NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
VỀ NGHI THỨC TANG MñR
cỦn NGƯỜI VIỆT Ở LàNG
XUÂN TẢO, XÃ XUÂN
ĐỈNH“), HUYỆN TỪ LIÊM
LÊ CẨM LYf
àng Xuân Tảo có tên nôm là làng Cáo,
7í... có bốn thôn (thôn Đông, thôn
Trung, thôn Nhang, thôn Lộc). Ngôi làng
cách Hồ Gươm về phía bắc khoảng 10 cây
số. Từ trung tâm thủ đô Hà Nội (lấy bưu
điện Bờ hồ làm điểm xuất phát) đi về phía
hồ Tây, qua các phố Hàng Ngang, Hàng
Đào, Hàng Đường, Hàng Giấy rồi dọc theo
phố Quan Thánh, Thụy Khuê, tới Bưởi rẽ
tay phải, đi tiếp qua Trích Sài, men theo
đường hồ Tây khoảng 3km đến một ngã ba
thì rẽ trái vào đường Xuân La. Cứ theo
đường Xuân La đi tiếp khoảng 1km là tới
đường Xuân Đỉnh, địa phận làng Xuân Tảo
được tính bắt đầu từ đây.
Đến Xuân Tảo chúng ta được thăm
quan nhiều công trình kiến trúc cô tiêu
biểu là đền Sóc, chùa Nứa (Minh Phúc Tự),
°' Xuân Đỉnh là xã lớn nằm ở phía bắc
huyện Từ Liêm, diện tích tự nhiên rộng 558
ha. Dân số hiện nay xấp xỉ 20000 người
(theo số liệu điều tra dân số của xã cuối
năm 2009). Năm 1956 làng Xuân Tảo và
làng Cáo Đỉnh nhập lại thành xã Xuân
Đỉnh, thuộc ngoại thành Hà Nội. Từ tháng
2 năm 1995 tới nay, ngoài hai làng này xã
Xuân Đỉnh còn có thêm một thôn mới là
thôn Tân Xuân. Hiện nay toàn xã có hai
Hợp tác xã: Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
Xuân Đỉnh (gồm các xã viên ở làng Xuân
Tao) và Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
Tân Trào (gồm các xã viên ở làng Cáo Đỉnh
và thôn Tân Xuân).
“” Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
¿1
7
miếu Vũ. Để» Sóc thờ Phù Đổng Thiên
Vương, người anh hùng dân tộc có công
đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi. Đền được xây
dựng từ đời Lý. Đến đời Lê Chính Hòa
(1868) được bà Vũ Thị Ngọc Xuyển (vợ chúa
Trịnh) tu sửa. ÄM/zế¿ Vũ thờ ông Dầu bà
Dầu - vợ chồng người bán dầu đã hi sinh
thân mình để chữa bệnh cho vua Lý. Chùa
Nứa là ngôi chùa cổ, đẹp được xây dựng
theo mâu chùa Thiên Trù của chùa
Hương”. Ngoài ba công trình kiến trúc
này, trong làng còn có hai ngôi chùa ở thôn
Lộc và thôn Nhang, hai ngôi đỉnh là đình
Thượng, đình Hạ (trong đó đình Thượng đã
bị hủy hoại do chiến tranh), một phú và
một ušăn chỉ. Văn chỉ cùng với đền Sóc và
miếu Vũ là ba công trình đã được nhà nước
xếp hạng “Di tích lịch sử - văn hóa”.
Xuân Tảo có nhiều tập tục, lễ hội
truyền thống. Trong đời sống hiện nay,
người dân nơi đây vẫn giữ được nhiều nét
của phong tục cổ xưa. Ở bài viết này chúng
tôi chủ yếu đi vào tìm hiểu một trong
những tục lệ gắn với vòng đời người, với
quy luật của tạo hóa, đó là tục lệ tang ma
liên quan tới việc tiễn đưa một con người về
“thế giới bên kia”.
Cắn với việc tang ma có nhiều nghi thức
và hình thức diễn xướng nghệ thuật bao
gồm ca, múa, nhạc, trò diễn được tiến hành
trong diễn trình của nghi thức tang lê. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của bài viết chúng
tôi chỉ giới thiệu chủ yếu về mặt nghi thức
kèm với những quy định về diễn xướng
trong diễn trình của nghỉ lễ tang ma.
Theo phong tục của người Việt nói
chung và của người Việt ở làng Xuân Tão
nói riêng, nghi thức tang lễ để tiễn đưa
những người mới qua đời sang thế giới bên
kia được tổ chức theo những tập tục được
hình thành từ lâu đời. Những tập tục đó
quy định những nghi thức cần phải có
trong đám tang cho đến khi mồ yên, mả
đẹp. Thậm chí những nghi thức liên quan
D8
LÊ CẨM LY
tới người mới quá cố còn được tiếp tục thực
hiện cho tới ba năm sau khi chôn.
Qua khảo sát nghỉ thức tang lễ ở làng
Xuân Tảo chúng tôi thấy nhìn chung một
đám tang thường được tiến hành theo một
trình tự tương đối thống nhất với những
nghi thức chính như sau:
1. Bỏ tiền xu vào mồm người quá
cố
Phần lón những người được chúng tôi
phỏng vấn đều nói rằng khi một người vừa
“nhắm mắt”, họ sẽ được người thân bỏ một
vài đồng tiền xu vào miệng. Tiền này dành
cho người quá cố chi tiêu trong hành trình
sang thế giới bên kia. Ngày nay vì không có
tiền xu nên người ta dùng tiền giấy (tiền
thật) thay thế (vài trăm lẻ) và bỏ vào túi áo
người quá cố chứ không cho vào mồm như
trước nữa.
Cá biệt có eụ Đỗ Văn Sáng, 7ð tuổi là
người thôn Nhang lại cho biết nghi thức
này chỉ áp dụng với những người đang
“ngắc ngoái”, “khó” chết bởi lúc sống họ
“đong đầy khảo vơi" tức mua gian bán lận.
Làm như vậy sẽ giúp người đó ra đi một
cách dễ dàng, thanh thản (!). Cũng theo lời
cụ, mặc dù hiện nay không có nhà nào làm
như vậy nhưng cách đây bốn năm chính cụ
đã tự tay đặt nửa chỉ vàng vào mồm người
anh trai vừa qua đời với tâm niệm mong
anh phù hộ độ trì cho những người thân
còn sống được mạnh khỏe, gặp nhiều điều
may mắn...
2. Lau rửa, mặc quần áo mới cho
người quá cô
Đối với người vừa qua đời, cũng như
người Việt ở nhiều nơi trên vùng đồng bằng
Bắc Bộ, người dân Xuân Tảo bao giờ cũng
lau mặt, lau mình... rồi mặc quần áo mới
cho người quá cố. Đối với cụ bà tuổi từ 50
trở lên đã quy Phật thì được mặc thêm áo
lục thù (có nơi gọ! là lục xù).
Các cụ ta xưa có câu:
“An Nam còn dại chưa khôn
Sống mặc áo rách chết chôn áo lành”
Câu ca mang nhiều ý nghĩa song đã
nêu lên tập tục khi một ai đó "ra đi” bao giỏ
cũng được “làm đẹp”. Ai đó dù nghèo đến
mấy nhưng khi rời khỏi cuộc sống trần gian
này họ đều được người thân mặc cho chiếc
quần chiếc áo lành lặn. Ngày nay việc “làm
đẹp” không chỉ thể hiện qua trang phục mà
còn thể hiện qua việc trang điểm cho khuôn
mặt người quá cố được hồng hào, tươi trẻ.
Nhìn vào khuôn mặt đó chúng ta có cảm
giác người “ra đi” dường như đang chìm
trong một giấc ngủ dài thanh thản...
3. Đặt thi hài xuống sàn nhà và bó
chặt
Xoay quanh nghi thức này đã có một số
tác giả để cập và đưa ra nhiều quan niệm ở
những khía cạnh khác nhau cả về mặt tâm
linh, tâm lí và khoa học.
- Ö góc độ tâm linh có hai quan niệm:
+ “người ta sinh ra từ đất thì khi chết
lại trở về với đất '“*?,
+ người còn sống muốn lấy đủ khí âm
“(ñ)
dương cho ngươi quá cổ `”.
- Ö góc độ tâm lí: tục lệ này hàm ý hi
vọng sinh khí ở dưới đất có thể làm cho
người chết được hồi sinh”).
- Ở góc độ khoa học: đặt thị hài xuống
đất, khí đất sẽ tạo cho cơ khớp không bị
cứng để khi buộc vải liệm sẽ chặt hơn và
lúc nhập quan được dễ dàng ' °.
Trái với quan niệm đưa ra cuối cùng,
người dân làng Xuân Táo lại cho rằng
người đã chết phải được đặt xuống đất để
khí âm dương gặp nhau, giúp cho thi hài
cứng lại nhằm tạo sự dễ dàng cho việc bó
buộc.
Để thực hiện nghi thức này người quá
cố được đặt trên một chiếc chiếu đã trải sẵn
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
59
dưới sàn nhà. Thi hài sẽ dần cứng lại sau
một vài phút. Sau đó, người ta dùng dây
vải buộc ngang hai bả vai, ngang hông và
hai ngón chân cái. Bó buộc xong, thân nhân
người quá cố lại đặt thi hài lên trên giường
và chuẩn bị tiến hành những nghi thức tiếp
theo mà chúng tôi sẽ lần lượt nêu ra ở
những mục dưới.
Việc bó thi hài nhằm giải quyết một số
vấn đề sau:
Thứ nhất: xưa kia linh cữu thường
được quàn tại nhà trong nhiều ngày, thậm
chí có trường hợp kéo đài gần một tháng.
Người ta phải buộc chặt thi hài để ngăn
chặn khí độc và chất lỏng trong cơ thể
người quá cố thoát ra ngoài gây mất vệ
sinh, nhất là đối với những người bị bệnh
truyền nhiễm.
Thứ hai: trước kia quan tài được đóng
hẹp, những ngươi có thân hình lớn vì béo
hay phù nề vì bệnh thì rất khó đặt vừa.
Thế nên họ phải buộc chặt thì hài cho gọn
lại và ngay ngắn để đễ bề đặt vào quan tài.
Khác xưa, ngày nay quan tài được đóng
rộng hơn, mặt khác người đân Xuân Tảo
hiện nay lại quan niệm rằng cứ để người
chết được chết trong tư thế thoải mái, bó
buộc làm gì cho khổ người ta ra. Vì vậy có
sịa đình không bó hoặc có gia đình chỉ bó
rất lông mang tính chất tượng trưng mà
thôi.
Dù áp dụng nghĩ thức bó hay không bó
người đã khuất thì nhân dân làng Xuân
Tảo vẫn không lí giải được ý nghĩa của câu
ea mà các cụ xưa đã truyền lại: “con thương
cha bó cha cho chặt”.
4. Hú hồn
Theo quan niệm của người dân Xuân
Tảo, người vừa qua đời sẽ “hồn siêu phách
lạc”, linh hồn lấn khuất đâu đó mà không
có nơi trú ngu. Do vậy cần phải làm lễ gọi
hồn về nhập trở lại thân xác. Nghi thức này
do người con trai lớn tuổi nhất của người
quá cố có mặt trong thời điểm đó thực hiện.
Anh này cầm trên tay chiếc áo của cha hay
mẹ lúc sinh thời rồi trèo lên chiếc thang đã
được đặt săn trước cửa nhà để lên trên nóc
nhà. Lên tới nơi anh ta tháo một viên ngói
phía trên gian nhà đặt linh cữu rồi vừa giơ
áo vừa hô to: “Ba hồn bảy vía bố (hoặc ba
hồn chín vía mẹ)... về nhập quan”. Hành
động này được thực hiện ba lần. Sau đó
người con trai mang chiếc áo xuống và đặt
lên người qúa cố. Hiện nay nghi thức này
có sự thay đối nhỏ. Người con trai chỉ trèo
lên ba bậc thang mang tính chất tượng
trưng hay vừa cẩm áo vừa chạy xung
quanh sân nhà hoặc xung quanh vươn.
5. Nhập quan
Nhập quan là nghĩ thức đặt thị hài vào
linh cữu. Nghỉ thức này diễn ra sau nghi
thức hú hồn. Xưa kia như đã nói ở trên, có
gia đình để linh cữu trong nhà nhiều ngày.
Hiện nay theo quy ước tổ chức lễ tang của
xã Xuân Đỉnh thì linh cữu không được để
trong nhà quá 36 tiếng, người có bệnh
truyền nhiễm không quá 24 tiếng. Trường
hợp phổ biến là linh eữu được quàn tại nhà
qua một đêm rồi hôm sau người ta mới đem
đi chôn.
Trước khi tiến hành nghi thức này,
linh cữu đã được đặt ở giữa nhà theo chiều
dọc, phía trước bàn thờ tổ tiên. Để phân
biệt chiều ngang hay chiều dọc người ta căn
cứ vào chiếc vượt trên mái nhà theo hình vẽ
dưới đây:
Cứ theo người xưa truyền lại “đầu đông
chân bắc hoặc đầu nam chân tây” mà người
ta đặt thi hài theo hướng đầu quay về phía
đông, chân phía bắc hay đầu hướng nam
thì chân hướng tây. Tóm lại, đầu người quá
cố bao giờ cũng quay về hướng đông hoặc
hướng nam còn chân thì cứ phải theo
hướng tây hay bắc ( “đông, nam quy thượng;
đoài, bắc quy hạ” như các cụ xưa ở đây
truyền lại).
60
LÊ CẨM LY
=————_—————————————— Ẫ_————ễễễCễỲễCTC=ễEEÐEŸEE—C=ếhẫ
Sau khi thì hài được đặt vào linh cữu
gia đình tang chủ sẽ thiết lập một bàn vong
ở phía trước linh cữu. Trên đó người ta bày
ảnh người quá cố cùng những lễ vật để
cúng cho vong linh. Trước kia không có ảnh
thì thay bằng hồn bạch (một đoạn vải sô
trắng được thắt nút theo hình người).
Khi các công việc phải làm sau nghĩ
thức nhập quan đã được hoàn tất thì thầy
cúng sẽ đến làm lễ phục hồn trước khi gia
chủ tiến hành lễ phát tang.
6. Phục hồn
Các cụ cao niên cho biết phục hồn
nhằm làm cho linh hồn được nhập vào thể
xác trong linh cữu. Trong quá trình tiến
hành nghi thức có chi tiết thầy cúng cầm
dao chém khẽ vào linh cữu để xua đuổi ma
quỷ đang trú ngụ trong đó. Hành động này
được gọi là phợt mộc. Lại một chỉ tiết khác,
thầy cúng cầm dao chặt đứt chiếc thang
làm bằng bẹ chuối được bắc từ sàn nhà lên
tới nắp linh cữu. Việc làm đó ngụ ý rằng
vong hồn từ đây đã thuộc về thế giới bên
kia, âm dương mãi mãi cách biệt.
7. Phát tang
Phát tang là nghị thức phát khăn, áo
tang cho thân nhân người quá cế. Nhìn
chung người dân làng Xuân Tảo cũng có
quy định riêng về trang phục trong lễ tang
tương tự người Việt ở nhiều nơi khác. Ở đây
chúng tôi chỉ muốn nói về quan niệm của
người Xuân Tảo về câu ca: “cha gậy tre, mẹ
gây vông”. Nếu cha mất thì người con trai
phải chống gậy tre còn mẹ mất thì chống
gây vông. Theo họ, cha mẹ nào cũng đều
thương con. Tuy nhiên, nếu con cái bất
hiếu thì người cha có thể vì quá tức giận,
buồn phiền mà sẵn sàng từ bỏ đứa con
mình sinh ra. Do đó, gây tre có nhiều khúc
tượng trưng cho sự quyết đoán và mạnh mẽ
của người cha. Khác với gậy tre, gậy vông
phẳng không có khúc, tượng trưng cho tấm
lòng thương con trước sau như một của
người mẹ.
Kể từ nghi thức này trỏ đi cho tới nghỉ
thức cuối cùng ngay sau khi người quá cố
được chôn cất, tiếng kèn, tiếng trống... hầu
như vang lên không nghỉ. Tuy nhiên nhạc
tang phục vụ lễ tang theo quy định không
được quá 29 giờ đêm”. Những hình thức
hát khóc, hát chèo đò, hát thập ân, diễn
xướng chèo đò rất hiếm gặp (chúng tôi sẽ
trỏ lại vấn để này ở cuối bài viết).
Lại nói về nhạc lễ tang, tục lệ ở Xuân
Tảo xưa kia quy định: trong đám tang của
người chết trẻ chỉ có phường kèn (một
trống, một kèn) phục vụ; những người
trung niên cho đến dưới 70 tuổi qua đời,
ngoài phường kèn có thể có thêm một vài
nhạc cụ dây; người có tuổi thọ từ 70 trở lên
mới có đội bát âm và đội trống cà rình (có
nơi gọi là ngũ lôi, tùng rinh) đến phục vụ lễ
tang. Quy định xưa thì như thế nhưng hiện
nay thì người qua đời dưới 70 tuổi chỉ dùng
đội bát âm, người qua đời từ 70 tuổi trở lên
có thể dùng đội bát âm và đội cà rồng.
Theo những người nhạc công mà chúng
tôi phỏng vấn, bài bản sử dụng trong lễ
tang của người trẻ và người già có sự khác
nhau. Nếu là đám tang người trẻ thì họ
diễn tấu phần lón những bài mang âm
hưởng buồn thẩm như Lâm Khốc, Nam AI,
Nam Thương, Xuân Nữ... còn đám tang
người già thì chủ yếu là những bản có âm
hưởng rộn ràng, “vui vé” như Lưu Thủy,
Kim Tiền, Ngũ Đối...
8. Viếng
Viếng là nghi thức đến thăm hỏi gia
đình tang chủ và “gặp lại” người đã khuất
lần cuối của họ hàng, bạn bè, làng xóm...
Như đã nói ở trên, hiện nay linh cữu chỉ
được quàn tại nhà qua một đêm, vì vậy thời
điểm kết thúc lễ viếng kéo đài muộn nhất
là 232 giờ đêm.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9. Tế
Người ta gọi lễ tế người đã chết là Tế
ngu. Nghĩ thức tế được tiến hành vào buổi
tối khoảng từ 30 giờ đến 33 giờ trước ngày
rước linh cữu ra mộ. Điều đáng chú ý ở đây
là không phải ai mất đi cũng đều được
hưởng nghi thức này mà phải là những liền
ông có chức sắc trong làng, trong xã (theo
lời các cụ cao niên). Mặc dù chúng tôi biết
rằng cho đến nay ở một số nơi (như làng
Văn Minh, làng Phượng Vũ ở huyện Phú
Xuyên, Hà Tây) vẫn có tế trong đám tang
nhưng người dân làng Xuân Tảo hiện tại
chỉ còn biết tới nghi thức này qua lời kể của
các vị cao niên mà thôi.
10. Chuyển cữu
Đây là nghi thức xoay linh cữu từ vị trí
đặt theo chiều dọc sang vị trí đặt theo
chiều ngang sao cho đầu người quá cố quay
ra phía ngoài sân, mặt hướng vào bàn thở
để “vái lạy" tổ tiên trước khi họ “ra đử.
Nghi thức này trước kia được tiến hành vào
đúng 34 giờ trước ngày rước linh cữu ra mộ
nhưng hiện nay không phải gia đình nào
cũng thực hiện như vậy. Có nhà xem tuổi
của vong linh để chọn giờ xoay linh cữu.
Mặc dù vậy, việc chuyển eữu vẫn được thực
hiện khi mà linh cữu còn quàn tại nhà.
12. Rước linh cửu ra mộ
Một tiếng trước khi bắt đầu nghi thức
này, một người trong gia đình tang chủ
cầm một chiếc lệnh vừa đi xung quanh làng
vừa gõ 3 tiếng một để thông báo cho đân
làng biết sắp tới giờ làm lễ đưa tang.
Trước giờ rước linh cữu rời nhà ra mộ
khoảng 30 phút, những người trong ban
phụ trách lễ tang của làng tiến hành lễ
truy điệu. Đây là nghi thức “chia tay” người
đã khuất trong giờ phút thiêng liêng nhất
khi mà người âm, kẻ dương sắp cách biệt
mãi mãi. Ở nghị thức này người ta sẽ đọc
một bài điếu văn với nội dung kể về những
øì mà người đã khuất đạt được lúc sinh thời
61
chẳng hạn là một người con hiếu thảo, một
người chồng, người bố gương mẫu, tận tụy
với gia đình... Dứt bài điếu văn, tất cä mọi
người có mặt trong buổi lễ dành một phút
mặc niệm. Điệu nhạc buồn nhất sẽ được các
nghệ nhân trong đội nhạc hiếu tấu lên
ngay sau phút mặc niệm. Tiếp đến, người
ta rước linh cữu ra khói nhà rồi đặt lên xe
tang để đưa ra mộ. Làng Xuân Tảo có tục lệ
con gái và con dâu phải làm động tác bắc
cầu (người này cúi sát vào lưng người kia)
ở ngay trước sân nhà và trên đường ra mộ
khi gặp những chỗ gồ ghề. có nhiều rãnh để
người ta khiêng linh cữu qua phía bên trên
lưng họ. Trước kia, họ còn phải lăn đường,
lăn huyệt nhưng hiện nay tục lệ này đã
được bãi bỏ.
Về phần nhạc tang, từ khi rước linh
cữu ra khỏi nhà cho đến khi ra mộ và kể cả
khi rước vong linh về nhà, đội nhạc hiếu
thiên về diễn tấu những bản nhạc có màu
sắc sáng sủa để giảm bớt không khí u buồn.
14. Rước vong linh về nhà
Cũng giống như nhiều nơi, làng Xuân
Tảo có tục rước vong linh về nhà sau khi
người quá cố đã được chôn cất. Lúc này
người ta rước linh sa hay còn gọi là võng
vong (tức chiếc bàn đặt ảnh người quá cố,
bát hương và các đồ lễ) từ mộ về nhà trong
tiếng kèn, tiếng trống... Khi về tới nhà, gia
đình tang chủ đặt linh sa tại một vị trí
trang trọng nào đó ở trong nhà để ngày
ngày thắp hương phụng thờ cho đến khi
vong linh được phép chuyển lên cùng một
bàn thở với gia tiên. Toàn bộ những nghi
thức chính trong một buổi lễ tang từ khi
một ai đó vừa qua đời cho đến khi họ được
chôn cất đến đây đã kết thúc.
Ngoài những nghi thức trên, liên quan
tới lễ tang còn có một số nghỉ thức khác
được thực hiện vài ngày sau đó hoặc lâu
hơn như lễ cúng 3 ngày, lễ cúng 49 hay 50
ngày, lễ cúng 100 ngày. Ngoài ra, cứ mỗi
năm người ta lại tổ chức cúng giỗ vào đúng
ngày mất của người đã khuất.
62
LÊ CẨM LY
Qua phần tìm hiểu nghi thức tang ma
của người dân làng Xuân Táo, chúng tôi có
một số nhận xét sơ bộ như sau:
Nhìn chung, người Việt ở làng Xuân
Tảo nói riêng và có thể cả người Việt ở vùng
đồng bằng Bác Bộ nói chàng đều tổ chức
nghỉ thức tang lễ theo một số quy định
truyền thống đã được đưa vào Thọ Mai gia
iể”” (cuốn sách do cư sĩ Hồ Sĩ Tân soạn từ
thế kỉ XVHI °”) chẳng hạn như: bỏ tiền xu
vào mồm người quá cố; lau rửa, mặc quần
áo mới cho người quá cố; nhập quan; phát
tang: viếng: rước linh cữu ra mộ; cúng 100
ngày; cúng 1 năm; cúng 3 năm.
Tuy nhiên, việc áp dụng nghì thức tang
ma truyền thống trong đời sống hiện nay
của người Xuân Tảo (và ở một số nơi khác)
đã có những biến đổi. Một số nghi thức như
bỏ tiền xu vào mồin người quá cố; đặt thi
hài xuống sàn nhà và bó chặt; hú hồn;
nhập quan; viếng; chuyển cữu; rước linh
cửu ra mộ ở làng Xuân Tảo mà chúng tôi
vừa giới thiệu phía trên là những dẫn
chứng.
Xem ra, dường như những biến đổi ở
Xuân Tảo đã chịu tác động tương đối mạnh
của quá trình đô thị hóa và cuộc sống ở thời
đại mới. Có khá nhiều hiện tượng biến đổi
mà chúng tôi đã tìm hiểu được có liên quan
mật thiết với quá trình đô thị hóa và cuộc
sông ở thơi đại mới. Xin dân sơ bộ một vài
trường hợp:
Cùng với quá trình đô thị hóa, hiện nay
hầu hết các ngôi nhà một tầng với mái ngói
đỏ xưa kia đã được thay bằng những nhà
cao tầng mái bằng. Do đó nghĩ thức hú hồn
không thể tiến hành như xưa. Người ta chỉ
có thê thực hiện một hành động mang tính
chất tượng trưng là thay vì trèo lên mái
nhà rỡ ngói, họ chỉ trèo lên ba bậc thang
mà thôi.
Cuộc sống trong thời đại mới đặc biệt là
ở những vùng đô thị cũng đã làm thay đổi
nếp nghĩ của con người. Do đó có những
nghỉ thức eổ truyền bị bãi bỏ hoặc thay đổi.
Việc bỏ nghi thức lăn đường, lăn huyệt hay
không được để linh cữu quá một đêm sau
khi nhập quan như đã giới thiệu phía trên
là những ví dụ. Có thể dẫn thêm một hiện
tượng nữa liên quan tới nếp sống múi:
Cũng như bao làng quê khác ở đồng
bằng Bắc Bộ, nhân dân làng Xuân Tảo
đang tích cực xây dựng và thực hiện nếp
sống mới. Có thể nói nếp sống mới ở đây
được chính quyền quản lí và nhân dân thực
hiện một cách chặt chẽ, nghiêm túc hơn
một số vùng xa đô thị. Chẳng hạn như theo
quy ước tổ chức lễ tang của xã Xuân Đỉnh
mà chúng tôi đã nói ở phần đầu, nhạc phục
vụ lễ tang không được quá 33 giờ đêm.
Trong khi đó người đến viếng rất đông, vì
vậy thời gian trước 33 giờ đêm và ban ngày
đều dành chủ yếu cho lễ viếng. Phục vụ cho
công việc này chỉ cần bộ phận nhạc tang
mà thôi. Những hình thức điễn xướng vốn
trước kia thường được thực hiện vào buổi
tối, nhất là về đêm khuya, thậm chí cho
đến gần sáng như hứt thập ân. hát chèo đò.
diễn xướng chèo đò nay không còn điều
kiện thuận lợi để thực hiện nữa. Thực tế
cũng đã có một số gia đình muốn tổ chức
hát chèo đò, hát thập ân hoặc mới đội nhạc
hiếu ở lại lâu hơn sau 399 giờ đêm. Vì nể gia
đình tang chủ và một phần vì được trả
thêm tiền mà có trường hợp các thành viên
trong đội nhạc vị phạm nội quy. Những
việc trên làm ảnh hưởng đến sự yên tĩnh và
giấc ngủ của dân làng. Chính vì vậy gia
đình tang chủ và đội nhạc bị nhắc nhỏ,
khiển trách. Đó là chưa kể khoản chi phí
tốn kém cho những việc đó. Do vậy, nếu so
với những làng ở cách xa đô thị như vùng
Phú Xuyên (Hà Tây) mà chúng tôi có dịp
tìm hiểu, các hình thức điễn xướng nghệ
thuật trong nghỉ thức tang ma ở Xuân Táo
không phong phú bằng. Nếp sống mới vì
vậy không chỉ thu hẹp thời lượng diễn
xướng mà còn thu hẹp eä số lượng các loại
hình diễn xướng trong nghỉ thức tang ma.
(Xem tiếp trang 40)
40
VỀ NGHI THỨC TANG MA...
(Tiếp theo trang 63)
Chúng tôi nghĩ rằng nếu tìm hiểu sâu
thêm những thay đổi xung quanh nghỉ
thức tang ma ở làng Xuân Tảo hoặc một số
làng ven đô khác đặc biệt là ở xung quanh
Hà Nội, ta có thể thấy rõ hơn tác động của
quá trình đô thị hóa và của cuộc sống trong
thời đại mới đối với văn hóa truyền thống
nói chung, với các nghi thức tang ma và các
hình thức diễn xướng... nói riêng.
L.0.L
(1 Lễ hội Thăng hong (2001), Nxb Hà
Nội, tr.302.
(2) Phan Kế Bính (1995), Nếp cũ con
người Việt Nam, Nxb Văn hóa, H, tr.31.
(3) Hà Tấn Phát (1961), Văn công Thọ
Mai gia lễ, Nxb Hồng Dân, 8, tr.18.
(4), (6) Phạm Côn Sơn (1999), Gia lẽ xưa
uà nay, Nxb Thanh niên, S, tr.91.
(5) Như trên, tr.92.
(7) Trương Thìn (1992), Việc £ang lế, Nxb
Văn hóa dân tộc, H, tr.16G -17.
(8) Quy ước tổ chức lễ tang của xã Xuân
Đỉnh, huyện Từ Liêm - thành phố Hà Nội
(1998), tr.5.
(9) Tho Mai gia lễ (bản dịch).
(10) Trương Thìn, Sdd, tr.3.