
Nghiên cứu mô hình quản trị tri thức tại một tổ chức và
đề xuất giải pháp hoàn thiện

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập, thế giới ngày càng trở nên phẳng. Những gì trước đây không
thể hoặc khó tiếp cận thì giờ đây đã trở nên dễ dàng đối với mọi người. Những nhân tố tạo ra lợi
thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp không còn là đất đai, vốn tư bản hay công nghệ nữa, mà là
“khả năng nắm giữ bao nhiêu tri thức và sử dụng nó hiệu quả thế nào?”. Quản trị tri thức đang
thực sự tạo ra lợi thế cạnh tranh chiến lược cho các doanh nghiệp. Bên cạnh thúc đẩy cải tiến,
khơi nguồn ý tưởng và khai thác triệt để thế mạnh trí tuệ của các doanh nghiệp/ tổ chức, tri thức
và kinh nghiệm còn được nắm bắt, lưu giữ, sử dụng đúng lúc, đúng nơi và đúng người để tạo nên
những bước phát triển mang tính đột phá. Áp dụng Quản trị tri thức còn thúc đẩy hợp tác, chia sẻ,
liên tục học tập, hoàn thiện, khiến các doanh nghiệp ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả hơn. .
Nắm bắt và áp dụng thành công các mô hình về Quản trị tri thức là một trong những yếu tố cốt
lõi giúp các tổ chức, nhà nước dễ dàng “đi tắt đón đầu” trong thời đại tri thức là sức mạnh và lợi
thế cạnh tranh như hiện nay. Khi lượng tri thức ngày càng phong phong phú, đa dạng dưới sự ra
đời của hệ thống mạng Internet thì hoạt động quản trị tri thức đối với các doanh nghiệp ngày
càng khó khăn. Nếu doanh nghiệp không quản trị tri thức tốt có thể bị tụt hậu lại phía sau so với
sự phát triển kinh tế hiện nay. Một doanh nghiệp muốn đứng vào hàng ngũ trường tồn không còn
con đường nào khác là phải xây dựng cho mình một mô hình quản trị tri thức phù hợp.. Với tính
cấp thiết như trên, nhóm chúng tôi đã nghiên cứu thảo luận đề tài “Nghiên cứu mô hình quản trị
tri thức tại một tổ chức và đề xuất giải pháp hoàn thiện”
Đề tài của nhóm chúng tôi gồm 3 phần chính:
Phần I: Cơ sở lý luận
Phần II: Mô hình quản trị tri thức tại FPT
Phần III: Đề xuất giải pháp hoàn thiện cho mô hình quản trị tri thức tại FPT

Phần I: Cơ sở lý luận
I. Khái niệm về tri thức, quản trị tri thức, kinh tế tri thức
1. Tri thức
Các khái niệm liên quan
Dữ liệu
Dữ liệu là những con số hoặc dữ kiện thuần túy, rời rạc mà quan sát hoặc đo đếm được
không có ngữ cảnh hay diễn giải. Dữ liệu được thể hiện ra ngoài bằng cách mã hóa và dễ
dàng truyền tải. Dữ liệu được chuyển thành thông tin bằng cách thêm giá trị thông qua ngữ
cảnh, phân loại, tính toán, hiệu chỉnh và đánh giá.
Thông tin
Thông tin là những mô hình hay tập hợp dữ liệu đã được tổ chức lại và diễn giải đặt trong bối
cảnh và nhằm một mục đich cụ thể. Thông tin là những thông điệp thường được thể hiện theo
dạng văn bản hoặc giao tiếp có thể thấy được hoặc không thấy được... nhằm mục đích thay
đổi cách nhận thức của người nhận thông tin về vấn đề cụ thể, và gây ảnh hưởng đến sự đánh
giá và hành vi của người nhận. Vì thông tin là những dữ liệu được tổ chức lại vì một mục
đích nào đó, vì vậy mà nó sẽ giảm bớt sự không chắc chắn. Đó cũng chính là sự khác biệt của
thông tin với dữ liệu. Tương tự như dữ liệu, thông tin được mã hóa và tương đối dễ dàng
truyền tải.
Trí tuệ
Trí tuệ là khả năng sử dụng tri thức một cách khôn ngoan nhằm đạt được mục đích của mình.
Trí tuệ gắn liền với con người và sự đánh giá, phán xét và hoạch định các hành động. Cùng
có tri thức như nhau nhưng mỗi người sẽ hành xử một cách khác nhau vì trí tuệ của mỗi
người là khác nhau tức là khả năng sử dụng tri thức của mỗi người là khác nhau nên sẽ tạo ra
kết quả khác nhau.
Tri thức
Tri thức là thông tin được cấu trúc hóa, được kiểm nghiệm và có thể sử dụng được vào mục
đích cụ thể. Tri thức thường thể hiện trong những hoàn cảnh cụ thể kết hợp với kinh nghiệm
và việc phán quyết hay ra quyết định. Để truyền tải thì đòi hỏi sự học tập của người tiếp nhận
tri thức. Như vậy nếu một thông tin giúp chúng ta nhận thức và đưa ra quyết định thì là tri
thức. Thông tin trở thành “đầu vào” được nạp vào trong não, qua quá trình xử lý sẽ tạo ra tri
thức. Nhưng quá trình xử lý này với mỗi một cá nhân khác nhau sẽ cho ra những “đầu ra”

