chạm khắc nổi ở hai bên cột đá cùa nhà bia hai bên phần mộ. Nó khá giống với dạng bố cục của lăng Phạm Mẫn Trực (Hà Tây) nhưng khác hẳn lăng họ Ngọ, các tượng võ sĩ này được chạm thẳng vào bề mặt đá ở tường bao phía ngoài. Cái vẻ rắn chắc của đá xanh, khiến cho bức chạm khắc này ở lăng Phạm Đôn Nghị có phần trở nên sắc nét. Một lần nữa ta lại gặp hình thức điêu khắc chân dung trên hai bức phù điêu

TẠP CHÍ VHDG SỐ 4/2011 3 7

mô tả hai nhân vật một già, một trẻ. Đặc biệt, nhân vật già hơn một chút có bộ ria mép như cố tình tạo cảm giác uy vũ nhưng thực chất lại rất hiền lành. Trong khi người triển của một công trình hay để ghi công lao của người xưa lưu truyền cho hậu thế. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện giá trị về kiến trúc và chạm khắc của nghệ thuật giai đoạn này.

trẻ lại có vè dữ hơn khi giương cây chuỳ theo thế nghiêng nghiêng. Dáng vẻ của họ

Với cả hai nhà bia lăng Phạm Đôn Nghị, chữ đều được chạm khắc ửên bốn cột bốn đôi câu đối. Mỗi mặt chạm nổi những chữ

lớn chạy dọc thân cột, tạo ra một dạng hoành phi câu đối bằng đá độc đáo, nét chữ sắc nhọn, bay bổng như những bức tranh thư pháp. Qua đó, người ta thấy được bàn

tay tài hoa của người nghệ sĩ, chạm trên đá m à vẫn tạo được sự thanh thoát, bay bổng của nét chữ, đồng thời vẫn giữ nguyên được

nghệ thuật thư pháp như của bút lông viết trên giấy. cũng vậy, không bị khuôn vào một cách cứng nhắc mà có phần uyển chuyển. Hai bức phù điêu độc đáo này khiến cho khung cảnh của khu sinh phần quận công Phạm Đôn Nghị bớt đi tính chất khô lạnh mà trở nên gần gũi, thân quen. Ngoài ra, cách chạm khắc các trang phục quần áo của hai vị võ quan này cho thấy lối điêu khắc đặc trưng cho nghệ thuật thế kỉ XVIII, đó là lối chạm nông vừa phải, chi tiết sắc nét, chú trọng đến các nếp và dải áo.

Đặc biệt, hai bên khu thờ cúng là hai nhà bia làm bằng đá tảng lớn. Bia bên phải

Hoa văn trang trí trên bia ỉà một tư liệu quý giá về tư tưởng triết học phương Đông, kiến giải về vũ trụ quan. Mặt bia phía trên chạm đôi rồng chầu được cách điệu kiểu rồng hoá mây, các diềm bia còn lại chạm trang trí hoa văn mây xoắn, hoa dây uốn lượn. Hình tượng rồng chuyển hướng dân

có tên bài văn là “Phạm công gia phả bi kí” kể lại sự tích các đời của Phạm Đôn Nghị. Bia bên trái có tên là “Hiển linh từ hậu thần bi kí” (mặt trước), “Nhất xã thôn hậu phật sự lệ” (mặt sau), nói về việc bầu Phạm Đôn Nghị làm hậu Thần hậu Phật cho làng vì có công đóng góp tiền của. Cả hai đều dựng

năm Long Đức 3 (1734). Dưới dạng như một biểu tượng văn hóa, bia kí được nhiều dân tộc trên thế giới sử dụng để khắc ghi văn tự, hình vẽ trên nhiều chất liệu khác gian và trừu tượng hóa cao dưới dạng các hoa văn lá sen, cúc, vân mây gợi tả hình rồng. Có thể tìm thấy hình ảnh đó ở rất nhiều các công trình kiến trúc cổ giai đoạn này như ở đền Phú Đa (Vĩnh Phúc), đền thờ Trần Khát Chân và lăng mộ Nguyễn Văn Nghi (Thanh Hóạ) đều có các lan can đá bé

nhau. Là loại hình nghệ thuật đặc biệt, bia kí vừa là vật thiêng để thờ, vừa là phương tiện chuyển tải các giá trị tư tưởng đương tạo hình hoa văn sen, cúc, sóng nước, vân mây với các môtip đao xoắn gợi ấn tượng hình các linh thú: rồng, lân, sấu... Đây là

thời. Dân gian ta vẫn có câu “Chùa không bia như nước không sử” để nói rằng việc dựng bia trong các công trình tôn giáo, tín ngưỡng là một truyền thống lâu đời, mang

xu hướng dân gian mạnh mẽ của các môtip m ĩ thuật cung đình ở thế kỉ XVIII. Nhưng có lẽ điều độc đáo phải kể đến ở đây chính là nghệ thuật kiến trúc của hai nhà bia này. Cùng một đặc điểm giống như nhà chứa sập thờ, nhung khác với kiến trúc của nhà bia ở

một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với lăng mộ, ỵiệc dựng bia mang chức năng chính là ghi lại lịch sử hình thành, tồn tại và phát

(Xem tiếp trang 68)

68___________ _______ ______________________ NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl

(Tiếp theo trang 37)

(27) . Times o f trouble: violence in Russian literature and culture (2007), ed. By Marcus c. Levitt and Tatyana Novikov, University of Wisconsin Press, Madison (Những thời kì rắc rối: bạo lực trong vãn học và văn hoá Nga).

(28) . Reflective laughter: aspects o f humour in Russian culture (2004), ed. By Lesley Milne, Anthem Press, London (Cái cười mang tính phàn ánh: những khía cạnh hài hước trong văn hoá Nga).

các lăng khác với đặc trưng vòm mái cong - những yếu tố mềm mại, mỗi nhà bia ở lăng Phạm Đôn Nghị đều có cấu trúc như một long đình với bốn mái đá phẳng và góc cạnh. Mỗi đầu đao và hai đầu mái chạm khắc đầu rồng, phần trung khu chạm hình chữ “vạn”. Mặc dù các kiến trúc được thiết kế bằng các khối đá tảng lớn nhưng các nhà bia ở đây vẫn tạo được dáng vẻ thanh thoát. Phải chăng đã có sự chi phối của tâm thức Phật giáo trong kiến trúc lăng mộ ở đây.

(29) . Niilo Kauppi (2010), Radicalism in French culture: a sociology o f French theory in the 1960s- Public intellectuals and the sociology o f knowledge, Ashgate Publishing Company, England, USA, p. 1 (Chủ nghĩa cấp tiến trong văn hoá Pháp: một nghiên cửu xã hội học về lí thuyết Pháp trong thập ki 1960 - trí thức đại chúng và xã hội học tri thức).

(30) . Rhoda Bubendey Métraux & Margaret ỉn French culture: a Mead (2001), Themes preface to a study o f French Community, Berghahn Books (Những chủ đề trong văn hoá Pháp - mở đề cho một nghiên cứu về xã hội Pháp).

(31) . Rhoda Bubendey Métraux (2001), sđd,

XXV.

Qua khu lăng mộ và đền thờ, mộ Phạm Đôn Nghị nằm sau cùng, được bao bọc bởi những bức tường đá ong. Mộ phần của quận công Phạm Đôn Nghị được làm bằng đá tảng đặt ở giữa khu mộ, thấp thoáng dưới bóng những bụi cây. Mộ phần cũng chính là hình khối của kiến trúc kết hợp điêu khắc, nó như một đài tưởng niệm về người quá cố. Tuy công trình đã khởi xây từ thế kỉ XVIII, nhưng nhờ được bảo quản tốt, nên các nét chữ khắc trên mộ nhìn từ xa như hoa văn họa tiết vẫn còn sắc sảo. Trải

(32) . Printed images in early modern Britain: essays in interpretation (2010), ed. By Michael Hunter, Ashgate, Burlington (In hình ảnh ở nước Anh thời Cận đại)

bao thời gian, khu di tích lãng đá Phạm Đôn Nghị được xem là một quần thể kiến trúc điêu khắc đá hoành tráng, độc đáo thòi Lê - Trịnh còn tồn tại đến ngày nay.n

(33) . Paul Davis (2008), Translation and the po et’s life: the ethics o f translating in English culture, 1646 - 1726, Oxford University Press (Dịch thuật và đời sống của nhà thơ: về đạo đức dịch thuật trong văn hoá Anh, 1646 -1726).

Q.T.N.A

(34) . Paul Davis (2008), sđd, tr. 3 - 4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(35) . Donna Landry (2008), Noble brutes: how eastern horses transformed English culture, John Hopkins University Press (Những kè vũ phu quý tộc: giống ngựa châu Á đã thay đổi văn hoá Anh như thế nào).

1. Đặng Phong Lan (2003), Nghệ thuật điêu khắc lăng mộ thế ki XVII, XVIII ở Hiệp Hòa, Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ văn hóa học, Viện Nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.

(36) . Nguyễn Xuân Kính (2011), sđd, tr. 9.

2. Nguyễn Quân, Phan cẩm Thượng (1989),

M ĩ thuật của người Việt, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội.

(37) . Thế kỉ XVI và XVII ở châu Âu còn

được gọi là thời kì Cận đại (early modern).

3. Bảo tàng tinh Hà Tây, Hồ sơ di tích lăng

(38) . Thomas Postlewait (1988), sđd, ừ. 318.

Phạm Đôn Nghị.