Luận văn Thạc sĩ khoa học
MỞ ĐẦU
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh phổ biến ở các nước phát triển và
cả các nước đang phát triển, ở nước ta bệnh có xu hướng tăng dần. Cùng với
bệnh ung thư và tim mạch, ĐTĐ là một trong ba bệnh có số người mắc tăng
nhanh nhất. ĐTĐ cũng có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội tiết do gây
ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Bệnh có nguyên nhân nội tiết với biểu hiện là
các rối loạn chuyển hóa, điển hình là tăng glucose huyết do thiếu hụt insulin
tuyệt đối hoặc tương đối hay do không đáp ứng với insulin. Bệnh thường kèm
theo các biến chứng cấp gây tử vong hoặc các biến chứng lâu dài như các
bệnh lý về tim mạch, mắt, thận, thần kinh [1, 5, 31].
Ở Việt Nam, các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính thường có xu hướng sử
dụng thuốc Đông Y hoặc thuốc Y học cổ truyền do chúng có độc tính thấp, rẻ
tiền và sẵn có. Sử dụng cây cỏ trong vườn nhà để làm thuốc cũng là truyền
thống lâu đời của dân tộc ta, nó đã để lại những kinh nghiệm quí báu trong
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
Chuối hột (Musra barjoo Sieb) là loài cây có mặt ở nhiều nơi trên đất
nước ta. Nhân dân ta đã theo kinh nghiệm dân gian để chữa một số bệnh như:
hắc lào, đau răng, sỏi thận, trĩ, mụn nhọt, tiêu chảy, ĐTĐ, … bằng các bộ
phận khác nhau của cây.
Để góp phần làm sáng tỏ hơn tác dụng điều trị ĐTĐ của cây chuối hột,
chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của cây
chuối hột Musra barjoo Sieb lên chuột gây tiểu đường type 2” với mục tiêu:
- Nghiên cứu ảnh hưởng của dịch chiết các phân đoạn quả và củ chuối
hột trên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2.
- Phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất hóa học có trong dịch
chiết các bộ phận cây chuối hột.
1 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Bệnh đái tháo đường
1.1.1. Khái niệm
Đái tháo đường (Diabetes mellitus) là một bệnh rối loạn chuyển hóa
đặc trưng bởi nồng độ glucose máu tăng thường xuyên và mãn tính do tụy
sản xuất thiếu insulin (thiếu insulin tuyệt đối) hoặc do giảm tác dụng của
insulin (thiếu insulin tương đối) bởi các nguyên nhân khác nhau với cơ chế
bệnh sinh phức tạp [1, 5].
Tăng glucose máu mãn tính thường kết hợp với sự hủy hoại, rối loạn và
sự suy yếu chức năng của nhiều cơ quan trong cơ thể. Những rối loạn chuyển
hóa này có thể gây hôn mê và tử vong trong thời gian ngắn nếu không được
điều trị kịp thời. Hậu quả muộn của các rối loạn chuyển hóa này là gây tổn
thương các mạch máu nhỏ và mạch máu lớn dẫn đến mù mắt, hoại tử thận,
hoại tử chi, nhiễm trùng, tổn thương thần kinh [5, 30].
1.1.2. Phân loại và cơ chế bệnh sinh
Hơn 2000 năm trước, bệnh ĐTĐ đã được mô tả trong y văn cổ, kể từ
đó đến nay đã có rất nhiều cách phân loại bệnh ĐTĐ khác nhau. Trải qua rất
nhiều thời kỳ, ĐTĐ được các nhà nghiên cứu phân chia thành rất nhiều loại
khác nhau.
Đến năm 1980 các chuyên gia nghiên cứu về bệnh ĐTĐ của WHO đã
phân loại bệnh ĐTĐ dựa vào các chỉ tiêu lâm sàng, dịch tễ học và các yếu tố
di truyền. Sự phân loại này đã được bổ sung và thay đổi chút ít vào năm 1985,
phân thành ĐTĐ phụ thuộc insulin (loại bắt buộc phải dùng insulin) và ĐTĐ
không dùng thuốc chữa [5, 13, 14].
Cho đến năm 1997, Ủy ban chuyên gia về chuẩn đoán và phân loại
bệnh ĐTĐ của WHO đưa ra đề nghị về cách phân loại bệnh ĐTĐ mới dựa
2 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
trên những tiến bộ về khoa học đó là dựa vào nguyên nhân sinh bệnh và đã
được dùng phổ biến đến ngày nay. ĐTĐ được chia thành hai loại như sau [5, 14]:
1.1.2.1. Bệnh đái tháo đường type 1
Bệnh ĐTĐ type 1 còn được gọi là bệnh ĐTĐ phụ thuộc insulin
(Insulin-dependent diabete), qua trung gian miễn dịch, hoặc là dạng khởi phát
lứa tuổi vị thành niên.
Hệ thống miễn dịch của cơ thể đã sinh ra các kháng thể chống lại hoặc
phá hủy tế bào β của đảo tụy sản xuất insulin. Khi không có insulin, tế bào sẽ
không sử dụng được glucose, do đó glucose trong máu sẽ tăng rất cao và
thường dẫn đến những biến chứng lâu dài.
Nghiên cứu trên những cặp sinh đôi cùng trứng, tỷ lệ ĐTĐ type 1 ở
những cặp này từ 30 – 40%. Điều này chứng tỏ không phải tất cả các trường
hợp là di truyền và còn có những yếu tố môi trường trong biểu hiện bệnh. Một
số yếu tố môi trường làm thay đổi chức năng của tế bào như: virus (quai bị,
rubella, coxsackie virus B4); một số chất hóa học (thuốc diệt chuột
nitrophenylurea) và những chất phá hủy tế bào (hydrogen cyanid có trong
tapioca bị hỏng và cây sắn).
Gen nhạy cảm với bệnh ĐTĐ ở người chủ yếu nằm trong nhánh ngắn
của nhiễm sắc thể số 6.
ĐTĐ type 1 có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng thường gặp ở trẻ
em và thanh niên. Người bị ĐTĐ type 1 bắt buộc phải dùng insulin hằng ngày
để điều hòa hàm lượng glucose trong máu. Ngoài ra người bệnh còn phải phối
hợp sử dụng thuốc với một chế độ dinh dưỡng và tập luyện hợp lý giúp ổn
định lượng glucose huyết, kéo dài cuộc sống [1, 5, 10, 14, 15].
1.1.2.2. Bệnh đái tháo đường type 2
Đây là dạng ĐTĐ thường gặp nhất, chiếm khoảng 80-90% số bệnh
nhân bị ĐTĐ. Thông thường, với bệnh ĐTĐ type 2, trong cơ thể vẫn còn sản
3 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
xuất insulin, nhưng insulin được sản xuất ra không đủ hoặc các tế bào không
thể sử dụng nó. Điều này được gọi là đề kháng insulin. Theo thời gian, đường
huyết sẽ tăng cao trong máu.
Hiện tượng kháng insulin tập trung nhiều ở gan và các loại mô ngoại vi
với nhiều hình thức kháng khác nhau như: giảm khả năng ức chế sản xuất
glucose ở gan, giảm khả năng thu nạp glucose ở mô ngoại vi, giảm khả năng
sử dụng glucose ở các cơ quan. Do đó, khi xét nghiệm, người ta vẫn thấy sự
có mặt của insulin trong máu. Ngoài ra, nồng độ insulin trong máu của một số
bệnh nhân ĐTĐ type 2 còn rất cao, nguyên nhân là do ở những bệnh nhân
này, tế bào đích không đáp ứng với insulin hoặc đáp ứng ở mức độ thấp, nên
nồng độ insulin phải cao hơn mức bình thường mới có thể đưa đến một đáp
ứng bình thường [1, 5, 14, 15].
ĐTĐ type 2 có thể diễn biến theo các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình
thường, nhưng bắt đầu có hiện tượng kháng insulin vì hàm lượng insulin tăng
cao hơn bình thường trong máu.
+ Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng mạnh dần và xuất
hiện hiện tượng tăng nồng độ glucose trong máu sau bữa ăn.
+ Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi nhưng sự bài tiết
insulin giảm dần và gây tăng nồng độ glucose huyết lúc đói. Các triệu chứng
của bệnh ĐTĐ bắt đầu biểu hiện ra bên ngoài.
ĐTĐ type 2 có tính di truyền mạnh, có nghĩa là bệnh có khuynh hướng
phát triển theo gia đình. Một số loại gen đã được xác định và một số khác
đang trong giai đoạn nghiên cứu được nghi ngờ là nguyên nhân gây ra ĐTĐ
type 2. Tuy nhiên trong đời sống hằng ngày, có rất nhiều yếu tố nguy cơ có
thể dẫn đến bệnh ĐTĐ type 2 đã được đề cập đến, bao gồm như: tăng huyết
áp, tăng triglyceride (mỡ) máu, ĐTĐ thai kỳ hoặc sinh con nặng hơn 4kg, chế
4 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
độ ăn nhiều chất béo, uống nhiều rượu, ngồi nhiều, béo phì hoặc thừa cân,
chủng tộc, đặc biệt khi có những người thân bị ĐTĐ type 2 hoặc bị ĐTĐ thai
kỳ, tuổi tác. Trong đó, béo phì và ít vận động là hai yếu tố nguy cơ được nhắc
đến nhiều nhất là có thể làm phát triển bệnh ĐTĐ type 2 [5, 13].
1.1.2.3. Một số loại ĐTĐ khác
Ngoài hai loại ĐTĐ thường gặp nhất là ĐTĐ type 1 và ĐTĐ type 2 ra
thì hiện nay người ta còn phân biệt một số loại bệnh ĐTĐ khác như:
ĐTĐ thai kỳ:
Đây là dạng ĐTĐ xảy ra ở một số phụ nữ mang thai và sẽ biến mất sau
khi sinh. Có thể gây ra các biến chứng cho mẹ và con trong quá trình mang
thai. Phụ nữ bị ĐTĐ thai kỳ có nhiều khả năng phát triển thành bệnh ĐTĐ
type 2 [13].
Một số type ĐTĐ khác:
Một bệnh nhân có thể có đồng thời nhiều đặc điểm của nhiều type khác
nhau. Ví dụ, trong ĐTĐ tự miễn âm ỉ (latent autoimmune diabetes in adults
(LADA)), còn gọi là ĐTĐ type 1.5 hay ĐTĐ đôi, bệnh nhân có đặc điểm của
cả ĐTĐ type 1 và type 2.
Phần lớn bệnh nhân LADA vẫn tiết đủ insulin khi mới được chẩn đoán
giống như ĐTĐ type 2 nhưng trong vòng vài năm sau bệnh nhân cần insulin
để kiểm soát đường huyết. Trong LADA, giống như trong ĐTĐ type 1, tế bào
của tuyến tụy không sản xuất insulin vì hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn
công và phá hủy tế bào . Các chuyên gia cho rằng ĐTĐ LADA là dạng diễn
tiến chậm của ĐTĐ type 1.
Nguyên nhân của những type ĐTĐ khác này có thể được gây ra bởi:
Khiếm khuyết về gen của tế bào , như là ĐTĐ khởi phát ở người trẻ (MODY).
Bệnh tuyến tụy hay tổn thương tuyến tụy, như viêm tụy hay xơ hóa tụy.
5 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Sản xuất quá nhiều hormone đối kháng insulin do bệnh lý khác như:
hormone cortisol trong hội chứng Cushings; những thuốc giảm hoạt động của
insulin như là glucocorticoids, hay hóa chất phá hủy tế bào ; nhiễm trùng,
như là bệnh sởi hay virus cytomegalo bẩm sinh; những rối loạn tự miễn hiếm,
như là hội chứng stiff-man, một bệnh tự miễn của hệ thần kinh trung ương [27].
1.1.3. Tỉ lệ mắc bệnh
Trên thế giới, hàng năm có tới hàng triệu người mắc ĐTĐ. Tỉ lệ phát
triển bệnh gia tăng theo sự phát triển của đời sống kinh tế, vì vậy gây ảnh
hưởng rất lớn tới sự phát triển của kinh tế và cộng đồng. Hiện nay, ĐTĐ đã
trở nên phổ biến ở nhiều nước đang trong giai đoạn hiện đại hóa và công
nghiệp hóa. Bệnh ĐTĐ chiếm tỉ lệ 3-7% người trưởng thành ở các nước châu
Âu. Gần đây, WHO đã báo động trên toàn thế giới về sự phát triển và mối
nguy hại của bệnh này: Năm 1985 thế giới có 30 triệu người mắc ĐTĐ; đến
năm 1994 con số này tăng lên 98,9 triệu người. Năm 2003 có khoảng 140
triệu người đang mắc ĐTĐ. Theo ước tính của Viện Nghiên cứu ĐTĐ Quốc
tế: năm 2025 có khoảng 300 triệu người mắc ĐTĐ [13, 22, 31].
Ở Việt Nam, theo thống kê của một số bệnh viện ở các thành phố lớn,
ĐTĐ là bệnh thường gặp nhất và có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh nội
tiết. Tỉ lệ bệnh nhân điều trị tăng lên từ năm này qua năm khác, ở thành thị
cao hơn nông thôn. ĐTĐ type 2 chiếm đa số bệnh nhân và thường gặp ở
người cao tuổi (90-95%). ĐTĐ type 1 chiếm tỉ lệ nhỏ và thường gặp ở người
trẻ dưới 40 tuổi [13, 22, 31].
6 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
1.1.4. Các xét nghiệm hóa sinh chẩn đoán bệnh ĐTĐ
1.1.4.1. Glucose huyết
Th¸ng 6 n¨m 1997, t¹i héi nghÞ thêng niªn cña Héi §T§ Mü t¹i
Boston ®· c«ng bè tiªu chÝ chÈn ®o¸n míi cña bÖnh §T§. Tiªu chÝ nµy ®îc
WHO c«ng nhËn vµo n¨m 1998. Néi dung cña tiªu chÝ lµ [13]:
- MÉu ®êng huyÕt t¬ng bÊt kú 200mg/dl kÕt hîp víi c¸c triÖu
chøng cña t¨ng ®êng huyÕt.
- §êng huyÕt t¬ng lóc ®ãi 126mg/dl (sau 8 giê kh«ng ¨n).
- §êng huyÕt t¬ng sau 2 giê uèng 75g glucose 200mg/dl.
1.1.4.2. Glucose niệu
Ở người bình thường, trong nước tiểu không có đường. Ngưỡng đường
thận trung bình là 160-180mg/ml (8,9-10mmol/l). Khi đường huyết tăng cao
vượt quá ngưỡng đường thận tức là vượt quá khả năng tái hấp thu glucose của
thận, glucose sẽ có trong nước tiểu. Ngưỡng đường thận thay đổi khác nhau
đối với từng cá thể. Trong một số trường hợp bệnh lý của thận mặc dù đường
huyết bình thường nhưng vẫn có đường trong nước tiểu. Ngược lại, ở người
cao tuổi thường có ngưỡng đường thận cao nên ít thấy đường niệu trong khi
đường huyết khá cao. Do đó xét nghiệm glucose niệu chỉ có giá trị khi tiến
hành đồng thời với xét nghiệm glucose huyết [5, 12, 14, 27].
1.1.4.3. Ceton niệu
Thể ceton được hình thành trong cơ thể là do tăng phân hủy lipid tạo ra.
Thể ceton gồm 3 thành phần: Acetoacetat, Aceton, β-Hydroxybutyrat; các
thành phần này được đào thải qua nước tiểu. Ở người bình thường không có
ceton trong nước tiểu. Trong trường hợp nhiễm toan chuyển hóa do ĐTĐ, cơ
thể đào thải nhiều ceton ra nước tiểu. Đây là dấu hiệu rất có giá trị báo trước
cho tình trạng hôn mê nhiễm toan.
7 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Hiện nay, có thể xác định glucose huyết, glucose niệu hay ceton niệu
một cách nhanh chóng, chính xác bằng các dụng cụ như que thử glucose niệu,
ceton niệu, máy và kit đo glucose huyết [5, 12, 14, 27].
1.1.4.4. Định lượng insulin và C-peptit trong máu
Insulin và C-peptit huyết được định lượng bằng phương pháp RIA
(Radioimmuno Assay-Định lượng miễn dịch phóng xạ) hoặc ELISA. C-peptit
được bài tiết cùng tiền insulin (Proinsulin) từ tế bào β tiểu đảo tụy, đây là yếu
tố liên kết giữa nhánh A và B của Proinsulin. C-peptit được bài tiết qua thận ở
trạng thái nguyên vẹn, không bị biến đổi. Định lượng C-peptit sẽ đánh giá
chính xác khả năng bài tiết insulin của tụy [5, 12, 14, 27].
1.1.4.5. Các xét nghiệm khác
Ngoài các xét nghiệm trên còn có các xét nghiệm khác để chẩn đoán
xác định và theo dõi tiến triển bệnh trong điều trị như: HbA1c (Glycosylated
hemoglobin), Albumin glycosylated và protein huyết thanh, protein niệu, β2-
Microglobulin [5, 12, 14, 27].
1.1.5. Biến chứng ĐTĐ
Biến chứng tim: đây là biến chứng nặng, thường là xơ cứng mạch vành
gây cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim.
Biến chứng ngoài da: ngứa toàn thân, ngứa sinh dục, mụn nhọt ngoài
da, u mỡ vàng, hoại tử mỡ, viêm da thể cứng bì teo.
Biến chứng mắt: nhiễm khuẩn mắt, liệt nhãn cầu gây nhìn đôi, viêm
đỏ mống mắt, bệnh võng mạc, thiên đầu thống chảy máu, trường hợp nặng
có thể mù.
Hoại tử do ĐTĐ: đây là biến chứng muộn của bệnh do lâu ngày bị bỏ
qua không điều trị. Thường là hoại tử ở chi dưới nhưng cũng có thể ở các tạng
như: tim, võng mạc, não, thận.
8 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Biến chứng thần kinh: đau dây thần kinh tọa, trụ; rối loạn cảm giác sâu,
mất phản xạ gân xương; liệt cơ.
Biến chứng thận: gây protein niệu, đái máu vi thể, hội chứng thận hư.
Biến chứng răng: là một trong các biến chứng sớm, thường là viêm lợi
và rụng răng.
Biến chứng phổi: áp xe phổi, đây là biến chứng rất dễ gặp.
Hôn mê: là biến chứng nặng nhất và thường gây tử vong. Bệnh nhân có
thể hôn mê do ĐTĐ như hôn mê do nhiễm toan, ceton, do tăng thẩm thấu
hoặc có thể hôn mê do hạ glucose huyết vì quá liều insulin [5, 14, 27].
1.1.6. Điều trị ĐTĐ
1.1.6.1. Chế độ không dùng thuốc
Chế độ ăn uống: việc điều trị ĐTĐ bằng chế độ ăn cần tuân theo
nguyên tắc: tổng số calo đưa vào phải cung cấp một năng lượng tương xứng
để đạt tới duy trì cân nặng tối ưu cho bệnh nhân và giữ tình trạng sức khỏe tốt nhất.
Vận động thể lực: vận động thể lực làm tăng nhạy cảm của insulin do
tăng số lượng và chất lượng của receptor insulin của tế bào. Thể dục làm giảm
một số biến chứng của bệnh [14, 27, 35].
1.1.6.2. Chế độ dùng thuốc
Ở Việt Nam có hai hướng sử dụng thuốc là:
1.1.6.2.1. Sử dụng thuốc tân dược: Theo ®êng dïng vµ nguån gèc, c¸c thuèc
h¹ glucose m¸u ®îc chia thµnh hai nhãm chÝnh:
- Insulin
- Các thuốc hạ glucose huyết đường uống
a. Insulin: Insulin ngoại sinh được sử dụng khi tụy không sản xuất đủ insulin
để điều hòa chuyển hóa glucid. Insulin dùng trong điều trị ĐTĐ type 1 hoặc
9 Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
type 2 khi dùng thuốc uống hạ đường huyết không còn tác dụng. Cơ chế tác
dụng của insulin bao gồm [14, 27, 35]:
- Tăng cường vận chuyển glucose từ máu vào tế bào, tăng cường
oxyhóa glucose tạo năng lượng và chuyển glucose thành glycogen dự trữ.
- Tăng cường tổng hợp protein bằng cách chuyển acid amin vào tế bào.
- Tăng cường chuyển hóa glucose thành chất béo dự trữ.
b. Các thuốc hạ glucose huyết đường uống
- Sulphonylurea: (tolbutamid, gliclazid) là thuốc dùng đầu tiên ở bệnh
nhân ĐTĐ type 2 không béo phì. Trong cơ thể, Sulphonylurea được gắn lên
thụ thể đặc hiệu nằm ở màng tế bào β tiểu đảo Langerhan và kích thích giải
phóng insulin. Khả năng kích thích giải phóng insulin của sulphonylurea trên
tế bào β phụ thuộc vào khả năng gắn với các thụ thể. Do đó sulphonylurea chỉ
có tác dụng khi tế bào β không bị tổn thương [14, 27, 35].
- Biguanide: (metformin) dùng cho bệnh nhân béo phì. Thuốc làm tăng
tác dụng của insulin tại thụ thể và sau thụ thể, tăng sử dụng glucose ở tổ chức
ngoại vi, đặc biệt là ở tế bào cơ. Thuốc làm giảm tạo glucose ở gan, giảm hấp
thu glucose ở ruột. Tuy nhiên, nhóm này không có tác dụng đối với sự bài tiết
insulin ở tụy. Do đó, nên phối hợp với sulphonylurea hoặc với insulin trong
điều trị [35].
- Các thuốc ức chế men α-glucosidase: (acarbose, miglitol) là
pseudotetrasaccharide có nguồn gốc từ vi khuẩn. Ở niêm mạc ruột non, thuốc
ức chế cạnh tranh men tiêu hóa tinh bột α-glucosidase, do đó làm chậm sự hấp
thu carbohydrate.
- Meglitinide: (repaglinide) thuốc làm giảm glucose huyết bằng cách
kích thích tiết insulin từ tế bào β tụy còn hoạt động.
- Thiazolidinedione hay Glitazon: (troglitazone, rosiglitazone) trong
nhân tế bào của những mô nhạy cảm với insulin (mô mỡ, mô cơ, mô gan) có
10
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
một loại cụ thể là PPARγ (Per-oxisome proliferator-activated receptor
gamma). Các glitazon tạo phức hợp với thụ thể PPARγ, qua đó thúc đẩy sự
điều hòa sao chép gen giúp tổng hợp một số protein làm tế bào tăng đáp ứng
với hoạt tính của insulin. Thuốc có tác dụng làm giảm trực tiếp tình trạng đề
kháng insulin, cải thiện chức năng tế bào , làm giảm đáng kể nồng độ insulin
nội sinh do đó gây hạ glucose huyết [35].
1.1.6.2.2. Sử dụng thuốc có nguồn gốc dược liệu
- Đái tháo đường theo quan niệm Đông Y:
BÖnh §T§ trong y häc cæ truyÒn gäi lµ chøng tiªu kh¸t mµ nguyªn
nh©n chñ yÕu lµ do ¨n uèng kh«ng ®iÒu ®é, ¨n nhiÒu c¸c chÊt cay nãng, bÐo,
ngät, do lao lùc, do c¨ng th¼ng thÇn kinh t¹o thµnh ho¶ nhiÖt, uÊt nhiÖt lµm
phÇn ©m cña c¸c phñ t¹ng: phÕ, vÞ, thËn bÞ hao tæn. H¶i Thîng L·n ¤ng
trong cuèn Y Trung Qu©n KiÖn cã viÕt: chøng bÖnh tiªu kh¸t phÇn nhiÒu do
ho¶ lµm tiªu hao ch©n ©m 5 chÊt dÞch bÞ kh« c¹n mµ sinh ra [4].
BÖnh §T§ trong y học cổ truyền chia ra lµm ba møc ®é kh¸c nhau: NÕu
bÖnh nh©n thÝch uèng níc nhiÒu th× bÖnh chñ yÕu ë thîng tiªu do phÕ ©m
h; nÕu thÝch ¨n nhiÒu bÖnh chñ yÕu ë trung tiªu do vÞ ©m h g©y ®ãi vµ gÇy;
nÕu bÞ ®i tiÓu nhiÒu th× bÖnh chñ yÕu ë phÇn h¹ tiªu do thËn ©m h kh«ng tµng
tr÷ ®îc tinh hoa cña ngò cèc, kh«ng chñ ®îc thuû g©y tiÓu nhiÒu vµ níc
tiÓu cã ®êng [4, 7, 8].
Muèn ch÷a bÖnh ph¶i trÞ c¶ gèc vµ ngän: trÞ ngän lµ trÞ chøng kh¸t
níc, ®ãi, tiÓu nhiÒu. TrÞ gèc lµ trÞ phÕ, tú, thËn lµ nh÷ng c¬ quan cã chøc
n¨ng chuyÓn ho¸ vµ ®iÒu tiÕt trong c¬ thÓ.
- Các thuốc Đông y sử dụng trong điều trị ĐTĐ:
Sử dụng thuốc có nguồn gốc thực vật trong phòng và chữa bệnh là thói
quen, kinh nghiệm và truyền thống của người dân Việt Nam và một số nước
trên thế giới. Một nghiên cứu về vấn đề sử dụng thảo dược thường xuyên cho
11
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
bệnh nhân ĐTĐ ở Marốc đã cho thấy liệu pháp thực vật là kinh tế nhất và
hiệu quả hơn thuốc hiện đại [4]. Có rất nhiều loài cây đã được dùng theo kinh
nghiệm dân gian để làm giảm nhẹ triệu chứng cũng như biến chứng của bệnh
ĐTĐ: Cải xoong (Nasturium officinale Brassicaceae); Mướp đắng
(Mormordica charantia Cucurbitaceae); Bồ công anh (Taraxacum officinale
Asteraceae); Dứa (Ananas sativus); Ổi (Psidium guajava); Rau má (Celltela
asiatica); Ngò tàu (Eryngium foetidum Apiaceae); Quỉ trâm thảo (Bidens pilosa
Asteraceae); Củ cải trắng (Ravanus sativus); Bạch truật (Atractiloides
macrocephala Asteraceae); Cam thảo nam (Scoparia ducis Scrophulariaceae);
Dừa cạn (Catharanthus roseus Apocynaceae); Hoài sơn (Dioscorea persimilis
Dioscoreaceae); Ngọc trúc (Polygotanum officinale Liliaceae), Chuối hột
(Musra barjoo Sieb),… [7, 8, 9].
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, một số cây đã và đang được nghiên
cứu để chứng minh tác dụng hạ glucose huyết như Mướp đắng (Mormordica
charantia Cucurbitaceae); Chuối hột (Musra barjoo Sieb); Thổ phục linh
(Smilax glabra Smilacaceae); Hương nhu tía (Ocimum sanctum Lamiaceae);
Kha tử (Terminalia chebula); Tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides); Tỏi
(Alium sativa Liliaceae); Mỏ quạ (Cudnaria tricuspidata Moraceae); Dừa cạn
(Catharanthus roseus Apocynaceae); Lô hội (Aloe vera Liliaceae); Cỏ mực
(Eclipta alba Asteraceae); Đơn kim (Bidens polisa var. radiata Asteraceae);
Nhân sâm (Panax ginseng Araliaceae),… Các nghiên cứu này đã cho thấy kết
quả khá khả quan, có thể dần dần đưa vào sử dụng trên lâm sàng [4, 7, 8, 9].
1.1.7. Các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh ĐTĐ
Bệnh ĐTĐ có 4 nhóm nguy cơ lớn: di truyền, nhân chủng, hành vi lối
sống và nhóm nguy cơ chuyển tiếp (các nhân tố trung gian).
12
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
1.1.7.1. Các yếu tố gen
Có vai trò quan trọng trong bệnh ĐTĐ type 2. Những người có bố, mẹ
hoặc anh chị em ruột của mình bị bệnh ĐTĐ có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 4-
6 lần những người khác. Nguy cơ này sẽ cao hơn khi cả hai bên nội ngoại đều
có người mắc bệnh ĐTĐ.
Khi bố hoặc mẹ mắc ĐTĐ thì tỷ lệ nguy cơ là 30%;
Khi cả bố và mẹ đều mắc ĐTĐ thì nguy cơ là 50%;
Trường hợp sinh đôi cùng trứng, nếu một người mắc bệnh thì người kia
sẽ được xếp vào nhóm bị đe dọa thật sự đối với bệnh ĐTĐ [26, 27, 30].
1.1.7.2. Các yếu tố nhân chủng học (giới, tuổi, chủng tộc)
Theo sắc tộc: Tỷ lệ mắc bệnh và tuổi mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo sắc
tộc. Ở Tây âu, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ type 2 ở người da vàng cao hơn người da
trắng từ 2-4 lần; tuổi mắc bệnh ở người da vàng trẻ hơn, thường trên 30 tuổi,
người da trắng thường hơn 50 tuổi.
Theo độ tuổi: đây là yếu tố được xếp lên vị trí đầu tiên trong số các yếu
tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ type 2. Khi cơ thể già đi, đặc biệt là từ 50 tuổi trở
lên, thì các chức năng tụy nội tiết cũng bị suy giảm theo và khả năng tiết
insulin của tụy cũng bị giảm. Khi đó, nồng độ glucose trong máu có xu hướng
tăng, đồng thời sự nhạy cảm của các tế bào đích với kích thích của insulin
giảm đi. Khi tế bào tụy không còn khả năng tiết insulin đủ với nhu cầu cần
thiết của cơ thể, glucose máu khi đói tăng và bệnh ĐTĐ thực sự xuất hiện [26,
27, 30].
1.1.7.3. Các yếu tố hành vi, lối sống
Béo phì
Bệnh béo phì được tổ chức Y tế thế giới định nghĩa là tình trạng tích
lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một số vùng cơ thể hay toàn than
13
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
tới mức ảnh hưởng tới sức khỏe. WHO thường dùng chỉ số khối cơ thể (Body
Mass Index – BMI) để nhận định tình trạng béo gầy. Công thức tính BMI là:
BMI = W/(H)2
W: Cân nặng cơ thể (kg)
H: Chiều cao cơ thể (m)
- BMI: 20-25 là bình thường;
- BMI ≥ 25 là thừa cân;
- BMI ≥ 30 là béo phì.
Đó là chỉ số dành cho người châu Âu và châu Mỹ, người châu Á, BMI
bình thường có giới hạn từ 18,5 – 23,0. Theo chỉ số khối cơ thể BMI, nguy cơ
mắc bệnh ĐTĐ được xếp loại như sau:
- BMI < 18,5: không có nguy cơ,
- 18,5 < BMI < 22,9: nguy cơ thấp,
- 23,0 < BMI < 24,9: có nguy cơ ở mức trung bình,
- 25,0 < BMI < 29,9 (béo độ 1): nguy cơ cao,
- BMI ≥ 30,0 (béo phì độ 2): nguy cơ rất cao.
ĐTĐ type 2 rất phổ biến ở những người béo phì. Tỷ lệ những người
béo phì bị ĐTĐ type 2 đang gia tăng ở các nước trên toàn thế giới, không chỉ
ở lứa tuổi trên 40 mà còn gặp cả ở những người đang trong độ tuổi thanh
thiếu niên [14, 15, 17, 30].
Kháng insulin tồn tại cả ở gan và các mô ngoại vi, có thể xuất phát từ
những bất thường trong các phân tử liên quan đến con đường truyền tín hiệu
insulin. Mặc dù nguyên nhân có thể từ những nhân tố không có mặt trong con
đường truyền tín hiệu insulin, nhưng chúng làm rối loạn hay biến đổi một số
phân tử trong mạng lưới này [15, 24, 25].
Trong trường hợp này, các cytokine như yếu tố hoại tử mô TNF-α tạo
ra tình trạng kháng insulin bằng cách bất hoạt một số phân tử trong con đường
truyền tín hiệu insulin thong qua một số cơ chế như:
14
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
- Photphoryl hóa các gốc serin chủ chốt, giảm độ nhạy cảm của thụ thể
insulin, khiếm khuyết trong hoạt tính của IR tyrosine kinase và giảm hoạt tính
của IRSI và P13 kinase.
- Giảm hoạt hóa một số phân tử như: thụ thể γ hoạt hóa quá trình tăng
sinh peroxisome (PPAR-γ) hoặc leptin.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra adiponectin/ACRP30 và resistin chính là
các phân tử làm trung gian cho quá trình kháng insulin. Tuy nhiên vẫn chưa
rõ rằng liệu tình trạng kháng insulin trong béo phì có phải là cơ chế thích nghi
với sự dư thừa năng lượng hay đó là những hiệu ứng không mong muốn của
tình trạng nhiễm độc lipid trong một hệ thống vốn sinh ra để tồn tại trong điều
kiện thiếu năng lượng? Nói cách khác, có thể dưới điều kiện nhiễm độc lipid,
các cơ chế ban đầu được tạo ra cho các mục đích khác như apotosis hay bảo
vệ vật chủ, lại bị hoạt hóa không chính xác.
Người ta đã tìm thấy sự giảm khả năng hoạt động của insulin tại thụ
thể do giảm gắn insulin vào các thụ thể. Những bất thường ở điểm gắn này
đã được tìm thấy là do có biến đổi về cấu trúc ở các gen điều hòa tổng hợp
insulin và các thụ thể đặc hiệu gắn insulin. Đã có những bằng chứng cho
thấy có sự suy giảm số lượng các thụ thể insulin ở người bệnh ĐTĐ type 2,
chủ yếu là ở các tế bào mô mỡ [15, 24, 25].
Ít hoạt động thể lực
Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy, việc tập luyện thể lực thường
xuyên có tác dụng làm giảm nồng độ glucose huyết tương ở bệnh nhân ĐTĐ
type 2, đồng thời giúp duy trì sự bình ổn của lipid máu, huyết áp, cải thiện
tình trạng kháng insulin, và một điều tuyệt vời nữa là cải thiện tích cực về mặt
tâm lý [27, 30].
15
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Chế độ ăn
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ tăng cao ở những
người có chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, nhiều carbonhydrat tinh chế.
Ngoài ra, các chế độ ăn này thiếu vitamin, các yếu tố vi lượng góp phần làm
thúc đẩy sự tiến triển bệnh ở những người trẻ cũng như người cao tuổi. Đặc
biệt ở người già mắc bệnh ĐTĐ, cơ thể có sự tăng sản xuất gốc tự do (là nhân
tố làm tăng quá trình lão hóa cơ thể), do vậy việc bổ sung các chất chống oxi
hóa như vitamin C, E sẽ phần nào giúp cải thiện được hoạt động của insulin
và quá trình chuyển hóa [27, 30].
Các yếu tố khác
Stress: Tình trạng Stress kéo dài do áp lực từ công việc, căng thẳng
trong cuộc sống hàng ngày là một “tay nội gián” cho bệnh ĐTĐ. Lối sống
công nghiệp và hiện đại hóa: Từ phương tiện đi lại hiện đại hơn làm giảm cơ
hội vận động; công việc văn phòng, các bữa ăn với thức ăn nhanh nhiều năng
lượng,… đây là những yếu tố tiếp tay cho sự tấn công của bệnh ĐTĐ vào loài
người của xã hội hiện đại [27, 30].
Các yếu tố chuyển hóa và các loại nguy cơ trung gian
- Rối loạn đường máu lúc đói, rối loạn dung nạp glucose
- Kháng insulin
1.2. Chuối hột
Chuối hột (còn gọi chuối hạt, chuối chát) có tên khoa học là: Musra
barjoo Sieb, hay Musa brachycarpa, Musa seminifera Musaceae (họ Chuối -
Musaceae) [7, 8, 9].
16
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Hình 1. Cây chuối hột
1.2.1. Đặc điểm thực vật và phân bố
Chuối hột thuộc lớp thực vật một lá mầm. Cây thân giả, cao 2-4m, to,
màu xanh. Lá to có phiến dài, xanh hơi mốc mốc, bẹ xanh. Buồng hoa nằm
ngang, mo đỏ sẫm, không quấn lên, có phác hoa dạng ghé tạo thành buồng
chuối ở tận ngọn, có nhiều hoa trong một buồng, hoa sắp thành hai hàng tạo
thành nải chuối. Các hoa đực nằm ở nải trên ngọn (ngọn của buồng), còn ở
phần gần cọng của phác hoa (gốc của buồng) là hoa lưỡng tính. Quả có
cạnh, thịt quả nạc chứa nhiều hạt to 4-5mm. Mỗi quả chứa trung bình 15-25
hạt. Bộ phận thường dùng là củ, quả, thân. Có thể thu hái các bộ phận của
cây quanh năm.
Cây mọc hoang hoặc được trồng ở nhiều nơi trên đất nước ta, đặc biệt
là vùng rừng núi phía Bắc và các tỉnh miền Trung. Người dân ở đây thường
dùng lá để gói bánh, quả để ăn và làm gia vị, thân để nuôi gia súc. Theo kinh
nghiệm dân gian, một số người đã sử dụng các bộ phận khác nhau của cây để
làm thuốc [7, 8, 9].
17
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
1.2.2. Thành phần hóa học
Năm 1987, J.Horry và M.Ray (Pháp) đã nghiên cứu và xác định trong lá
bắc của cây có anthocianin. Trong đó, delphinidin và cyanidin là các
anthocianidin chính.
Năm 1995, Kong. L & cộng sự (Trung Quốc) đã nghiên cứu phân lập
enzyme polyphenol oxydase trong vỏ quả chuối.
Năm 1998, T.Kamo & cộng sự (Nhật Bản) xác định được phytoalexin;
1,2,3,4-tetrahydro-6,7-dihydroxy-1-(4'-hydroxycinnamyliden) naphthalen-2-
on; 2-(4'-methoxyphenyl)-1,8-naphthalic anhydrid; 2-phenyl-1,8-naphthalic
anhydrid trong quả.
Năm 1991 M.Ali (Ấn Độ) công bố ba Neo-clerodan Diterpenoid phân
lập được từ hạt Musa balbisiana là: musabalbisian A, B, C. Cấu trúc của các
thành phần này cũng đã được xác định bằng phương pháp phân tích quang
phổ và phương pháp hóa học.
Ở Bộ môn Dược liệu - Khoa Dược, Đại học Y Dược, TP Hồ Chí Minh,
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh và Bùi Mỹ Linh đã nghiên cứu xác định thành phần
hóa học của hạt chuối hột. Kết quả cho thấy, trong hạt chuối hột có các chất:
saponin, coumarin, tanin, flavonoid anthocianosid và hợp chất uronic, tinh
dầu, phytosterol …
1.2.3. Tác dụng của cây chuối hột
Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc”
(Nhà xuất bản Y học - 1963) thì tác dụng sinh lý của chuối hột với nhiều
phương pháp khác nhau, các phần của cây chuối hột (gồm hạt, quả, củ) được
sử dụng để chữa trị rất nhiều loại bệnh:
- Trị đau răng, lợi có mủ: Vỏ hoặc củ chuối hột, da trăn, cam thảo nam
đồng lượng đốt toàn tính cùng phèn phi, tán bột, trộn dầu dừa bôi vào chân răng.
18
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
- Trị nóng sốt phát cuồng, nói sảng: Thân chuối xẻ đôi, bỏ giun đất vào
nướng kĩ, ép lấy nước uống.
- Trị sỏi đường niệu: hạt, quả xanh sắc nước uống; nước trích từ thân
cây, uống mỗi sáng một chén, dùng 1-2 tháng.
- Trị chứng viêm loét dạ dày: Chuối hột già thái mỏng, phơi khô, tán
bột uống với nước nóng.
- Trị chứng trĩ ra máu: nõn chuối hột nướng nóng chườm vào hậu môn;
nõn chuối tiêu, bột khô của trái chuối hột đem giã nát gói vào lá chuối non,
nướng cho nóng đắp vào hậu môn.
- Trị mụn nhọt: Khi nhọt đã hình thành, sưng, nóng, đỏ, đau nhức
nhiều; củ chuối rửa sạch giã nát với muối rồi đắp lên nhọt mỗi ngày.
- Giải độc thực phẩm: quả xanh thái mỏng, ăn sống cùng với các rau
sống khác, trừ được các chất độc trong rau sống hay trong thịt cá.
- Trị bệnh đường ruột: Ăn quả chín, nhai cả hạt trị giun; vỏ quả 4-8g
sắc uống trị kiết lị.
- An thai: Củ chuối, rễ móc mỗi thứ 20g sắc uống.
- Chữa sản hậu tê thấp, chân tay tê dại: Hoa chuối thái nhỏ, sao vàng hạ
thổ, sắc lấy nước uống, bã đắp vào nơi tê đau.
- Cầm máu: Thân cây giã nát đắp vào vết thương chảy máu.
- Trị ĐTĐ:
+ Uống nước trích từ thân cây chuối hột mỗi sáng.
+ Trái chuối hột già hoặc vừa chín, xát mỏng, phơi khô, sắc uống thay
nước trong ngày.
+ Củ chuối giã nát lấy nước uống.
+ Ốc bươu rửa sạch bung với củ chuối ăn chữa bệnh ĐTĐ.
19
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
1.3. Một số hợp chất tự nhiên ở thực vật
1.3.1. Saponin
Saponin là một loại glicozid tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực
vật. Dưới tác dụng của axit loãng và enzyme trong thực vật, vi khuẩn, saponin
bị thủy phân thành các phần gồm genin gọi là sapogenin và phần đường gồm
một hoặc nhiều phân tử đường.
Dựa vào cấu trúc của phần sapogenin, người ta chia saponin ra làm 3
nhóm lớn là triterpenoid saponin, steroid saponin và glicoancaloid dạng
steroid.
Tác dụng sinh học: saponin có tác dụng long đờm, chữa ho (viễn chí,
cát cánh, cam thảo, thiên môn, mạch môn); saponin có mặt trong các vị thuốc
bổ như nhân sâm, tam thất…; saponin làm tăng tính thấm của tế bào, có tác
dụng chống viêm, kháng khuẩn, kháng nấm, ức chế vius [18].
1.3.2. Flavonoid
Các flavonoid là lớp chất phổ biến trong thực vật. Chúng là hợp chất
được cấu tạo gồm hai vòng benzene A, B được kết nối bởi 1 dị vòng C với
khung cacbon C6-C3-C6. Các flavonoid là dẫn xuất của 2-phenol chroman
5
4'
6'
B
8
3'
1 O
2
7
1'
2'
C
A
3
6
4
5
Flavan (2-phenyl chroman)
(flavan) [14].
Các flavonoid có ở trong tất cả các bộ phận của cây, bao gồm quả,
phấn, hoa, rễ, … Một số flavonoid có hoạt tính sinh học thể hiện ở khả năng
chống oxi hóa.
20
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Tác dụng sinh học [18]:
- Flavonoid có khả năng kìm hãm quá trình oxy hóa dây chuyền sinh ra
bởi gốc tự do hoạt động. Những flavonoid có các nhóm hydroxyl sắp xếp ở vị
trí octo dễ dàng bị oxy hóa dưới tác dụng của các enzyme polyphenoloxydaza
tạo thành các semiquinon hoặc quinon. Semiquinon hoặc quinon là những gốc
tự do bền vững, chúng có thể nhận điện tử và hydro từ chất cho khác nhau để
trở lại dạng hydroquinone. Các chất này có khả năng phản ứng với các gốc tự
do hoạt động sinh ra trong quá trình sinh lý và bệnh lý để tiêu diệt chúng.
- Flavonoid có khả năng điều hòa hoạt độ enzyme do khả năng liên kết
với nhóm amin trong phân tử protein, làm thay đổi cấu hình không gian của
enzyme, do đó tạo hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Flavonoid có tính kháng khuẩn, kháng virus, tăng khả năng đề kháng
của cơ thể do kích thích lympho bào, tăng sản xuất interferon.
- Flavonoid có hoạt tính của vitamin P, làm tăng tính bền và đàn hồi
của thành mạch, giảm sức thấm của mao mạch. Flavonoid còn có tác dụng
chống ung thư do kìm hãm các enzyme oxy hóa khử, kìm hãm phân bào, phá
vỡ cân bằng trong các quá trình trao đổi chất của tế bào ung thư.
- Flavonoid có hoạt tính chống ĐTĐ.
1.3.3. Alkaloid
Alkaloid là hợp chất hữu cơ chứa nitơ, đa số có nhân dị vòng, có tính
kiềm, thường gặp ở thực vật và đôi khi cả ở động vật, thường có hoạt tính
sinh học mạnh và cho phản ứng hóa học với một số thuốc thử, gọi là thuốc
thử chung của alkaloid.
Tác dụng sinh học: Alkaloid được hình thành từ các sản phẩm của quá
trình trao đổi chất như protein. Ở trong cây, alkaloid được coi như là chất dự
trữ cho qua trình tổng hợp protein, các chất bảo vệ cây, tham gia sự chuyển
hóa hydro ở các mức độ khác nhau [14, 18].
21
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
1.3.4. Tanin
Tanin là những hợp chất phenol có trọng lượng phân tử cao, có chứa cả
nhóm chức hydroxyl và các nhóm chức khác như cacboxyl, có khả năng tạo
phức với protein và các phân tử khác trong điều kiện môi trường đặc biệt.
Tanin được cấu tạo dựa trên axit gallic và axit tanic. Tanin có hai nhóm
chính là tanin thủy phân và tanin ngưng tụ.
Tác dụng sinh học: Tanin là chất cầm rửa do có tác dụng giảm sự bài
tiết trong ống tiêu hóa, kết tủa protein tạo thành một màng che niêm mạc.
Tanin chữa ngộ độc kim loại nặng, chống ung thư. Tanin ở nồng độ cao ức
chế hoạt động của các enzyme nhưng ở nồng độ thấp chúng thường kích hoạt
22
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
enzyme. Tanin còn có tác dụng diệt khuẩn, cầm máu, giảm đau [14, 18].
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Mẫu thực vật
Cây chuối hột được thu hái ở Tân Yên – Bắc Giang vào tháng 10 năm 2009.
2.1.2. Đối tượng động vật
Chuột nhắt trắng chủng Swiss, cân nặng từ 18-22g do Viện Vệ sinh
dịch tễ Trung ương cung cấp.
2.1.3. Hóa chất và thiết bị nghiên cứu
2.1.3.1. Dụng cụ và thiết bị tách chiết
Các dụng cụ và thiết bị dùng cho tách chiết và tinh chế các hợp chất:
- Bình chiết
- Máy cô quay chân không
- Đèn tử ngoại hai bước sóng 254 và 368nm
- Tủ sấy chân không
- Micropipet
- Bình sắc ký loại phân tích và điều chế
- Cột sắc ký pha thường các loại đường kính
- Máy phun dung dịch thuốc thử
- Bếp điện
- Máy đo đường huyết hiệu Onetouch Johnson.
2.1.3.2. Dụng cụ và thiết bị xác định cấu trúc
- Máy phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMR AM500 FT-NMR
spectrometer
- Máy sắc ký lỏng cao áp ghép nối khối phổ (ESI) AGILENT 1100 LC-
MSD Trap spectrometer
- Thiết bị đo điểm nóng chảy Kofler micro-hotstage
- Thiết bị đo độ quay cực JASCO DIP-1000 KUY polarimeter
23
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
2.1.3.3. Hóa chất
- STZ (streptozotocin), Sigma. ST. Louse.
- Silica gel 60 (0,04-0,063 mm) Merck.
- Silica gel pha đảo ODS hoặc YMC (30-50 µm, FuJislisa Chemical Ltd.).
- Bản mỏng tráng sẵn pha ngược RP18 F254s (Merck).
- Bản mỏng điều chế pha thường DC-Alufolien 60 F254 (Merck).
- Các loại dung môi hữu cơ như methanol, ethanol, ethylacetat,
24
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
chloroform, n-hexan, aceton, … là hoại hóa chất tinh khiết của Merck.
Luận văn Thạc sĩ khoa học
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu theo
Mẫu quả và củ chuối hột khô nghiễn nhỏ
hướng sau:
Ngâm trong n-hexan
Cao nước
Cao n-hexan
Cặn mẫu sấy khô
Gây ĐTĐ type 2 bằng cách tiêm STZ liều 120mg/kg thể trọng
Ngâm trong ethylacetat
Cao ethylacetat
Cặn mẫu sấy khô
Ngâm trong cồn 600
Chuột có nồng độ glucose huyết cao
Cao cồn 600
Xác định cấu trúc các chất
Thử khả năng hạ đường huyết trên chuột ĐTĐ type 2
Chuột được nuôi béo phì
Hình 2. Sơ đồ nghiên cứu
2.2.1. Khảo sát sơ bộ thành phần hóa học của cây chuối hột
2.2.1.1. Thử định tính saponin
Phản ứng tạo bọt [14, 18]:
Để phát hiện nhanh chóng các saponin người ta thường dựa vào tính
tạo bọt của chúng. Các saponin steroid thường tạo bọt bền vững trong môi
trường kiềm, còn các saponin triterpenoid lại tạo bọt bền vững trong môi
trường axit. Dựa vào điều này người ta có thể phát hiện sơ bộ 2 loại saponin
steroid và triterpenoid.
Pha mẫu thử trong ethanol với một lượng thích hợp. Lấy 2 ống nghiệm:
25
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Ống 1: 5ml dung dịch NaOH 0,5N (pH = 13).
Ống 2: 5ml dung dịch HCl 0,1N (pH = 1).
Cho vào mỗi ống 5ml dịch chiết mẫu thử, lắc mạnh 2 ống, nếu thấy có
nhiều bọt và bền vững trong môi trường kiềm là có mặt của saponin steroid,
nếu thấy nhiều bọt và bền vững trong môi trường axit là saponin triterpenoid.
2.2.1.2. Thử định tính Flavonoid
+ Phản ứng Shinoda:
Cho dung dịch mẫu vào 2 ống nghiệm:
Ống 1: Dùng làm đối chứng.
Ống 2: Nhỏ từ từ vài giọt HCl, thêm một chút bột Mg vào, để 1-2 phút
rồi đun nóng.
Phản ứng dương tính khi trong ống nghiệm xuất hiện màu đỏ tươi hay
đỏ da cam.
+ Phản ứng với dung dịch kiềm NaOH 10%:
Cho dung dịch mẫu vào 2 ống nghiệm: Ống 1 làm đối chứng, ống 2
thêm vài giọt NaOH 10%. Phản ứng dương tính khi trong ống nghiệm xuất
hiện màu vàng đậm [13, 18].
2.2.1.3. Thử định tính Alcaloid
Mẫu thử được pha trong dung dịch axit sunfuric 2 – 5% với một lượng
thích hợp để làm các phản ứng:
+ Phản ứng với thuốc thử Vans-Mayer (HgCl2 và KI trong nước):
Alcaloid cho kết tủa trắng hay vàng nhạt.
+ Phản ứng với thuốc thử Dragendorff (hỗn hợp Bi(NO3)3 và KI trong
dung dịch axit acetic): Alcaloid cho kết tủa màu vàng cam đến đỏ [13, 21].
2.2.1.4. Thử định tính Tanin
+Phản ứng với vanilin: Cho vài giọt dịch mẫu vào 2 ống nghiệm: một
ống làm đối chứng, ống 2 thêm vài giọt thuốc thử vanilin/H2SO4. Phản ứng
dương tính khi thấy màu đỏ đậm.
26
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
+ Phản ứng với chì acetat: Cho vài giọt chì acetat 10% vào dung dịch
mẫu. Phản ứng dương tính khi thấy xuất hiện kết tủa [13, 18].
2.2.1.5. Thử định tính glycozid
+ Phản ứng Keller-Killian:
Dung dịch A: 5ml CH3COOH 10% + 0.1ml FeCl3
Dung dịch B: một ít H2SO4 đ + 0.5ml FeCl3
Lấy 0,01g mẫu thử đã cô cạn cho vào ống nghiệm. Thêm 1ml dung
dịch A cho hòa tan hết mẫu, sau đó nghiêng ống nghiệm cho từ từ dung dịch
B vào, nếu xuất hiện màu nâu đỏ giữa hai lớp chất lỏng là dương tính [13, 18].
2.2.1.6. Thử định tính steroid
Hòa tan một lượng mẫu cần thiết trong dung dịch chloroform (00C). Cho vào ống nghiệm 1ml anhydric acetic + 1ml chloroform (để ở 00C) trong
vài phút, tiếp đến nhỏ vài giọt H2SO4 đặc. Cho mẫu đã hòa tan trong
chloroform vào hỗn hợp trên, nếu xuất hiện màu xanh lục, hồng, da cam hoặc
đỏ (màu bền vững) thì kết luận mẫu dương tính [13, 18].
2.2.2. Tạo mô hình chuột ĐTĐ type 2 trên chuột béo phì thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành tạo mô hình ĐTĐ type 2 trên chuột gồm hai bước
chính là:
+ Tạo chuột béo phì bằng chế độ dinh dưỡng giầu chất béo trong
vòng 8 tuần.
+ Gây ĐTĐ type 2 bằng STZ trong vòng 10 ngày.
2.2.2.1. Gây béo phì
Chuột mua từ Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, được nuôi ở điều kiện
bình thường. Chuột được cho ăn thức ăn tiêu chuẩn (do Viện Vệ sinh Dịch tễ
Trung ương) trong 3-4 ngày để thích nghi với điều kiện môi trường mới sau
đó được phân thành hai nhóm:
27
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
+ Nhóm 1 – nhóm đối chứng: 20 con, tiếp tục cho ăn thức ăn tiêu chuẩn
(ND - Normal diet).
+ Nhóm 2 – nhóm béo phì: 100 con, cho ăn thức ăn giầu chất béo (30%
chất béo, 20% protein, 40% cacbonhydrat, 5% vitamin và các muối khoáng)
(HFD – High fat diet)
Chuột được nuôi trong vòng 8 tuần, sau đó tiến hành chọn lọc những
con chuột đạt tiêu chuẩn để tiến hành thực hiện các nghiên cứu tiếp theo.
2.2.2.2. Gây ĐTĐ type 2 thực nghiệm bằng Streptozotocin
Streptozotocin (STZ) là chất hóa học thuộc nhóm hợp chất glucosamine
nitrosorea, có công thức hóa học là C8H15N3O7, tồn tại trong tự nhiên, có khả
năng gây độc đặc hiệu với tế bào β sản xuất insulin của tuyến tụy ở động vật
có vú. STZ được phát hiện có trong một chủng vi khuẩn có tên là
Streptomyces achromogenes vào những năm 50 của thế kỷ 20, hiện nay STZ
đang được sử dụng trong y tế để điều trị một số ung thư trên đảo tụy
Langerhan và là chất gây ĐTĐ hữu hiệu trên các mô hình động vật thực
nghiệm, nhằm phục vụ cho các nghiên cứu y học [13, 32, 33].
Cơ chế gây độc: STZ nhận biết và xâm nhập vào các tế bào β qua kênh
vận chuyển glucose GLUT2, alkyl hóa và làm tổn thương ADN, cuối cùng
dẫn đến hoại tử tế bào. Hoạt tính alkyl hóa được cho là do hoạt động của nhóm nitrosourea, đặc biệt là vị trí O6 của guanine.
Tùy vào liều lượng STZ và cách thức tiến hành tiêm thuốc mà người ra
có thể gây mô hình động vật ĐTĐ type 1 hay ĐTĐ type 2. Liều trên chuột
nhắt dao động từ 100-150mg/kg, trên chuột cống dao động từ 40-100mg/kg
[13, 32, 33].
Để tạo mô hình ĐTĐ type 2 thực nghiệm ở chuột, sau khi nuôi 8 tuần,
các con chuột được nhịn đói khoảng 8h, tiến hành tiêm màng bụng STZ (pha
trong đệm citrat 0.01M, pH = 4.3) một lần với liều 120mg/kg thể trọng. Phân
lô cụ thể như sau:
28
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Nhóm đối chứng:
- Lô 1: ND + đệm
- Lô 2: ND + STZ
Nhóm béo phì:
- Lô 3: HFD + đệm
- Lô 4: HFD + STZ
Sau khi tiến hành tiêm STZ, các con chuột vẫn được nuôi dưỡng theo
chế độ dinh dưỡng ban đầu. Nồng độ glucose huyết được kiểm tra sau 0h,
48h, 72h, 5 ngày, 7 ngày, 8 ngày và 10 ngày tương ứng.
2.2.3. Phương pháp định lượng glucose huyết
Định lượng glucose huyết bằng kỹ thuật enzyme. Glucoseoxidase bị
oxy hóa nhờ sự xúc tác của các enzyme có trên bề mặt của vùng phẩn ứng
giấy thử và đọc kết quả trên máy One Touch Ultra do hãng Johnson &
Johnson sản xuất [12, 20, 21].
2.2.3.1. Nguyên lý hoạt động
Khi máu tiếp xúc với bề mặt của vùng phản ứng que thử, glucose (trong
máu) sẽ phản ứng với oxy (trong không khí) nhờ xúc tác của enzyme
glucooxydase (có ở trên bề mặt vùng phản ứng của giấy thử) tạo acid gluconic
và hydrogen peroxide. Hydrogen peroxide vừa tạo ra sẽ oxy hóa thuốc nhuộm
trên bề mặt vùng phản ứng làm biến đổi màu của giấy thử vùng phản ứng (từ
màu kem chuyển dần sang màu xanh). Độ đậm màu xanh tuỳ thuộc vào nồng
độ glucose chứa trong mẫu máu.
Mỗi 1cm2 của vùng phản ứng trên giấy thử gồm các chất sau: glucose
oxidase (14IU), peroxidase (11IU), 3- Methyl-2-benzothiazolinonehydrazone
hydrochloride (0.06mg), và acid 3-Dimethyllaminnobenzoic (0.12mg). Các
thành phần này đóng vai trò là các chất xúc tác phản ứng oxy hóa glucose và
29
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
chất chỉ thị màu giúp nhận biết nồng độ glucose có trong mẫu máu nhờ hệ
thống quang học của máy One Touch Ultra.
2.2.3.2. Phương pháp tiến hành
Máy One Touch Ultra đo lượng đường glucose trong máu toàn phần.
Máu được thấm vào đầu trên của que thử One Touch Ultra và tự động hút vào
vùng đo nơi phản ứng xảy ra.
- Gắn một que thử để bật máy. Nhấn nút C để chọn mã số chính xác với
mã ghi trên lọ que thử.
- Tạo vết cắt trên đuôi chuột, bỏ giọt máu đầu, lấy giọt máu thứ 2.
Mẫu máu dùng cho việc đo là 1µl, phải là một máu tròn đầy. Thấm nhẹ giọt
máu vào điểm nhận máu trên đầu que thử. Sau 5 giây kết quả sẽ hiện thị
trên màn hình.
2.2.4. Nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của các phân đoạn dịch chiết
quả và củ chuốt hột lên chuột ĐTĐ type 2 thực nghiệm
Chuột bị ĐTĐ type 2 được tiến hành phân lô để nghiên cứu khả năng
hạ đường huyết khi xử lý với các dịch chiết khác nhau:
Lô 1: Nhóm đối chứng cho uống nước muối sinh lý 10ml/kg
Lô 2: Uống metfomin liều 500mg/kg
Lô 3: Uống dịch chiết nước tổng số quả chuối hột liều 500mg/kg
Lô 4: Uống dịch chiết phân đoạn n-hexan quả chuối hột liều 500mg/kg
Lô 5: Uống dịch chiết phân đoạn ethylacetat quả chuối hột liều 500mg/kg Lô 6: Uống dịch chiết phân đoạn cồn 600 quả chuối hột liều 500mg/kg
Lô 7: Uống dịch chiết nước tổng số củ chuối hột liều 500mg/kg
Lô 8: Uống dịch chiết phân đoạn n-hexan củ chuối hột liều 500mg/kg
Lô 9: Uống dịch chiết phân đoạn ethylacetat củ chuối hột liều 500mg/kg Lô 10: Uống dịch chiết phân đoạn cồn 600 củ chuối hột liều 500mg/kg
30
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Chuột được uống thuốc vào 8h sáng hằng ngày và đo nồng độ
glucose huyết vào các thời điểm: 0h (trước khi thí nghiệm), 2h, 4h, 8h, 3
ngày, 15 ngày.
Các số liệu được xử lý bằng thuật toán thống kê X. t-test student.
2.2.5. Phương pháp xác định hoạt tính chống oxi hóa của một số enzyme
2.2.5.1. Xác định hoạt độ enzyme catalase
Nguyên tắc
Catalase phân giải H2O2 thành H2O và O2, lượng H2O2 thừa được chuẩn
độ bằng KMnO4 trong môi trường axit. Phản ứng tiến hành theo phương trình
[11, 23]:
H2O2 H2O + O2
2KMnO4 + 5H2O2 + 3H2SO4 = 2MnSO4 + K2SO4 + 8H2O + 5O2
Máu chuột được lấy từ chuột ĐTĐ type 2 sau 10 ngày cho uống dịch
chiết thực vật và pha loãng 1000 lần để thực hiện thí nghiệm.
Tiến hành: 4 bình mẫu (mỗi bình 4ml H2O)
2 bình mẫu 2 bình đối chứng
- 1ml mãu pha loãng - 1ml máu pha loãng và đun sôi trong
2 phút, để 30 phút ở nhiệt độ phòng - 2ml H2O2 1% để 30 phút
- 2ml H2O2 1% để 30 phút
- 5ml H2SO4 10%
- 5ml H2SO4 10%
Chuẩn độ bằng KMnO4 đến khi xác định màu hồng bền vững
31
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
2.2.5.2. Xác định hoạt độ Cytocrome b5
Nguyên tắc: Cytocrome b5 trong mẫu thử được tiến hành định lượng
theo phương pháp của Schenkman và cộng sự (1973). Dựa vào quang phổ hấp
thụ phân biệt giữa trạng thái khử (bằng NADH) và trạng thái oxy hóa của
Cytocrome b5 ở bước sóng 427nm để tính toán, sử dụng hệ số 427nm/500nm = 112 mM-1cm-1 [11, 23].
Tiến hành: 0,5ml dịch thử được pha loãng với 5,5ml đệm 0,1M natri
photphat pH 7,4. Chia hỗn hợp vào 2 ống, ống thử cho thêm NADH, sau 10
phút để ở nhiệt độ phòng, mẫu được đo quang phổ ở bước song 427nm và
500nm.
Cách tính hàm lượng Cytocrome b5:
Ccytb5 (mM/ml) = (E427 - E500)x độ pha loãng/
Trong đó:
E427, E500: Chênh lệch giữa độ hấp thụ của mẫu thử và mẫu chứng
ở bước sóng 427nm và 500nm.
: 427nm/500nm = 112 mM-1cm-1
Hàm lượng đặc hiệu Cytocrome b5 (mM/mg protein) = Ccyt-b5/HL
protein.
2.2.5.3. Xác định chỉ số GOT và GPT
GOT (SGOT, AST) là một loại transaminaza aspartat
aminotransferaza. GPT (SGPT, ALT) là alanin aminotransferaza. Chúng xúc
tác cho hai phản ứng [11, 23]:
Glutamat + Oxalo axetat
Aspartat + Alpha-ketoglutarat GOT
Glutamat + Pyruvat
Alanin + Alpha-ketoglutarat GPT
Đây là 2 enzyme được coi như liên quan đến sự tổn thương hoặc viêm
nhiễm ở gan, mặc dù người ta không chỉ phát hiện nó ở gan mà còn ở nhiều
32
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
cơ quan khác như thận, tim. Khi gan bị tổn thương, nồng độ các enzyme này
thường tăng cao, chỉ khi hết tổn thương thì nó mới trở lại bình thường.
Hai enzyme được phân tích tại Phòng Hóa sinh của Bệnh viện
Medlatec.
2.2.6. Phương pháp phân lập các hợp chất
2.2.6.1. Sắc ký lớp mỏng (TLC)
Sắc ký lớp mỏng được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC-
Alufolien 60 F254 (Merck 1,05715), RP18 F254s (Merck). Phát hiện chất bằng
đèn tử ngoại ở hai bước sóng 254nm và 368nm hoặc dùng thuốc thử là dung
dịch H2SO4 10% được phun đều lên bản mỏng, sấy khô rồi hơ nóng trên bếp
điện từ từ đến khi hiện màu [13].
2.2.6.2. Sắc ký lớp mỏng điều chế
Sắc ký lớp mỏng điều chế thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn Silica gel
60G F254 (Merck, ký hiệu 105875), phát hiện vệt chất bằng đèn tử ngoại hai
bước sóng 254nm và 368nm, hoặc cắt rìa bản mỏng để phun thuốc thử là
dung dịch H2SO4 10%, hơ nóng để phát hiện vệt chất, ghép lại bản mỏng như
cũ để xác định vùng chất, sau đó cạo lớp Silica gel có chất, giải hấp phụ bằng
dung môi thích hợp [13].
2.2.6.3. Sắc ký cột (CC)
Sắc ký cột được tiến hành với chất hấp phụ là Silica gel pha thường và
pha đảo. Silica gel pha thường có cỡ hạt là 0,040-0,063mm (240-430 mesh).
Silica gel pha đảo ODS hoặc YMC (30-50µm, FuJisilica Chemical Ltd.) [13].
2.2.7. Các phương pháp xác định cấu trúc của các hợp chất hữu cơ
Cấu trúc hóa học của các hợp chất hữu cơ được xác định nhờ vào các
phương pháp phổ kết hợp. Tùy thuộc vào cấu trúc hóa học của từng hợp chất
33
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
mà người ta sử dụng những phương pháp phổ cụ thể. Cấu trúc càng phức tạp
thì yêu cầu phối hợp các phương pháp phổ càng cao. Trong một số trường
hợp, để xác định chính xác cấu trúc hóa học của các hợp chất người ta còn
phải dựa vào các phương pháp bổ sung khác như chuyển hóa hóa học, kết hợp
với các phương pháp sắc ký so sánh [13].
2.2.7.1. Điểm nóng chảy (Mp)
Điểm nóng chảy được đo trên máy Kofler micro-hotstage của Viện Hóa
học các hợp chất thiên nhiên.
2.2.7.2. Kỹ thuật phổ khối lượng (Mass Spectroscopy)
Kỹ thuật phổ khối lượng được sử dụng khá phổ biển để xác định cấu
trúc hóa học của các hợp chất hữu cơ. Nguyên tắc chủ yếu của phương pháp
phổ này là dựa vào sự phân mảnh ion của các phân tử chất dưới sự bắn phá
của chùm ion bên ngoài. Ngoài ion phân tử, phổ MS còn cho các píc ion
mảnh khác mà dựa vào đó người ta có thể xác định được cơ chế phân mảnh
và dựng lại được cấu trúc hóa học các hợp chất. Hiện nay có rất nhiều loại kỹ
thuật phổ khối lượng. Những phương pháp chủ yếu được nêu ra dưới dây:
+ Kỹ thuật phổ EI-MS (Electron Impact Ionization Mass Spectroscopy)
dựa vào sự phân mảnh ion dưới tác dụng của chùm ion bắn phá với năng
lượng khác nhau, phổ biến là 70eV.
+ Kỹ thuật ESI-MS (Electron Spray Ionization Mass Spectroscopy) gọi
là phổ phun mù điện tử. Phổ này được thực hiện với năng lượng bắn phá thấp
hơn nhiều so với phổ EI-MS, do đó phổ thu được chủ yếu là píc ion phân tử
và các píc đặc trưng cho sự phá vỡ các liên kết có mức năng lượng thấp, dẽ bị
phá vỡ.
34
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
+ Kỹ thuật phổ FAB-MS (Fast Atom Bombardmen Mass Spectroscopy)
là phổ bắn phá nguyên tử nhanh với sự bắn phá nguyên tử nhanh ở năng
lượng thấp, do đó phổ thu được cũng dẽ thu được píc ion phân tử.
+ Kỹ thuật phổ khối lượng phân giải cao (High Resolution Mass
Spectroscopy), cho phép xác định píc ion phân tử hoặc ion mảnh với độ
chính xác cao. Kết quả phổ khối lượng phân giải cao cùng với kết quả phân
tích nguyên tố sẽ cho phép khẳng định chính xác công thức cộng của hợp
chất hữu cơ.
+ Ngoài ra, hiện nay người ta còn sử dụng kết hợp các phương pháp sắc
ký kết hợp với khối phổ. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả khi sử dụng thư
viện phổ để so sánh nhận dạng các hợp chất. Có thể sử dụng GC-MS (sắc ký
khí khối phổ) cho các hợp chất dễ bay hơi như tinh dầu, hay LC-MS (sắc ký
lỏng-khối phổ) cho các hợp chất khác. Các phương pháp kết hợp này còn đặc
biệt hữu hiệu khi phân tích thành phần của hỗn hợp chất (nhất là phân tích
thuốc trong ngành dược).
2.2.7.3. Kỹ thuật phổ cộng hưởng từ hạt nhân (Nuclear Magnetic
Resonance Spectroscopy, NMR)
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân là một phương pháp phổ hiện đại và hữu
hiệu nhất hiện nay được dùng để xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất
hữu cơ nói chung và hợp chất thiên nhiên nói riêng. Với việc sử dụng kết hợp
các kỹ thuật phổ NMR một chiều và hai chiều, các nhà nghiên cứu có thể xác
định chính xác cấu trúc của hợp chất, kể cả cấu trúc lập thể của phân tử.
Nguyên lý chung của các phương pháp phổ NMR (phổ proton và cabon) là sự cộng hưởng khác nhau của các hạt nhân từ (1H và 13C) dưới tác dụng của từ
trường ngoài. Sự cộng hưởng khác nhau này được biểu diễn bằng độ dịch
chuyển hóa học (chemical shift). Ngoài ra, đặc trưng của phân tử còn được
xác định dựa vào tương tác spin giữa các hạt nhân từ với nhau (spin
coupling).
35
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
a-Phổ 1H-NMR
Trong phổ 1H-NMR, độ dịch chuyển hóa học () của các proton được
xác định trong thang ppm từ 0 ppm đến 14ppm tùy thuộc vào mức độ lai hóa
của nguyên tử cũng như đặc trưng riêng của từng phân tử. Mỗi loại proton
cộng hưởng ở một trường khác nhau và vì vậy chúng được biểu diễn bằng
một độ dịch chuyển hóa học khác nhau. Dựa vào những đặc trưng của độ dịch
chuyển hóa học cũng như tương tác spin coupling mà người ta có thể xác định
được cấu trúc hóa học của hợp chất.
b-Phổ 13C-NMR
Phổ này cho tín hiệu vạch phổ của cacbon. Mỗi nguyên tử cacbon sẽ
cộng hưởng ở một trường khác nhau và cho một tín hiệu phổ khác nhau. Thang đo cho phổ 13C-NMR cũng được tính bằng ppm và với dải thang đo rộng hơn so với phổ proton (từ 0 ppm đến 240 ppm).
c-Phổ DEPT (Distortionless Enhancement by Polarisation Transfer)
Phổ này cho ta những tín hiệu phổ phân loại các loại cacbon khác nhau.
Trên các phổ DEPT, tín hiệu của cacbon bậc bốn biến mất. Tín hiệu phổ của CH và CH3 nằm về một phía và của CH2 về một phía trên phổ DEPT 135o. Còn trên phổ DEPT 90o thì chỉ xuất hiện tín hiệu phổ của các CH.
d-Phổ 2D-NMR
Đây là các kỹ thuật phổ hai chiều, cho phép xác định các tương tác của
các hạt nhân từ của phân tử trong không gian hai chiều. Một số kỹ thuật chủ
yếu thường được sử dụng như sau:
+ Phổ HMQC (Heteronuclear Multiple Quantum Coherence)
Các tương tác trực tiếp H-C được xác định nhờ vào các tương tác trên phổ này. Trên phổ, một trục là phổ 1H-NMR còn trục kia là 13C-NMR. Các
tương tác HMQC nằm trên đỉnh các ô vuông trên phổ.
36
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
+ Phổ 1H-1H COSY (HOMOCOSY) 1H-1H Chemical Shift Corelation
Spectroscopy
Phổ này biểu diễn các tương tác H-H, chủ yếu của các proton đính với
cacbon liền kề nhau. Chính nhờ phổ này mà các phần của phân tử được nối
ghép lại với nhau.
+ Phổ HMBC (Heteronuclear Multiple Bond Connectivity)
Đây là phổ biểu diễn các tương tác xa của H và C trong phân tử. Nhờ
vào các tương tác trên phổ này mà từng phần của phân tử cũng như toàn bộ
phân tử được xác định về cấu trúc.
+ Phổ NOESY (Nucler Overhauser Effect Spectroscopy)
Phổ này biểu diễn các tương tác xa trong không gian của các proton
không kể đến các liên kết mà chỉ tính đến khoảng cách nhất định trong không
gian. Dựa vào kết quả phổ này, có thể xác định được cấu trúc không gian của
phân tử.
Người ta còn sử dụng hiệu ứng NOE bằng kỹ thuật phổ NOE
defferences để xác định cấu trúc không gian của phân tử. Bằng việc đưa vào
một xung đúng bằng từ trường cộng hưởng của một proton xác định thì các
proton có cùng phía về không gian cũng như gần nhau về mặt không gian sẽ
cộng hưởng mạnh hơn và cho tín hiệu phổ với cường độ mạnh hơn.
Ngoài ra, ngày nay người ta còn sử dụng nhiều kỹ thuật phổ hai chiều
rất hiện đại khác, ví dụ như kỹ thuật xóa tương tác trên các phổ nhất định
(decoupling), ví dụ như trên phổ proton, xóa tương tác của một proton nào đó
xác định có thể xác định được vị trí của các proton bên cạnh …
Ngoài các phương pháp phổ nêu trên, trên thế giới, người ta còn sử
dụng phổ X-RAY (nhiễu xạ Rơngen) để xác định cấu trúc không gian của
toàn bộ phân tử. Tuy nhiên phạm vi sử dụng của phổ này rất hạn chế, bởi vì
37
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
yêu cầu tiên quyết là cần phải có đơn tinh thể. Đây là một điều kiện không
phổ biến đối với các hợp chất hữu cơ.
Như trên đã đề cập, ngoài việc sử dụng các loại phổ, người ta còn phải
sử dụng kết hợp với các chuyển hóa học cũng như các phương pháp phân tích
so sánh kết hợp. Đặc biệt đối với các phân tử nhiều mạnh nhánh dài, tín hiệu
phổ NMR bị chồng lấp nhiều khó xác định chính xác được chiều dài các
mạch, cũng như đối với các phân tử có các đơn vị đường thì việc xác định
chính xác loại đường cũng như cấu hình đường thông thường phải sử dụng
phương pháp thủy phân rồi xác định bằng phương pháp so sánh bằng LC-MS
38
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
hoặc GC-MS với các đường chuẩn dự kiến [13].
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả tách chiết mẫu
3.1.1. Chiết nước nóng
Quả và củ chuối hột sau khi được thu hái, rửa sạch, sấy khô ở nhiệt độ 600C và tán nhỏ. Lấy 300g mẫu cho nước vào với tỉ lệ 1:7; 1:5; 1:3 đun cách thủy 3 lần ở nhiệt độ 900C, thu dịch lọc đem cô quay chân không thu được
cao nước nóng.
3.1.2. Chiết phân đoạn bằng hệ dung môi
Lấy 3kg mẫu ngâm trong dung môi n-hexan nhiều lần cho đến khi dịch
lọc hết màu, sấy khô bã lọc đã ngâm n-hexan đem ngâm tiếp trong dung môi
ethylacetat cho đến khi dịch lọc không còn màu, rồi lại sấy khô và ngâm trong cồn 600 cho đến khi dịch lọc hết màu. Các dịch lọc được cô quay chân không
thu được cao n-hexan, cao ethylacetat và cao cồn. Hiệu suất chiết rút được thể
hiện trong bảng 1 và bảng 2:
Bảng 1. Kết quả tách chiết mẫu quả chuối hột
Cao chiết Khối lượng (g) % tách chiết
Cao nước nóng 34.3 102.9
Cao n-hexan 9.2 276.0
Cao ethylacetat 8.3 249.0
Cao cồn
13.4
402.0
39
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Bảng 2: Kết quả tách chiết mẫu củ chuối hột
Cao chiết Khối lượng (g) % tách chiết
Cao nước nóng 138.6 46.2
Cao n-hexan 222.0 7.4
Cao ethylacetat 159.0 5.3
Cao cồn 663.0 22.1
Qua bảng 1 và bảng 2 ta thấy đối với cả hai mẫu quả và củ chuối hột,
phương pháp chiết rút bằng nước nóng thu được nhiều cao nhất so với các
phương pháp chiết rút bằng dung môi. Trong ba dung môi sử dụng chiết phân đoạn thì cồn ethanol 600 có hiệu suất chiết rút cao nhất, hai dung môi còn lại
là n-hexan và ethylacetat có hiệt suất chiết rút kém hơn.
Sau khi chiết rút chúng tôi tiến hành khảo sát sơ bộ thành phần hóa học
của dịch chiết quả và củ chuối hột.
3.2. Khảo sát sơ bộ thành phần hóa học của dịch chiết quả và củ chuối hột
Nhằm xác định sơ bộ thành phần hóa học của dịch chiết các bộ phận
quả và củ chuối hột, chúng tôi tiến hành thử định tính các nhóm chất bằng các
phản ứng đặc trưng như đã trình bày chi tiết ở phần phương pháp nghiên cứu,
40
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
bước đầu thu được kết quả trong bảng 2:
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Bảng 3. Kết quả thử định tính một số hợp chất tự nhiên
của dịch chiết các bộ phận cây chuối hột
STT Nhóm chất Thuốc thử Kết quả
Quả Củ
1 Saponin HCl 0,1N ++ +++
NaOH 0,5N + -
2 Tanin +++ ++ Vanilin H2SO4
Chì acetat ++ ++
3 Flavonoid NaOH 10% - -
Shinoda - -
4 Alkaloid Vans Mayer - ++
Dragendoff - ++
5 Steroid +++ + H2SO4
6 Glycozit ++ + FeCl3
Chú thích: Dấu (+) cho phản ứng dương tính;
Dấu (-) cho phản ứng âm tính.
Từ bảng 2 có thể bước đầu rút ra nhận xét rằng trong dịch chiết quả
chuối hột chứa các nhóm chất saponin, tanin, steroid và glycozit. Còn trong
dịch chiết củ chuối hột chứa các nhóm chất saponin, tanin alkaloid, ngoài ra
còn có steroid và glycozit.
3.3. Kết quả gây ĐTĐ type 2 trên chuột béo phì thực nghiệm
Trên thế giới hiện nay sử dụng rất nhiều các mô hình gây ĐTĐ trên
chuột nuôi béo phì, nhưng đều dựa trên một nguyên tắc là khi tăng nguồn lipit
trong cơ thể (đặc biệt bằng cách bổ sung hàm lượng các lipit bão hòa trong
41
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
chế độ ăn) sẽ làm giảm sự ức chế insulin và tăng quá trình sản xuất glucose,
dẫn đến rối loạn trao đổi cacbonhydrat, do đó có nguy cơ mắc ĐTĐ rất cao.
Thời gian nuôi càng dài, quá trình tích lũy mỡ càng hiệu quả. Mô hình nuôi
béo mà chúng tôi sử dụng được tiến hành trên chuột nhắt trắng với thời gian
nuôi là 8 tuần.
3.3.1. Gây mô hình chuột béo phì thực nghiệm
Chuột nhắt trắng chủng Swiss được phân làm hai nhóm:
- Nhóm béo phì (HFD): gồm 10 lô được nuôi bằng chế độ ăn giầu chất
béo có thành phần gồm: 30% chất béo, 20% protein, 40% cacbonhydrat và
5% vitamin và các muối khoáng.
- Nhóm đối chứng (ND): gồm 1 lô được nuôi bằng thức ăn tiêu chuẩn
do Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cung cấp có thành phần là: 6% chất béo,
20% protein, 53% cacbonhydrat.
Sau mỗi tuần chuột ở các lô được kiểm tra trọng lượng. Sau 8 tuần
chuột ở nhóm nuôi béo đã thể hiện sự khác biệt rõ rệt về trọng lượng so với
nhóm đối chứng, kết quả được thể hiện trong bảng 3:
Bảng 4. Trọng lượng chuột sau 8 tuần nuôi
Độ tăng (%) Lô W0 (g) W8 (g)
HFD1
15.91
53.72
237.65
HFD2
14.22
52.31
267.86
HFD3
15.73
48.24
206.68
HFD4
15.96
54.85
243.67
HFD5
14.92
49.46
231.5
HFD6
15.15
55.24
264.62
42
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
HFD7 15.43 61.21 296.69
HFD8 16.57 55.98 237.84
HFD9 14.30 48.97 242.44
HFD10 15.32 47.87 212.47
ND 15.78 33.52 112.42
Trong đó:
- W0 là trọng lượng chuột trung bình trong một lô tại thời điểm bắt
đầu nuôi.
- W8 là trọng lượng chuột trung bình trong một lô sau 8 tuần nuôi.
70
60
50
40
Sự thay đổi trọng lượng chuột được biểu thị theo biểu đồ dưới đây:
) g ( g n ợ ư
W0 (g) W8 (g)
30
l g n ọ r T
20
10
0
N D
H F D 1
H F D 4
H F D 5
H F D 7
H F D 8
H F D 9
H F D 6
H F D 3
H F D 2
H F D 10
Lô
Hình 3. Biểu đồ sự thay đổi trọng lượng của chuột sau 8 tuần nuôi
Qua bảng số liệu và biểu đồ về sự thay đổi trọng lượng cơ thể chuột sau
8 tuần nuôi, chúng tôi nhận thấy đối với các lô chuột được nuôi với chế độ ăn
giầu chất béo thì trọng lượng cơ thể chuột tăng lên một cách đáng kể
43
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
(206.68% - 296.69%) so với lô đối chứng là 112.42%. Điều đó cho thấy chế
độ dinh dưỡng đã ảnh hưởng rất lớn đến trọng lượng của chuột và chúng tôi
đã bước đầu thành công trong việc gây béo phì ở chuột.
Sau 8 tuần, chúng tôi sẽ tiến hành lựa chọn những con chuột có trọng
lượng đạt trên 50g để tiêm STZ gây ĐTĐ type 2.
Hình 4. Chuột sau 8 tuần nuôi
3.3.2. Gây ĐTĐ type 2 trên chuột béo phì
Chúng tôi tiến hành phân lô trước khi tiêm như sau:
- Lô 1: ND + đệm
- Lô 2: ND + STZ
- Lô 3: HFD + đệm
- Lô 4: HFD + STZ
Với liều tiêm một lần 120mg/kg thể trọng, nồng độ glucose huyết
của các lô chuột được đo ở các thời điểm 0h, 48h, 72h, 5 ngày, 7 ngày, 10
ngày và kết quả được thể hiện trong bảng và biểu đồ dưới đây (các lô lấy
giá trị trung bình).
44
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Bảng 5. Nồng độ glucose huyết của các lô chuột thí nghiệm
Thời gian
Lô ND + đệm ND + STZ HFD + đệm HFD + STZ
(mmol/l) (mmol/l) (mmol/l) (mmol/l)
0h 6.4 ± 0.7 6.3 ± 0.7 9.1 ± 0.4 9.9 ± 0.1
48h 6.2 ± 0.3 13 ± 0.3* 8.7 ± 0.5 17.3 ± 0.8*
72h 5.9 ± 0.6 18.2 ± 0.9* 6.5 ± 0.7 19.2 ± 0.7*
5 ngày 5.8 ± 1.2 13 ± 0.6* 8.5 ± 0.9 21.3 ± 0.2*
7 ngày 5.3 ± 1 8.7 ± 0.7* 8.9 ± 0.2 26.1 ± 4.2*
10 ngày 5.7 ± 0.8 8.6 ± 0.9* 7.5 ± 0.9 25.4 ± 0.6*
30
25
) l / l o m m
20
15
ND + đệm ND + STZ HFD + đệm HFD + STZ
10
( e s o c u l g ộ đ g n ồ N
5
0
0h
48h
72h
5 ngày
7 ngày
10 ngày
Thời gian theo dõi
Ghi chú: p > 0.,05; *p < 0.05 (p so với thời điểm 0h)
Hình 5. Biểu đồ sự thay đổi nồng độ glucose huyết của các lô chuột biến thiên trong vòng 10 ngày thí nghiệm
Qua bảng số liệu và đồ thị ta có thể thấy rằng sau 10 ngày tiêm, ở lô
ND + đệm và HFD + đệm không có sự thay đổi đáng kể về nồng độ glucose
huyết (p>0.05). Ở lô ND + STZ sau khi tiêm, nồng độ glucose huyết tăng và
45
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
đạt cao nhất ở ngày thứ 3 (18.2 mmol/l) sau đó giảm dần và trở về mức bình
thường sau 10 ngày, sự khác nhau so với thời điểm 0h là có ý nghĩa thống kê
(p<0.05). Lô HFD + STZ nồng độ glucose huyết tăng đáng kể so với lúc 0h
và sau 10 ngày nồng độ glucose huyết ở mức cao, sự khác nhau này là có ý
nghĩa (p < 0.05).
Như vậy, sau khi tiêm STZ với liều 120mg/kg thể trọng trên lô chuột
béo phì đã cho kết quả khả quan về nồng độ glucose huyết. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của một số tác giả là ở chuột nhắt trắng, việc gây ĐTĐ
type 2 cần có thời gian nuôi béo dài hơn và liều tiêm STZ cao hơn chuột
cống. Với nồng độ glucose huyết như vậy, chúng tôi có thể khẳng định rằng
các con chuột có nồng độ glucose huyết cao hơn 18mmol/l đã bị mắc ĐTĐ.
Đây là mô hình gây ĐTĐ type 2 trên chuột béo phì thực nghiệm mà
phóng thí nghiệm chúng tôi đã xây dựng thành công 2 năm trước và việc xác
định chắc chắn đó là ĐTĐ type 1 hay type 2 được thực hiện bằng cách định
lượng insulin trong huyết thanh với kỹ thuật ELISA [18].
3.4. Tác dụng hạ đường huyết của dịch chiết các phân đoạn quả và củ
chuối hột
Với kết quả xây dựng thành công mô hình chuột ĐTĐ type 2, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của các phân đoạn dịch
chiết quả chuối hột. Những con chuột được xác định là bị ĐTĐ type 2 được
phân thành các lô riêng biệt, cho uống dịch chiết với liều 500 mg/kg thể
trọng trong vòng 15 ngày, cụ thể như sau:
Lô 1: Nhóm đối chứng cho uống nước muối sinh lý 10ml/kg (Đc)
Lô 2: Uống metfomin liều 500mg/kg (Met)
Lô 3: Uống dịch chiết nước tổng số quả chuối hột (CQN)
Lô 4: Uống dịch chiết phân đoạn n-hexan quả chuối hột (CQnH)
46
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Lô 5: Uống dịch chiết phân đoạn ethylacetat quả chuối hột (CQEth) Lô 6: Uống dịch chiết phân đoạn cồn 600 quả chuối hột (CQEta)
Lô 7: Uống dịch chiết nước tổng số củ chuối hột (CCN)
Lô 8: Uống dịch chiết phân đoạn n-hexan củ chuối hột (CCnH)
Lô 9: Uống dịch chiết phân đoạn ethylacetat củ chuối hột (CCEth) Lô 10: Uống dịch chiết phân đoạn cồn 600 củ chuối hột (CCEta)
Chuột được uống vào 8h sáng hằng ngày và đo nồng độ glucose huyết
vào các thời điểm: 0h (trước khi thí nghiệm), 2h, 4h, 8h, 3 ngày, 15 ngày. Kết
quả được trình bày trong bảng và biểu đồ sau:
Bảng 6. Nồng độ glucose huyết sau khi uống dịch chiết
%
0h
2h
4h
8h
3 ngày
15 ngày
giảm
27.1 ± 1.2
29 ± 1.8
29.1 ± 1.4
30 ± 2.4
29.1 ± 0.8
31.2 ± 0.9
0
NaCl 0,9%
Met
22.1 ± 1.7 23.6 ±2.1* 16.5 ± 0.9* 15.6 ±4.5* 13.5 ±2.2* 14.6 ±1.2*
42.79*
CQN
28.4 ± 3.2 16.5±1.6** 11.2 ±2.3** 8.2 ±2.5** 11.4±0.8** 10.4±0.9** 67.61**
CQnH
29.2 ± 2.3 16.3±0.9** 11.3±1.5** 10.5±5.3** 8.5 ± 2.3**
8.8±1.9** 70.89**
CQEth
22.6 ± 4.5
22.3 ± 0.9 14.8 ±3.4** 12.7±2.1** 10.1±0.5**
9.1±2.9** 59.73**
CQEta
24.5 ± 0.9 20.1 ± 2.3* 17.3 ± 5.3* 14.3 ±2.1* 15.2 ± 0.9* 12.4 ±0.8*
49.39*
21.3 ± 0.2 16.5 ± 2.1* 16.4 ± 2.9* 13.2 ± 5.3* 13.6 ± 2.6* 10.4 ± 1.2* 51.17*
CCN
22.5 ± 1.5 19.3 ± 0.3* 20.3 ± 4,5* 14.4 ± 0.6* 16.2 ± 2.5* 18.5 ± 3.4* 36.00*
CCnH
26.3 ± 5.4 14.5 ± 2.1* 23.2 ± 2.4* 15.4 ± 0.3* 16.5 ± 1.2* 17.2 ± 4.2* 44.87*
CCEth
21.2 ± 1.2 19.3±1.1** 10.3± 0.5** 16.7±1.2** 10.2±2.5** 13.4±3.4** 51.89**
CCEta
Ghi chú: p>0.05; *p<0.05; **p<0.01 (giá trị p so với đối chứng cùng thời điểm)
47
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
35
30
25
) l / l o m m
20
15
( t ế y u h e s o c u l g ộ đ
NaCl 0,9% Met CQN CQnH CQEth CQEta CCN CCnH CCEth CCEta
g n ồ N
10
5
0
0h
2h
4h
8h
3 ngày
15 ngày
Thời gian
Hình 6. Đồ thị sự biến thiên nồng độ glucose huyết của chuột ĐTĐ type 2
sau 15 ngày điều trị bằng dịch chiết phân đoạn quả và củ chuối hột
Từ bảng số liệu và đồ thị cho thấy, những con chuột bị bệnh ở lô đối
chứng chỉ cho uống nước muối sinh lý thì sau 2, 4, 8, 3 ngày và 15 ngày
nồng độ glucose huyết không giảm, thậm chí còn tăng (p>0.05). Nhóm chuột
bị bệnh cho uống metfomin nồng độ glucose huyết có giảm và giảm nhiều
nhất tại thời điểm 3 ngày đạt 42.79% (p<0.05).
48
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Khi so sánh nhóm được điều trị bằng các phân đoạn dịch chiết quả
chuối hột (liều 500mg/kg) với nhóm đối chứng ở cùng thời điểm sau khi cho
uống từ 2, 4, 8, 3 ngày và 15 ngày thì nồng độ glucose huyết đã giảm đều ở
các lô (p<0.05). Trong đó, nồng độ glucose huyết giảm mạnh nhất ở hai lô
chuột được điều trị bằng dịch chiết phân đoạn n-hexan tại thời điểm 3 ngày
đạt 70,89% và ethylacetat tại thời điểm 15 ngày đạt 59.73% (p<0.01). Lô được điều trị bằng dịch chiết phân đoạn cồn ethanol 600 nồng độ glucose
huyết cũng giảm ở mức có ý nghĩa (p<0.05) và giảm nhiều nhất tại thời điểm
15 ngày sau khi uống.
Khi so sánh nhóm được điều trị bằng các phân đoạn dịch chiết củ
chuối hột (liều 500mg/kg) với nhóm đối chứng ở cùng thời điểm sau khi cho
uống từ 2, 4, 8, 3 ngày và 15 ngày thì nồng độ glucose huyết đã giảm ở các
lô (p<0.05). Trong đó, nồng độ glucose huyết giảm tốt nhất ở hai lô chuột
được điều trị bằng dịch chiết cồn tại thời điểm 3 ngày đạt 51.89% (p<0.01)
và dịch chiết nước tại thời điểm 15 ngày đạt 51.17% (p<0.05). Lô được điều
trị bằng dịch chiết phân đoạn n-hexan và ethylacetat nồng độ glucose huyết
cũng giảm ở mức có ý nghĩa (p<0.05), tuy nhiên giảm không ổn định, sau 15
ngày nồng độ glucose huyết còn tăng nhẹ.
Từ kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng các dịch chiết từ quả chuối
hột có tác dụng làm giảm nồng độ glucose huyết trên chuột ĐTĐ type 2 ổn
định hơn dịch chiết từ củ chuối hột. Tác dụng này có thể do sau khi chuột
được uống dịch chiết đã tăng khả năng dung nạp glucose huyết tại các mô
(giảm hiện tượng kháng Insulin), tăng khả năng tổng hợp glycogen, tế bào β
tuyến tụy bài tiết nhiều insulin hơn, từ đó làm giảm nồng độ glucose trong
máu. Do đó, chúng tôi quyết định lựa chọn mẫu quả chuối hột để tiến hành
các thí nghiệm tiếp theo.
49
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Trên cơ sở này, chúng tôi tiến hành một số thí nghiệm tiếp theo: phân
tích các chỉ số máu như cholesterol, triglyxerit, GOT, GPT, GGT và tiến hành
phân lập các hợp chất tự nhiên có trong phân đoạn n-hexan, xác định cấu trúc
hóa học các hợp chất đó.
3.5. Kết quả phân tích chỉ số của gan và máu
Với mỗi lô chuột thí nghiệm và đối chứng chúng tôi tiến hành mổ 3 con
để lấy kết quả trung bình.
3.5.1. Một số chỉ số gan và máu
Chúng tôi chỉ tiến hành trên lô chuột uống cao thô quả chuối hột chiết
bằng nước. Mổ chuột lấy gan, máu (cho vào ống chống đông), gan rửa trong
nước muối sinh lý, nghiền gan trong nước muối sinh lý với tỷ lệ 1:2, dịch nghiền đem ly tân 15.000 vòng/phút trong 15 phút ở 40C, thu dịch trong. Dịch
gan và máu được gửi để phân tích tại phòng Hóa sinh bệnh viện Medlatec một
phần được giữ lại để xác định hoạt độ một số enzym, kết quả thu được như
bảng 7.
Bảng 7. Kết quả phân tích gan và máu
Chỉ số GOT GPT
Lô Glucose (mmol/l) Cholesterol (mmol/l) Triglyxerit (mmol/l) (U/L) (U/L)
ĐTĐ + CQN 10.50 1.91 22.40 25.20 1.37
ĐTĐ
24.43
1.32
86.54
93.25
0.93
HFD
11.50
2.70
24.30
29.27
1.83
5.420
0.51
22.30
18.10
ND
0.72
50
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
3.00
2.50
2.00
) l / l o m m
(
1.50
Cholesterol Triglyxerit
1.00
ộ đ g n ồ N
0.50
0.00
ĐTĐ + CQN
ĐTĐ
HFD
ND
Lô chuột
Hình 7. Chỉ số triglyxerit và cholesterol trong máu chuột
Cholesterol và triglyxerit là các chỉ số để đánh giá mức độ béo phì,
cũng như khả năng dự trữ trong cơ thể. Dựa vào bảng 7 ta thấy hàm lượng
cholesterol và triglyxerit trong chuột điều trị cao hơn hẳn so với chuột ĐTĐ
nhưng thấp hơn chuột được nuôi béo không bị ĐTĐ. Cụ thể là 1.91 và 1.37 so
51
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
với 1.32 và 0.93 của chuột ĐTĐ và 2.7 và 1.83 của chuột béo thường.
Luận văn Thạc sĩ khoa học
100
90
80
)
70
/
L U
60
( ộ đ
50
GOT GPT
40
g n ồ N
30
20
10
0
ĐTĐ + CQN
ĐTĐ
HFD
ND
Lô chuột
Hình 8. Các chỉ số GOT và GPT trong gan chuột
Chỉ số men gan GOT, GPT biểu hiện mức độ tổn thương của tế bào
gan, khi tế bào gan bị tổn thương sẽ giải phóng các enzyme này vào máu làm
nồng độ của chúng tăng lên. Nồng độ GOT, GPT tăng tỷ lệ thuận với mức độ
tổn thương của tế bào gan. Ở chuột bình thường GOT khoảng 23.4 (U/L),
GPT là 11.2 (U/L) so với chuột được điều trị là 22.4 (U/L) và 25.2 (U/L), thấp
hơn rất nhiều so với chuột bị ĐTĐ là 86.54 (U/L) và 93.25 (U/L). Như vậy
chứng tỏ, dịch chiết quả chuối hột có tác dụng làm giảm chỉ nồng các enzyme
GOT, GPT trong máu và gan chuột ĐTĐ.
52
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
3.5.2. Hoạt độ một số enzyme oxi hóa trong máu và gan chuột
Hoạt độ enzyme catalase
Bảng 8. Hoạt độ catalase trong máu và gan chuột
ND
Các lô Catalase gan Tương đối(%) Catalase máu Tương đối(%)
ĐTĐ + NaCl 0.9% 0,011±0,003
0,019±0,008 100 0,017±0,001 100
ĐTĐ + CQN
57,89 0,014±0,0015 82,35
ĐTĐ + CQnH
0,02±0,0015 105,26 0,019±0,0064 111,76
140
120
100
80
0,025±0,002 131,58 0,022±0,003 129,41
e s a l a t a c
60
Tương đối Catalase gan (%)
%
40
Tương đối Catalase máu (%)
20
0
ND
ĐTĐ + NaCl 0.9%
ĐTĐ + CQN
ĐTĐ + CQnH
Lô chuột
Hình 9. Phần trăm tương đối catalase trong máu và gan chuột
Qua bảng và biểu đồ trên ta nhận thấy hoạt độ enzyme catalase ở các lô
được uống dịch chiết tăng nhẹ so với lô đối chứng và tăng nhiều hơn so với lô
không điều trị. Trong đó, lô chuột uống quả chuối n-hexan tăng cao nhất cụ
thể trong gan (131.58%), trong máu (129.41%) và ở quả chuối nước trong gan
53
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
tăng (105.26%), trong máu (111.76%), so với chuột không uống dịch chiết lần
lượt là 57.89% và 82.35%. Các số liệu ở bảng trên có ý nghĩa với độ tin cậy
(p>0.05). Từ đó, có thể khẳng định dịch chiết quả chuối hột có tác dụng làm
tăng hoạt độ enzyme catalase trong máu và gan chuột.
+ Hoạt độ Cytocrome b5
Chúng tôi đã tiến hành đánh giá hoạt độ của enzyme cyt b5 trong máu
và gan chuột từ hai lô chuột cho uống dịch chiết quả chuối hột thu được kết
quả (Ccyt b5 = -0.0357±0.0005). Từ đó, kết luận rằng dịch chiết quả chuối
hột không có tác dụng làm tăng hoạt độ enzyme cyt b5 trong máu và gan.
3.6. Kết quả phân lập và xác định cấu trúc hóa học các hợp chất
Từ những kết quả trên, chúng tôi sử dụng dịch chiết phân đoạn n-
hexan quả chuối hột để tiến hành phân lập trên các cột sắc ký với chất hấp
phụ là silica gel pha thuận và pha đảo với các hệ dung môi thích hợp, thu
được kết quả như sau:
3.6.1. Hợp chất Stigmast-5.22-dien-3--ol (H3)
Chúng tôi tiến hành rửa giải cột bằng hệ dung môi n-hexan - etyl axetat
(30:1), thu được khối chất rắn vô định hình, tách lặp lại trên cột silicagel và
kết tinh lại trong n-hexan đã thu được những tinh thể hình kim, không màu,
13C-NMR (125 MHz, CDCl3); (ppm): 36.5 (t, C-1); 29.21 (t, C-2); 71.81
có khối lượng 21mg, RfA= 0.64, nóng chảy ở 155-157C.
(d, C-3); 42.32 (t, C-4); 140.78 (d, C-5); 121.70 (d, C-6); 37.28 (t, C-7); 31.93 (d,
C-8); 51.24 (d, C-9); 36.52 (s, C-10); 24.36 (t, C-11); 42.32 (t, C-12); 31.68 (s, C-
13); 56.79 (d, C-14); 26.15 (t, C-15); 31.57 (t, C-16); 56.10 (d, C-17); 12.05 (q, C-
18); 19.38 (q, C-19); 40.45 (d, C-20); 21.05 (q, C-21); 138.29 (d, C-22); 129.32
(d, C-23); 50.17 (d, C-24); 33.98 (t, C-25); 21.09 (q, C-26), 19.80 (d, C-27); 29.21
54
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
(q, C-28); 12.22 (q, C-29).
Chất kết tinh hình kim, không màu, khối lượng 21mg, nóng chảy ở 155-157oC có mặt trong dịch chiết hexan. Trong phổ 13C-NMR và DEPT đã
chỉ ra sự có mặt của một nhóm CH liên kết với hydroxyl tại C 71.82ppm và
proton liên kết với C-6 ở vị trí một nối đôi có C-6 tại 121.72ppm và C-5 tại 140.78ppm. Ngoài ra trên phổ 13C-NMR của chất này còn chỉ ra sự có mặt của
CH nối đôi có tín hiệu tại C 138,29 và 129.32ppm đặc trưng cho cacbon (CH) ở vị trí C22-23. Các số liệu về phổ 13C-NMR của nó hoàn toàn phù hợp với phổ
của stigmast-5.22-dien-24R-3β-ol [7]. Số liệu phổ của chất này được trình bày
trong bảng 9.
3.6.2. Hợp chất - Sitosterol
Tiến hành rửa giải cột bằng hệ dung môi n-hexan - etyl axetat (20:1),
thu được khối chất rắn vô định hình, tách lặp lại trên cột silicagel và kết tinh
lại trong n-hexan đã thu được những tinh thể hình kim, không màu, có khối
1H-NMR (500 MHz, CDCl3); (ppm): 0.68 (3H, s, Me-18); 1.01 (3H,
lượng 23mg, RfB=50, nóng chảy ở 135-136C.
s, 19-Me); 2 cụm doublet 0.81 và 0.88 (23H, d, J 7,7Hz, Me-26 và Me-
27);0.83 (3H, t, 7.32Hz, Me-29); 0.92 (3H, d, J 10 Hz, Me-21); 3.52 (1H, m,
13C-NMR (125 MHz, CDCl3); (ppm): 140.8 (s, C-5); 121.7 (d, C-6); 71.8
H-3); 5.35 (1H, d, J 5Hz, H-6).
(d, C-3); 56.8 (d, C-14); 56.1 (d, C-17); 50.2 (d, C-9); 45.9 (d, C-24); 42.3 (s,
C-13); 42.3 (t, C-4); 39.8 (t, C-12); 37.3 (t, C-1); 36.5 (s, C-10); 36.2 (d, C-20);
33.9 (d, C-8); 31.9 (t, C-7); 31.7 (t, C-2); 29.2 (d, C-25); 28.3 (t, C-16); 26.2 (t, C-
23); 24.3 (t, C-15); 21.1 (t, C-11); 19.8 (q, C-26); 19.4 (q, C-19); 19.1 (q, C-27);
18.8 (q, C-21); 11.9 (q, C-29); 11.9 (q, C-18); 23.1 (t, C-28); 42.3 (t, C-4).
55
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Chất H19 kết tinh lại trong hexan cho những tinh thể hình kim, nóng
chảy ở 135-136C.
Trong các phổ 1H- và 13C-NMR đã chỉ ra sự có mặt của một nhóm
hydroxyl H tại 3.53ppm (proton của CH liên kết với OH), C tại 71.82ppm
và một nối đôi H tại 5.35ppm (1H, d, J 5Hz) tín hiệu của proton liên kết với
C-6 ở vị trí một nối đôi, C-5 tại 140.78ppm, s và C-6 tại 121.72ppm, d), tín
hiệu của các proton thuộc 6 nhóm metyl (CH3) với H tại 1.02 (3H, s, 19-
Me), 0.95 (3H, d, J 10Hz, 21-Me), 0.86 (3H, d, J 7.7Hz, 27-Me), 0.84 (3H, d,
J 7.7Hz, 26-Me), 0.82 (3H, t, J 7.32 Hz, 29-Me ) 0.69 (3H, s, 18-Me). Phổ 13C-NMR cho biết có tổng số 29 cacbon, trong đó có 3 cacbon bậc 4, 9 nhóm
metin (CH), 11 nhóm metylen (CH2), và 6 nhóm metyl (CH3). Mặt khác phổ khối EI-MS cho biết [M]+ 414amu. Về tính chất vật lý điểm nóng chảy của
chất này được đem so sánh với mẫu chuẩn và giá trị Rf trên bản mỏng đều
thấy phù hợp.
Các dữ liệu về phổ NMR đều phù hợp với -sitosterol (xem bảng 9).
3.6.3. Hợp chất - Sitosterol-glucopyranosit
Tiếp tục rửa giải cột bằng dung môi etylaxetat thu được khối chất rắn
vô định hình, RfD=62, nóng chảy ở 269-270oC.
Phổ FT-IR max (cm-1): 3390 (rộng); 2934, 1644, 1464, 1461, 1373,
1073, 1026.
Phổ EI-MS: m/z (%): 396 [M - C6H12O6]+ .
Phổ 1H-NMR (500 MHz, DMSO-d6), ọ (ppm): 0.70 (3H, s, 18-Me),
0.93 (3H, s, 19-Me), 0.94 (3H, s, Me).
Phổ 13C-NMR (125 MHz, DMSO-d6), ọ (ppm) : 140.8 (s, C-5), 122.3
56
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
(d, C-6), 101.5 (d, C-1’), 79.5 (d, C-3), 76.9 (d, C-5’), 76.2 (d, C-3’), 74.0 (d,
C-2’), 70.8 (d, C-4’), 62.3 (t, C-6’), 57.2 (d, C-14), 56.5 (d, C-17), 50.7 (d, C-
9), 46.4 (d, C-24), 42.7 (s, C-13), 40.2 (t, C-12), 39.1 (t, C-4), 37.6 (t, C-1),
37.1 (s, C-10), 36.4 (d, C-20), 34.4 (t, C-22), 32.3 (d, C-8), 32.2 (t, C-7), 29.9
(t, C-16), 29.7 (t, C-25), 28.5 (t, C-2), 26.7 (t, C-23), 24.6 (t, C-15), 23.5 (t, C-
28), 21.4 (t, C-11), 19.9 (q, C-19), 19.5 (q, C-21), 19.2 (q, C-26), 19.0 (q, C-
27), 12.1 (q, C-29), 12.0 (q, C-18).
Phổ IR xác nhận sự có mặt của một liên kết đôi (1640cm-1, H-6 ở
5.30ppm) và hấp thụ của nhiều nhóm hyđroxyl nằm trong vùng (3390 cm-1).
Quan sát trên các phổ 13C-NMR và DEPT thấy có 35 tín hiệu của
nguyên tử cacbon, trong đó có có 3 cacbon bậc 4, 14 nhóm metin (CH), 12 nhóm metylen (CH2), và 6 nhóm metyl (CH3). Đặc biệt trên phổ 13C-NMR
cho biết thấy có tín hiệu 6 nguyên tử cacbon gắn với oxy đặc trưng cho phần
đường (nằm trong vùng 61.59 đến 100.92 ppm), có 2 tín hiệu ở 140.14 và 121.80ppm thuộc về một liên kết olefin. Ngoài ra có trên phổ 1H-NMR cũng
quan sát thấy proton của phần đường xuất hiện ở dạng doublet tại 4.32ppm,
có J=7.8Hz và C-1’ tương ứng là 100.92 ppm.
Số liệu các phổ IR, MS, 1H- và 13C-NMR thu được cho phép nghĩ đến
cấu trúc của một hợp chất glucosid có công thức C35H60O6. Những điểm trình
bày ở trên và kết hợp so sánh điểm nóng chảy với sterol glucosid chuẩn đã
cho phép khẳng định H20 là -sitosterol-3-O--D-glucopyranosyl.
Phổ 1H và 13C-NMR của H20 so với phổ của H19 cho thấy có sự khác
nhau ở vùng 61.59ppm đến 100.92ppm, các tín hiệu khác còn lại gần như
giống nhau và được so sánh trên bảng 9.
57
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
26
21
21
23
25
24
27
18
22
12
20 17
28
19
29
14
15
10
8
3
5
RO
Sau khi phân tích, 3 chất có cấu trúc như sau:
R
(1) -sitosterol H
(2) Stigmasterol H 22
(3) -sitosterol-glucosid Gluc
Bảng 9. Dữ liệu phổ của các chất
Stigmasterol (2) STT -sitosterol (1) -sitosterolglucosid (3)
1 37.28 t 36.50 t 37.04 t
2 28.25 t 29.21 t 27.96 t
3 71.82 d 71.81 d 78.85 d
4 39.80 t 42.32 t 38.43 t
5
140.78 s
140.78 s
141,40 s
6
121.72 d
121.70 d
121.80 d
7
31.68 t
37.28 t
31.67 t
8
31.93 d
31.93 d
31.67 d
9
50.16 d
51.24 d
50.01 d
10
36.52 s
36.52 s
36.47 s
58
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
11 21.10 t 24.36 t 20.81 t
12 42.32 t 42.32 t 39.55 t
13 42.34 s 31.68 s 42.09 s
14 56.79 d 56.79 d 56.55 d
15 24.32 t 26.15 t 24.00 t
16 29.71 t 31.57 t 29.33 t
17 56.09 d 56.10 d 55.85 d
18 11.87 q 12.05 q 11.48 q
19 19.82 q 19.38 q 19.36 q
20 36.16 d 40.45 d 35.89 d
21 19.40 q 21,05 q 18.94 q
22 33.97 t 33.72 t 138.29 d
23 26.12 t 25.85 t 129.32 d
24 45.57 d 50.17 d 45.67 d
25 29.19 d 33,98 d 28.94 d
26 19.05 q 21.09 q 18.61 q
27 18.79 q 19.80 q 18.41 q
28 23.09 t 29.21 t 22.81 t
29
11.99 q
12.22 q
11.54 q
1'
100.92 d
2'
73.37 d
3'
75.70 d
4'
70.05 d
5'
76.31 d
6'
61.59 t
59
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu khả năng hạ đường huyết của các dịch chiết
phân đoạn các bộ phận cây chuối hột (quả và củ) lên chuột gây ĐTĐ type 2,
chúng tôi đã đạt được một số kết quả sau:
1. Dịch chiết các phân đoạn quả chuối hột có khả năng hạ đường huyết
trên chuột ĐTĐ type 2 ổn định hơn dịch chiết các phân đoạn củ chuối hột.
2. Trong dịch chiết quả chuối hột chứa các hợp chất chủ yếu thuộc
nhóm saponin, tanin, steroid và glycorit.
3. Dịch chiết quả chuối hột có tác dụng làm tăng hoạt độ enzyme
catalase, giảm nồng độ GOT, GPT, đồng thời làm tăng chỉ số cholesterol và
triglyxerit trong máu và gan chuột ĐTĐ type 2.
4. Đã phân lập và xác định cấu trúc được 3 chất trong dịch chiết phân
đoạn n-hexan của quả chuối hột là -sitosterol; Stigmasterol; -sitosterol-
glucosid.
ĐỀ XUẤT
Chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
1. Tiếp tục nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của các dịch chiết thân
chuối hột lên mô hình chuột gây ĐTĐ type 2.
2. Tiếp tục phân tích thành phần hóa học của các dịch chiết từ củ chuối
hột và hai phân đoạn ethylacetat, cồn của quả chuối hột.
3. Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất thực phẩm chức năng hỗ
trợ điều trị bệnh ĐTĐ type 2.
60
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ môn Y học Cổ truyền dân tộc – Trường Đại học Y Hà Nội (1999), “Đái
tháo đường”, Y học Cổ truyền, NXB Y học.
2. Nguyễn Văn Bàn (1996), Phân tích sàng lọc hóa thực vật. Viện dược liệu.
3. Đàm Trung Bảo, Hà Tích Huyền, Hoàng Văn Vinh (1999), Chất chống oxi
hóa để phòng bệnh tật và chống lão hóa. NXB Y học, Hà Nội.
4. Trương Quốc Bảo, Hải Ngọc (1994), “Tiêu khát”, Chữa bệnh nội khoa
bằng y học cổ truyền, trang 121-125.
5. Tạ Văn Bình (2006), Bệnh đái tháo đường – Tăng glucose máu, NXB Y
học, Hà Nội.
6. Bộ môn Hóa sinh, Học viện Quân y (2006), Thực tập Hóa sinh. NXB Quân
đội Nhân dân. Hà Nội.
7. Võ Văn Chi (1999), Từ điển cây thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội,.
8. Nguyễn Văn Đàn (1986), Phương pháp nghiên cứu hóa học cây thuốc,
NXB Y học, Hà Nội.
9. Đỗ Tất Lợi (2002), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội.
10. Phùng Thanh Hương, Phạm Thị Thúy Hà, Nguyễn Xuân Thắng, Đỗ Ngọc
Liên (2008), “Nghiên cứu thành phần hóa học và tác dụng hạ glucose huyết
của dịch chiết lá cây bằng lăng nước Lagerstroemia speciosa”, Kỷ yếu Hội
nghị khoa học toàn quốc lần thứ 4, NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Mùi (2002), Xác định hoạt độ enzym, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
12. Phan Hải Nam (2004), Một số xét nghiệm hóa sinh lâm sàng, NXB Quân
đội Nhân dân. Hà Nội.
61
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
13. Nguyễn Thị Thanh Ngân, “Nghiên cứu một số hợp chất tự nhiên, đặc tính
kháng khuẩn và khả năng trị bệnh tiểu đường của cấy khế (Averrhoa
Carambola L.)”, Luận văn Thạc sỹ khoa học, Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Thái Hồng Quang (1985), Bệnh nội tiết, Học Viện Quân y, NXB Quân đội
Nhân dân, Hà Nội.
15. Phan Sỹ Quốc (1990), “Rối loạn Lipid máu ở người thừa cân và béo phì”,
Tạp chí y học thực hành, số 446, trang 31-40.
16. Phạm Văn Thanh (2004), Nghiên cứu thuốc điều trị bệnh đái tháo đường
từ quả mướp đắng (Momodica Charantia L. Cucurbitaceae), Luận án Tiễn sĩ
Dược học, Đại học Dược Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Thanh Hải, Hà Thị Bích Ngọc, Nguyễn Văn Mùi (2008),
“Đánh giá khả năng hạ đường huyết và giảm béo phì của dịch chiết lá thìa
canh Gymnema sylvestre lên chuột gây đái tháo đường”, Kỷ yếu hội nghị
khoa học toàn quốc lần thứ IV, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, trang
640-644.
18. Trịnh Thị Thu (2009), Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của dịch chiết
lá dừa cạn (Catharanthus Roseus L.) và lá xoài (Mangifera indica L) lên mô
hình chuột ĐTĐ type 2”. Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Viện Dược liệu (2006), Nghiên cứu thuốc từ thảo dược, NXB Khoa học
và kỹ thuật, Hà Nội.
20. Vũ Đình Vinh, Đặng Hanh Phúc, Đỗ Đình Hồ (1974), Kỹ thuật Y sinh
hóa, Học viện Quân y, NXB Quân đội Nhân dân.
21. Nguyễn Ngọc Xuân (2004), Nghiên cứu tác dụng hà đường huyết của Thổ
phục linh (Sminax glabra Roxb Smilacaceae) trên súc vật thực nghiệm. Luận
án tiễn sĩ Dược học, Đại học Y Hà Nội.
62
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
Tài liệu Tiếng Anh
22. Amos A., McCarty D., Zimmet P. (1997), “The rising global burden of
diabetes and its complication: estimates and projections to the year 2010”
Diabetes Med, Vol. 14 pp. 1-85.
23. Bergmeyer S. (1974), “Glucose6Phosphatase”, Methods of enzymatic
analysis, NewYork, Vol 2, pp. 788-92.
24. Bourtney Hamish C., Olefsky Jerrold M. (2007), “Insulin Resistance”,
Mechanisms of Insulin Actions, Landes Bioscience and Springer
Science+Business Media.
25. Bessesen Daniel H. (2001), “The role of carbohydrate in insulin
resistance”, The Journal of nutrition, pp. 2782-86.
26. Deborah Podolin A., Wei Y., Pagliassotti Michael J. (2005), “Effects of
high fat diet and volumtary wheel running on gluconeogenesis and lipolysis in
rats”, Journal of Applied Physiology, pp. 1374-80.
27. Dipalma J.R. (1971), “Diabetes mellitus”, Drill's pharmacology in
medicine, McGraw-Hill, pp. 1492-1510.
28. Gunitha I.S.R., Ranjendram K., Shiruwaikar A. , Shirwaikar A. (2005)
“Alcoholic stem extract of Coscinium fenestratum regulates Carbohydrate
Metabolism and improves antioxidant status in Streptozotocin Nicotinamide
induced diabetic rats”, eCAM, pp. 1-7.
29. Gholap S, Kar A (2004 ), “Hypoglycaemic effects of some plant extracts
are possibly mediated through inhibition in corticosteroid concentration”,
Pharmazie, No 59(11), pp.876-8.
30. Joseph G. (2005), Assesment of anti-diabetic effect of Vietnamese herbal
drugs, Doctor Thesis, Karolinska Institude, Stockholm, Sweden.
31. Korhede Wizell M., Ahren B. (2004), “The high fat diet-fed mouse. A
63
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên
Luận văn Thạc sĩ khoa học
model for studying mechanisms and treatment of impaired glucose tolerance
and type 2 diabetes”, Diabetes, Vol 53, pp. 215-9.
32. Robert J., Joseph F., Jeffrey E. (2001), “The potential mechanism of the
diabetogenic action of streptozotocin: inhibition of pancreatic -cell O-
GlucNAc-selective N-acetyl--D-glucosaminidase” Biochem J., pp. 31-41.
33. Runnarsson R., Berne C., Hellerstrom C. (1974), “Cytotoxic effects of
Streptozotocin and N-Nitrosomethylurea on the pancreatic -cells with
special regard to the role of Nicotinamide-Adenine Dinucleotide”, BiochemJ,
No 182, pp. 487-494.
34. Rharmilee P. Sawant, Ankur V. Dnyanmote (2006), “Protective effect of
type 2 diabetes on Aceiaminopher induced hepatotoxicity in male Swiss-
Webster mice”, Medicographia, Vol 24, No.4, pp. 304 – 308.
35. Shigemura N, Nakao K, Yasuo T, Murata Y, Yasumatsu K, Nakashima A,
Katsukawa H, Sako N, Ninomiya Y (2008), “Gurmarin sensitivity of sweet
taste responses is associated with co-expression patterns of T1r2, T1r3, and
gustducin”, Biochem Biophys Res Commun, No 367(2), pp. 356-63.
36. Sudhesh K., Stephen O’ R. (2007), Insulin Resistance, Willey Press.
37. The World Health Report (1997), WHO, Switzelend.
38. WHO expert committee (1980), Diabetes mellitus, 2th rep. Geneva World
Health Org.
39. Yamada A., Nakamura Y., Sugita D., Shirosaki S., Ohkuri T., Katsukawa
H., Nonaka K., Imoto T., Ninomiya Y. (2006), “Induction of salivary
kallikreins by the diet containing a sweet-suppressive peptide, gurmarin, in
the rat”. Biochem Biophys Res Commun, No 346(2), pp. 386-92.
64
Cao học khóa K17 Nguyễn Thị Duyên