ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 

HÀ THÙY LINH

NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN ĐỐI VỚI DU LỊCH VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: DU LỊCH HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH HỌC

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN PHÚ ĐỨC

HÀ NỘI - 2006

MỤC LỤC

Danh mục các chữ cái viết tắt trong luận văn

Danh mục bảng và tên bảng trong luận văn

1

Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu 3

5. Đóng góp của luận văn 4

6. Bố cục của luận văn 4

5

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: CẦU DU LỊCH NHẬT BẢN 5

1.1. Nhật Bản dƣới góc nhìn du lịch 5

5 1.1.1. Khái quát về đất nƣớc và con ngƣời Nhật Bản

1.1.1.1. Đất nước 5

1.1.1.2. Con người 7

1.1.1.3. Kinh tế – xã hội 9

1.1.1.4. Du lịch Nhật Bản 9

11 1.1.2. Vài nét về văn hoá Nhật Bản

1.2. Ngƣời Nhật Bản trong cộng đồng 14

14 1.2.1. Đặc điểm tâm lý xã hội của ngƣời Nhật

1.2.1.1. Tính cách 14

1.2.1.2. Phong tục tập quán 16

1.2.1.3. Tín ngưỡng và tôn giáo 21

22 1.2.2. Khẩu vị ăn uống

23 1.2.3. Hấp dẫn của du lịch đối với ngƣời Nhật Bản

1.3. Điều kiện làm nảy sinh nhu cầu du lịch của ngƣời Nhật Bản 28

28 1.3.1. Thời gian rỗi

30 1.3.2. Khả năng tài chính của du khách Nhật Bản

30 1.3.3. Trình độ dân trí

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 31

CHƢƠNG 1: THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH 32

NHẬT BẢN

2.1. Những xu hƣớng chính tác động tới thị trƣờng khách Nhật đi 32

du lịch nƣớc ngoài

2.2. Thực trạng khai thác thị trƣờng khách Nhật Bản tại Việt Nam 40

2.3. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam 44

44 2.3.1. Số lƣợng khách

45 2.3.2. Cơ cấu khách

48 2.3.3. Chi tiêu của khách

48 2.3.4. Thời vụ du lịch

48 2.3.5. Độ dài trung bình của chuyến đi

49 2.3.6. Quyết định đi du lịch

49 2.3.7. Bạn đồng hành khi đi du lịch

50 2.3.8. Lựa chọn các công ty, đại lý du lịch phục vụ chuyến đi

50 2.3.9. Cách thức phục vụ khách du lịch Nhật Bản

54 2.3.10. Sự hấp dẫn của sản phẩm du lịch Việt Nam

56 2.3.11. Các tác nhân hạn chế

2.4. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản và vấn đề đối mặt với kinh 58

doanh du lịch Việt Nam

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 62

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHAI THÁC THỊ TRƢỜNG KHÁCH 63

DU LỊCH NHẬT BẢN LÀ THỊ TRƢỜNG TRỌNG ĐIỂM

3.1. Xây dựng mô hình chiếm lĩnh thị trƣờng khách du lịch Nhật 63

Bản

3.2. Định hƣớng khai thác thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là thị 66

trƣờng trọng điểm

3.3. Giải pháp khai thác thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là thị 71

trƣờng trọng điểm

71 3.3.1. Đẩy mạnh công tác xúc tiến tuyên truyền, quảng bá du

lịch

73 3.3.2. Đa dạng hoá và nâng cao chất lƣợng sản phẩm

74 3.3.3. Nâng cao chất lƣợng đội ngũ lao động

77 3.3.4. Tăng cƣờng đầu tƣ kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật du lịch

77 3.3.5. Thúc đẩy hợp tác du lịch

78 3.3.6. Giáo dục du lịch toàn dân

79 3.3.7. Phối hợp liên ngành để phục vụ khách

3.4. Các khuyến nghị 80

80 3.4.1. Đối với Chính phủ và các ngành có liên quan về du lịch

82 3.4.2. Đối với Tổng cục du lịch

82 3.4.3. Đối với địa phƣơng

83 3.4.4. Đối với các doanh nghiệp

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 84

85

PHẦN KẾT LUẬN

THƢ MỤC SÁCH THAM KHẢO

88

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

TRONG LUẬN VĂN

OL: Office Lady (nữ viên chức)

GDP : Gross Domestic Product ( Tổng sản phẩm quốc nội)

JNTO: Japan National Tourist Organization (Tổ chức du lịch quốc gia Nhật

Bản)

JATA: Japan Association Travel Agencies (Hiệp hội lữ hành Nhật Bản)

SPDL: sản phẩm du lịch

KS: khách sạn

VC: vận chuyển

TNDL: tài nguyên du lịch

CQDL: cơ quan du lịch

TO: Tour Operator (Ngƣời điều hành tour)

TA: Travel Agent (Đại lý du lịch)

OTOP: One town one product (mỗi huyện một sản phẩm)

OVOP: One village one product (mỗi làng một sản phẩm)

DANH MỤC BẢNG VÀ TÊN BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Bảng 1. Số lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam (2002 - 2006) – tr 45

Bảng 2. Mục đích đi du lịch của ngƣời Nhật Bản – tr 46

Bảng 3. Số lần đến Hà Nội của khách Nhật Bản – tr 47

Bảng 4. Phân loại khách đến Hà Nội theo độ tuổi – tr 47

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không

thể thiếu đƣợc trong đời sống văn hoá - xã hội và hoạt động du lịch đang đƣợc

phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều

nƣớc trên thế giới.

Du lịch là sứ giả của hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia,

các dân tộc. Trên thế giới, du lịch hiện đƣợc xem là một trong những ngành

kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút đƣợc nhiều quốc gia tham

gia vì những lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội mà nó đem lại. Điều này càng

thể hiện rõ hơn trƣớc xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá.

Ở Việt Nam, Đại hội Đảng IX đã xác định “...Phát triển du lịch thật sự

trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lƣợng và hiệu quả

hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái,

truyền thống văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nƣớc và phát

triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu

vực...”, việc xây dựng chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam là rất cần thiết,

làm cơ sở để thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch và giải pháp phát triển

du lịch đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Du lịch Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh

tế, xã hội, văn hoá, mở rộng giao lƣu hợp tác quốc tế của đất nƣớc. Du lịch là

một trong những thế mạnh của Việt Nam. Vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên tự

nhiên và nhân văn đa dạng, phong phú có một ý nghĩa đặc biệt trong việc thu

hút khách du lịch quốc tế tại Việt Nam.

Việt Nam là một quốc gia mới phát triển du lịch nên việc tìm kiếm thị

trƣờng khách là rất cần thiết. Từ trƣớc đến nay, có thể nói việc nghiên cứu đặc

tính và xu hƣớng tiêu dùng của khách Nhật Bản còn là vấn đề hoàn toàn mới

mẻ. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đƣợc xác định là thị trƣờng đầy tiềm

năng và nay là thị trƣờng trọng điểm đối với du lịch Việt Nam. Để thị trƣờng

khách du lịch Nhật Bản thực sự là thị trƣờng khách du lịch trọng điểm đối với

du lịch Việt Nam cần có giải pháp cụ thể, thiết thực, ổn định và khả thi. Hiện

nay vẫn còn rất ít những công trình nghiên cứu về trị trƣờng trọng điểm này.

Từ yêu cầu bức xúc của việc phát triển thị trƣờng du lịch Nhật Bản, tác giả

mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu thị trƣờng khách du lịch

Nhật Bản đối với du lịch Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm các giải pháp để thu hút

khách du lịch Nhật Bản trở thành thị trƣờng trọng điểm của du lịch Việt Nam.

Luận văn tiếp cận và nghiên cứu thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản với

mục đích góp phần phát triển thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đến Việt

Nam, làm cho thị trƣờng khách Nhật thực sự là một thị trƣờng trọng điểm của

du lịch Việt Nam trong những năm tới.

Luận văn này chỉ là nghiên cứu thực trạng và khả năng khai thác thị

trƣờng khách du lịch Nhật Bản đối với Việt Nam cũng nhƣ đƣa ra những giải

pháp nhằm thu hút khách ngày càng đông hơn. Hiện nay Nhật Bản là thị

trƣờng du lịch giàu tiềm năng và sẽ phát triển rất mạnh trong những thập niên

tới nhất là thị trƣờng du lịch nƣớc ngoài (outbound). Nhật là một quốc gia có

số ngƣời đi du lịch hàng năm rất lớn (trên 17 triệu), chi phí của khách du lịch

Nhật Bản rất cao. Nghiên cứu về thị trƣờng khách Nhật Bản, luận văn đề cập

những vấn đề về đất nƣớc, con ngƣời và văn hoá Nhật Bản, đƣa ra những

nhận định đánh giá về thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản, về tâm lý, đặc tính

và xu hƣớng thị trƣờng khách Nhật Bản. Đồng thời luận văn cũng đƣa ra một

số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thu hút khách đến du lịch Việt Nam

đông hơn. Ngoài ra đề tài cũng phân tích các nguyên nhân cơ bản nhằm giúp

hoàn thiện các giải pháp có tính khả thi để nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp

phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu nhập cho ngành.

3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1 Đối tƣợng nghiên cứu:

- Nghiên cứu khách du lịch Nhật Bản

- Các giải pháp nhằm thu hút khách du lịch Nhật Bản trở thành thị

trƣờng trọng điểm của du lịch Việt Nam

3.2 Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Nghiên cứu khách du lịch Nhật Bản trên địa bàn Hà

Nội

Về thời gian: Tập trung phân tích đánh giá thực trạng khách du lịch

Nhật Bản giai đoạn từ 2001 - 2005.

Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu đặc điểm tâm lý,

đặc điểm tiêu dùng của thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản cũng nhƣ các đặc

trƣng cuả thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản dƣới góc độ thoả mãn các nhu

cầu có khả năng thanh toán đối với du lịch Việt Nam. Đặc biệt là khảo sát thị

trƣờng khách du lịch Nhật Bản ở Hà Nội, trong khoảng thời gian từ 5/2005

– 5/2006.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, luận văn sử dụng các phƣơng

pháp chủ yếu sau:

- Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin (sách, báo, tài liệu thu thập

từ các doanh nghiệp lữ hành, mạng Internet)

- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.

- Phƣơng pháp thống kê

- Phƣơng pháp điều tra xã hội (điều tra bảng hỏi về nhu cầu và sở thích

của khách du lịch Nhật Bản)

- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công

cuộc xây dựng và phát triển ngành du lịch nƣớc nhà, từng bƣớc hội nhập vào

du lịch khu vực và quốc tế. Mặt khác, những kết quả nghiên cứu của luận văn

là nguồn tƣ liệu tham khảo cho ngƣời nghiên cứu thị trƣờng và giúp cho các

doanh nghiệp du lịch Việt Nam có thêm những thông tin về thị trƣờng khách

Nhật trong việc kinh doanh du lịch nhằm đem lại kết quả tốt đẹp.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, tiểu kết, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục

(bảng biểu, tranh ảnh minh hoạ), luận văn gồm có 3 chƣơng:

CHƢƠNG 1: NGHIÊN CỨU VỀ CẦU DU LỊCH NHẬT BẢN

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHAI THÁC THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN

LÀ THỊ TRƢỜNG TRỌNG ĐIỂM

CHƢƠNG 1

CẦU DU LỊCH NHẬT BẢN

1.1. Nhật Bản dƣới góc nhìn du lịch

1.1.1. Giới thiệu về đất nƣớc và con ngƣời Nhật Bản

1.1.1.1. Đất nước

Ngƣời dân Nhật Bản gọi đất nƣớc mình là Nihon hay Nippon đều có ý

muốn cả thế giới hãy biết đến Nhật Bản nhƣ là “Đất nƣớc mặt trời mọc”

(Nhật = mặt trời, Bản = gốc). Trên nền trắng của quốc kỳ Nhật Bản nổi lên

hình mặt trời đỏ, quốc kỳ còn đƣợc gọi là Hinomaru có nghĩa là “vầng

mặt trời”.

Nhật Bản là một nƣớc quân chủ lập hiến ở phía đông lục địa châu Á.

Quần đảo Nhật Bản chạy dài theo một hình trăng lƣỡi liềm từ đảo Sakhalin (CHLB Nga) tới Đài Loan (Trung Quốc), dài chừng 3800 km từ 45033 xuống 20025 vĩ Bắc, bao gồm bốn hòn đảo lớn là Hokkaido, Honshu, Shikoku,

Kyushu và khoảng 6850 đảo nhỏ khác. Honshu là đảo lớn nhất chiếm 61,1%

tổng diện tích nƣớc Nhật.

Nhật Bản đƣợc chia thành 8 vùng với 47 tỉnh, dƣới đó là các quận, khu,

xã, thôn. Đảo Honshu, Shikoku và Kyushu là ba vùng. Riêng trên đảo

Honshu- hòn đảo lớn nhất, là năm vùng: Tohoku, Kanto, Chubu, Kansai và

Chugoku. Diện tích đất liền của toàn bộ đất nƣớc Nhật Bản vào khoảng 378.000 km2 gần tƣơng đƣơng với diện tích Phần Lan (338.000 km2 ), gấp 1/5

lần diện tích nƣớc Anh, bằng 1/9 lần diện tích Ấn Độ, 1/25 diện tích nƣớc

Mỹ, chiếm chƣa đầy 0,3% diện tích toàn thế giới và lớn hơn diện tích Việt Nam (329.465 km2 ) chừng 15%. Thủ đô là Tokyo, là một trong những thành

phố đông dân nhất trên thế giới và cũng là một trong những thành phố sạch sẽ

và an toàn nhất.

Dân số Nhật Bản tính đến ngày 12/10/1999 vào khoảng 126.500.000

ngƣời, đứng hàng thứ 9 trên thế giới. Trong đó 49% dân số sống tập trung ở

ba thành phố Tokyo, Osaka, Nagoya và các thành phố xung quanh đó.

Phần lớn nƣớc Nhật là những ngọn núi cao với thung lũng hẹp ở giữa.

Núi là một trong những cảnh thiên nhiên đẹp nhất Nhật Bản. Dãy Alps Nhật

Bản trên đảo Honshu rất nổi tiếng nhƣng nổi tiếng là Fuji san - có nghĩa là

“Núi rƣợu trƣờng sinh”, ngọn núi cao nhất Nhật Bản (3776 m). 1/10 tổng số

núi lửa trên thế giới nằm ở Nhật Bản. Rừng núi chiếm đến 2/3 diện tích nƣớc

Nhật, các triền núi thƣờng núi thƣờng có độ dốc cao và đƣợc bao bọc bởi cây

cối um tùm. Toàn bộ đƣờng bờ biển và đại dƣơng khiến cho cá trở nên quan

trọng trong bữa ăn cũng nhƣ trong nền kinh tế Nhật Bản. Nhật Bản còn có

những nguồn suối nóng tự nhiên đƣợc sử dụng để tắm dƣỡng sinh và nhiều

sông, hồ đẹp tuyệt vời.

Vì các hòn đảo trải dài nhƣ vậy nên thời tiết biến đổi rất nhiều. Ở miền

Bắc, mùa đông giá lạnh và có tuyết, mùa hè ôn hoà. Còn những đảo ở phía

Nam nhƣ Kyushu, Okinawa ấm áp hơn nhiều. Mùa xuân (haru) bắt đầu vào

tháng 3 khi cây cối ra hoa và ngày thì ấm dần lên. Sau mùa xuân là đến mùa

hè (natsu), kéo dài từ khoảng tháng 5 cho tới đầu tháng 9. Từ tháng 9 đến hết

tháng 11 là mùa thu (aki), trời trở nên khô và mát dịu hơn mặc dù đôi khi vẫn

có mƣa thậm chí còn có cả những trận cuồng phong hoặc những cơn bão lớn.

Vào mùa đông (fuyu), từ cuối tháng 11 đến tháng 2, những trận gió lạnh từ

vùng Xibiri và Mông Cổ thổi tạt ngang qua nƣớc Nhật.

Sự đa dạng về đất đai và khí hậu tạo nên sự phong phú tuyệt vời về thực

vật. Một số loài hoa và cây cối có ý nghĩa quan trọng trong đời sống Nhật

Bản. Hoa anh đào biểu trƣng cho vẻ đẹp chóng lụi tàn, cây thông là biểu trƣng

sự trƣờng thọ còn cây tre tƣợng trƣng cho khả năng vƣợt qua khó khăn và

phát triển mạnh mẽ.

Địa hình phức tạp của Nhật Bản đã tạo nên những cảnh đẹp dễ gây xúc

động- những hồ tuyết trên núi, những hẻm đá và những con sông chảy xiết,

những đỉnh núi gồ ghề và những thác nƣớc thơ mộng. Chúng luôn là nguồn

cảm hứng và thú vị cho cả ngƣời Nhật lẫn các du khách nƣớc ngoài.

Nhật Bản đạt đƣợc bƣớc nhảy vọt về kinh tế thông qua sự phát triển thần

kỳ của ngành công nghiệp kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhật Bản

ngày nay là một trong những quốc gia phát triển và thịnh vƣợng nhất thế giới.

Phong cảnh và truyền thống của Nhật Bản ở từng vùng cũng có sự khác nhau.

Về thắng cảnh lịch sử, phải kể đến các ngôi đền thờ và lâu đài cổ kính ở

Honshu, đặc biệt là khu vực quanh Kyoto và Nara. Cũng có những thắng cảnh

hiện đại nhƣ khu mua bán và giải trí ở Tokyo và Osaka. Những lễ hội đặc biệt

nhƣ ở vùng Sapporo, Yokote và Fukuoka là một phần quan trọng của nền văn

hoá Nhật Bản. Đây là đất nƣớc của cảnh đẹp thiên nhiên và có nền

văn hoá đa dạng.

1.1.1.2. Con người

Nhật Bản là quốc gia thuần nhất cao độ về phƣơng diện sắc tộc. Ngƣời

Nhật chiếm tới 99% dân cƣ. Tiếng Nhật là quốc ngữ, Phật giáo và Khổng giáo

từ lâu đã giữ một vai trò to lớn trong việc hình thành hệ tƣ tƣởng kiến trúc

thƣợng tầng xã hội Nhật Bản. Bản sắc dân tộc cao hơn bản sắc cá nhân, yêu

thiên nhiên, tính kỷ luật cao, ôn hoà, tiết kiệm và năng động trong việc tiếp

thu cái mới. Một điều thật ấn tƣợng là ngƣời Nhật rất sạch sẽ. Bất cứ khi nào

bạn bƣớc vào nhà hàng, nhà tắm hơi hay phòng vệ sinh công cộng bạn đều

đƣợc phục vụ một chiếc khăn ẩm để lau tay.

Ngƣời Nhật có tính độ lƣợng và tôn trọng ngƣời nói chuyện với mình.

Trong khi nói chuyện, họ thƣờng nhìn vào mắt nhau và không ngừng nói

“Hai” có nghĩa là “tôi đang chăm chú lắng nghe bạn nói đây, bạn thân

mến ạ” [46,11].

Ngƣời Nhật rất tôn trọng truyền thống và đƣợc giáo dục rất cẩn thận. Họ

mong muốn giữ gìn nguyên vẹn phép xử thế và các hình thức văn hoá đã

đƣợc thừa hƣởng từ những thế hệ trƣớc. Ngƣời Nhật có thái độ đặc biệt trân

trọng đối với nếp sống đã hình thành cũng nhƣ đối với di sản văn hoá. Tính

truyền thống của ngƣời Nhật có ảnh hƣởng trên nhiều phƣơng diện đối với

sinh hoạt - xã hội - chính trị của nƣớc Nhật.

Ngƣời Nhật thích tất cả những gì cụ thể, có hình ảnh. Ở ngƣời Nhật, tính

cụ thể của tƣ duy gắn liền ở mức độ lớn với những đặc điểm của ngôn ngữ và

văn tự. Ngƣời Nhật có truyền thống sống cùng một gia đình lớn có cả ông bà,

cha mẹ và con cái. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc thƣờng xuyên với thiên nhiên

phong phú và đa dạng đã làm cho ngƣời Nhật có thói quen “cảm nhận cái đẹp,

thích thƣởng thức cái đẹp”. Ngƣời Nhật coi giống liễu rủ (Yanaki) là linh mộc

vì nó là giống cây đem lại may mắn và thành đạt gợi đƣợc trong lòng ngƣời

Nhật khoái cảm thẩm mỹ. Ngƣời Nhật cũng quan tâm đến năm sinh, tháng đẻ,

tƣớng số, mặt, chỉ tay để đoán biết tính cách hậu vận và tƣơng lai. Nếu ngƣời

Nhật ở phía Nam (Osaka) thích vui vẻ xã giao rộng, thích thƣơng mại thì

ngƣời phía Bắc lại kín đáo, không thích hỏi về tuổi tác và đời tƣ của

ngƣời khác.

Có thể nói thiên nhiên Nhật Bản đẹp nhƣng thật khắc nghiệt đối với con

ngƣời. Những hòn đảo nghèo nàn này không đƣợc hƣởng thiên thời và địa lợi.

Vậy mà những con ngƣời Nhật Bản nhƣ càng đƣợc tôi luyện thêm trong thiên

nhiên nghiệt ngã, họ đã vƣơn lên một cách quả cảm, trở thành một trong

những dân tộc đứng đầu thế giới về sự phát triển kinh tế, kỹ thuật.

1.1.1.3. Kinh tế – xã hội

Nhật Bản là nƣớc rất nghèo nàn về tài nguyên trong khi dân số thì quá

đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ

trong chiến tranh, nhƣng với các chính sách phù hợp kinh tế Nhật Bản đã

nhanh chóng phục hồi (1945 – 1954), phát triển cao độ (1955 – 1973). Từ

1974 đến nay, tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một

nƣớc có nền kinh tế – công nghiệp – thƣơng mại – tài chính – dịch vụ – khoa

học kỹ thuật đứng thứ hai trên thế giới (sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu ngƣời là

36.217 USD (1999) [13, 27]. Cán cân thƣơng mại dƣ thừa và dự trữ ngoại tệ

đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tƣ ra nƣớc ngoài rất nhiều. Nhật

Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị

tiền tệ là đồng yên Nhật.

Nhật Bản đang xúc tiến 6 chƣơng trình cải cách lớn trong đó có cải

cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và

sắp xếp lại cơ cấu chính phủ. Cải cách hành chính của Nhật đƣợc thực hiện từ

tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra chậm chạp nhƣng cải cách đang đi dần vào quỹ

đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngƣợc ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại

kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bƣớc tăng trƣởng

năm 2003 đạt trên 3%, quý 1/2004 đạt 4%. [32, 31]

1.1.1.4. Du lịch Nhật Bản

Phong cảnh và truyền thống của Nhật Bản ở từng vùng có sự khác

nhau. Về thắng cảnh lịch sử, phải kể đến các ngôi đền thờ và lâu đài cổ kính ở

Honshu, đặc biệt là khu vực quanh Kyoto và Nara. Cũng có những thắng cảnh

hiện đại nhƣ khu mua bán và giải trí ở Tokyo và Osaka. Những lễ hội đặc biệt

nhƣ ở vùng Sapporo, Yokote và Fukuoka là một phần quan trọng của nền văn

hoá Nhật Bản. Đây là đất nƣớc của cảnh đẹp thiên nhiên và có nền

văn hoá đa dạng.

Một số địa điểm du lịch nổi tiếng ở Nhật Bản nhƣ :

- Lễ hội Tuyết ở Sapporo, Hokkaido.

- Ở Yokote, Akita thuộc miền bắc Nhật Bản, trẻ em đắp những ngôi

nhà bằng tuyết (kamakura) nơi chúng vui chơi với bạn bè trong suốt

lễ hội Kamakura.

- Đền Toshogu ở Nikko, Tochigi, rất nổi tiếng với những bức chạm

gỗ tinh xảo.

- Khu Ginza ở Tokyo – không cho xe cộ qua lại vào ngày Chủ nhật và

các ngày lễ – là một địa điểm đƣợc ngƣời ta rất thích đến để mua

sắm cũng nhƣ dạo chơi.

- Mọi trẻ em Nhật đều mơ ƣớc đƣợc đến thăm khu Disneyland ở

Chiba, Tokyo.

- Tƣợng Đại Phật (Daibutsu) cao 13,35 mét ở Kamakura,Kanagawa,

đƣợc dựng năm 1252.

- Đền Kinkakuji phủ vàng ở Kyoto đƣợc xây dựng lần đầu vào

thế kỷ 14.

- Toà thƣợng điện và chùa ở đền Horyuji tại Nara đƣợc xây dựng từ

thế kỷ thứ 7.

- Đảo Nakanoshima là trung tâm hoạt động kinh doanh ở Osaka.

- Một phần lâu đài Himeji đƣợc xây dựng lần đầu vào thế kỷ 14, gợi

nhớ đến hình ảnh một con diệc trắng nhƣ tuyết.

- Các đụn cát Tottori chỉ là một trong nhiều phong cảnh khác nhau ở

Nhật Bản.

- Công viên tƣởng niệm hoà bình ở Hiroshima là nơi tƣởng niệm

những nạn nhân khi thành phố bị bom nguyên tử phá huỷ năm 1945.

- Lễ hội Hakata Dontaku đƣợc tổ chức từ ngày mùng 3 đến mùng 4

tháng 5 ở Fukuoka trên đảo Kyushu.

- Những vỉa san hô và vùng biển trong xanh quanh các hòn đảo cận

nhiệt đới ở Okinawa.

1.1.2. Vài nét về văn hoá Nhật Bản

Nền văn hoá và các đặc điểm tính cách của mỗi dân tộc đều chịu ảnh

hƣởng của các điều kiện lịch sử, địa lý và khí hậu.

Vị trí địa lý của Nhật Bản có ba đặc điểm lớn là: một quốc đảo có địa

hình nhiều núi non ở Đông Bắc Á (75% là rừng và núi), nằm tƣơng đối tách

biệt với lục địa châu Á và ở ngoại vi của các trung tâm văn minh của thế giới.

Nằm ở vùng khí hậu ôn hoà, Nhật Bản có nhiệt độ tƣơng đối ấm. Lƣợng mƣa

hàng năm từ 1600mm - 1700mm, đặc biệt có mƣa lớn khoảng đầu mùa xuân

và giữa mùa hè. Phía tây nam Nhật Bản là vùng có độ ẩm nhiệt đới, nền nông

nghiệp và cuộc sống có nhiều điểm giống nhƣ phía nam Thái Bình Dƣơng

trong 3 - 4 tháng mùa hè.

Những điều kiện đó dẫn đến một đặc điểm khái quát là Nhật Bản đủ để

xa châu Á để thoát khỏi những ảnh hƣởng của biến đổi của lục địa, nhƣng lại

đủ gần để có thể hƣởng những thành quả của nền văn minh đó. Hơn nữa, với

một cộng đồng dân tộc tƣơng đối thuần nhất, Nhật Bản có khả năng tiếp nhận

ảnh hƣởng văn hoá của nƣớc ngoài để phát triển cho mình nền văn hoá riêng.

Đó là một nền văn hoá mang đậm nét dân tộc với những đặc điểm sau:

*Nhật Bản - một nước có nền văn hoá với tính thuần nhất cao.

Từ hàng ngàn năm trƣớc, các hòn đảo Nhật Bản đã là ngôi nhà chung

của nhiều ngƣời nhập cƣ đến đấy, trải qua nhiều thời đại và từ nhiều nƣớc

khác nhau trên lục địa, và có thể từ những hòn đảo ở phía Nam. Trải qua

nhiều thời đại lịch sử, sự pha trộn đó đã sản sinh ra một dân tộc tƣơng đối

thuần nhất, phân biệt với cả các nƣớc láng giềng nhƣ Trung Quốc, Triều Tiên,

Mông Cổ, cả trong ngôn ngữ, sinh hoạt, tôn giáo, cơ cấu chính trị và xã hội.

Những nét riêng đó đã sớm trở thành bản chất của ngƣời Nhật Bản. Ở Nhật

Bản, điều quan trọng hàng đầu là truyền thống của một cộng đồng hơn là

truyền thống của một cá nhân, và đặc trƣng này đã đóng góp nhiều vào tính

chất đồng nhất của xã hội Nhật Bản.

*Dễ dàng tiếp thu văn hoá nước ngoài

Trong lịch sử đã luôn luôn có những sự gặp gỡ giữa văn hoá Nhật Bản

với các quốc gia văn minh khác nhƣ Trung Quốc và châu Âu. Từ xa xƣa,

ngƣời Nhật đã có sự khát khao đối với các nền văn minh khác và trong lịch sử

tiến hoá của mình, ngƣời Nhật hoan nghênh các yếu tố văn hoá nƣớc ngoài

mà không gạt bỏ các tập tục và truyền thống đã có. Có thể nói, nhân dân Nhật

Bản đã hấp thụ có chọn lọc nhiều phát kiến văn hoá của các nền văn minh lớn

trên thế giới. Sự dễ dàng tiếp thu văn hoá nƣớc ngoài là một truyền thống của

Nhật Bản đã có từ lâu đời. Đó là truyền thống không đóng cửa, không bảo

thủ, không cực đoan nhƣng cũng không đánh mất cốt cách của dân tộc mình.

*Tình yêu thiên nhiên

Thiên nhiên luôn luôn là ngƣời bạn gần gũi và quen thuộc đối với ngƣời

Nhật. Mặc dù họ từng dạy học sinh từ cấp tiểu học rằng: “Thiên nhiên không

dành cho nước ta những ưu đãi. Tất cả tương lai là ở trong tay các bạn” [7,

40] nhƣng họ không coi thiên nhiên là một lực lƣợng đối lập tàn khốc. Quan

niệm hoà vào thiên nhiên này là phù hợp với cách nhìn của những ngƣời dân

sống trên một quốc đảo có khí hậu ôn hoà và đầy mƣa. Tinh thần hoà hợp với

thiên nhiên nằm trong bản chất của ngƣời Nhật, đi vào triết học và tôn giáo

của họ, trong cảm xúc và sự thƣởng thức thiên nhiên của họ. Thiên nhiên

cũng chiếm một vị trí lớn trong văn học và hội hoạ Nhật Bản.

*Thích những cái gì đơn giản, nhỏ nhắn, tinh tế và khéo léo hơn là

những thứ to lớn, lộng lẫy và hiển nhiên.

Một trong những phong cách thẩm mỹ của nghệ thuật Nhật Bản là sự tế

nhị, đơn giản và gián tiếp. Sự tế nhị hàm ý không thật hiển nhiên và đòi hỏi

nghiên cứu kỹ những gì đáng trân trọng.

Công viên của Nhật đƣợc thiết kế sao cho giống tự nhiên và không đƣa

vào đó những dáng vẻ nhân tạo. Đó là một điều khác với phƣơng Tây. Ở Nhật

Bản, không chỉ trong cảnh quan kiến trúc mà trong các hình thức nghệ thuật

khác, tính tự nhiên hết sức đƣợc coi trọng và đánh giá cao.

Trà đạo Nhật Bản có truyền thống hàng thế kỷ là một thứ nghệ thuật,

đồng thời là một trò tiêu khiển có tính thẩm mỹ. Tinh thần cơ bản của việc

thƣởng thức trà là hài hoà, tôn kính, tinh khiết và trong trẻo.

Bonsai là nghệ thuật trồng cây trong chậu nhỏ. Nó tạo ra những cây cảnh

đẹp tự nhiên và cho ta sự thƣởng thức thiên nhiên trong hình ảnh thu nhỏ lại.

*Sự thờ cúng tổ tiên

Đạo Phật, đạo Shinto (thờ cúng tổ tiên và thánh thần), đạo Khổng, đạo

Thiên Chúa là những tôn giáo lớn ở Nhật. Có một sự trộn lẫn của cả bốn thứ

tôn giáo đó trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân, nhƣng sự thờ cúng tổ

tiên có ảnh hƣởng to lớn nhất. Xã hội Nhật Bản tạo đủ điều kiện chấp nhận đa

tôn giáo, dù có nguồn gốc trong nƣớc hay ngoài nƣớc, trong khi truyền thống

lâu đời của họ là một đất nƣớc của những gia đình và những cộng đồng.

*Bên cạnh đó, sự bền bỉ, kiên trì cũng là một tính cách của người Nhật.

Đó cũng là một dạng khác của sự tinh tế, khéo léo, ƣa nhỏ nhắn và cụ thể

của họ. Trƣớc bất kỳ sự kiện nào, dù trong lĩnh vực nào, họ không vội vã,

không nhiều lời, không bàn đến những cái quá xa và viển vông. Họ bình tĩnh,

xem xét từng điều kiện cụ thể, chia việc lớn ra thành nhiều việc nhỏ, giải

quyết xong cái trƣớc sẽ đến cái sau, cứ thế mà đi đến đích.

“Nếu phải thử định rõ tính cách văn hoá Nhật Bản chỉ bằng vài từ thôi,

ta có thể nói là nó bộc lộ sự ưa thích cái duyên dáng tế nhị bên trong được

hiểu như là sự đối lập với cái tráng lệ bên ngoài”. [24, 17]

Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia đều nằm ở châu Á - Thái Bình

Dƣơng. Hai nƣớc không chỉ gần nhau về mặt địa lý mà còn có nhiều điểm

tƣơng đồng và có quan hệ lâu đời về kinh tế, văn hoá.

Có thể nói Việt Nam và Nhật Bản còn có nhiều tiềm năng để có thể mở

rộng hơn nữa hợp tác văn hoá và cả hai bên đều tỏ rõ sự quan tâm thúc đẩy.

Mọi sự hợp tác đều phải dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau. Hiện nay ở Nhật Bản

đã có một Hội nghiên cứu Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Còn ở Việt Nam,

cũng đã hình thành Hội đồng phối hợp nghiên cứu Nhật Bản. Đây là một

trong những tác nhân quan trọng thúc đẩy quá trình hợp tác nói chung, quá

trình giao lƣu văn hoá nói riêng. Hơn nữa, trong bối cảnh quan hệ kinh tế

Nhật - Việt đã đạt đƣợc những thành công nhất định, đây chính là thời điểm

chúng ta phải nâng cao hiểu biết về Nhật Bản, phải có kế hoạch đào tạo

chuyên gia trong lĩnh vực này. Hy vọng đến một thời điểm nào đó ngƣời Việt

Nam sẽ quen với âm nhạc Gagaku (âm nhạc cung đình xa xƣa), biết thế nào là

Bunraku, là Kabuki, Buto... đồng thời ngƣời Nhật Bản cũng có thể phân biệt

đâu là chèo, tuồng, ca trù và đặc biệt là nhã nhạc cung đình Huế...

của Việt Nam.

1.2. Ngƣời Nhật Bản trong cộng đồng

1.2.1. Đặc điểm tâm lý xã hội của ngƣời Nhật

1.2.1.1. Tính cách

- Đặc điểm chung:

Ngƣời Nhật rất yêu lao động và nhiệt tình trong mọi lĩnh vực hoạt động,

lao động là đặc điểm quan trọng nhất trong tính cách dân tộc Nhật.

Yêu thiên nhiên: tình gắn bó với thiên nhiên của ngƣời Nhật Bản có sắc

thái tín ngƣỡng và tôn giáo trong tiềm thức dân gian. Đối với ngƣời Nhật, mỗi

loại cây và hoa đều có ý nghĩa tƣợng trƣng. Thông, tre và mận biểu tƣợng tuổi

thọ, sự lâu bền. Hoa cúc nở muộn và lâu tàn thƣờng dùng để mừng thọ và

cũng là hoa biểu tƣợng của hoàng gia. Tre từ xƣa vốn đƣợc nhân dân tôn kính,

đƣợc coi là nơi có thần ở. Tre và măng đƣợc thờ ở các đền Thần đạo. Đi ngắm

hoa, ngắm cảnh thiên nhiên là một phong tục đẹp của ngƣời dân Nhật Bản.

Tính cách dân tộc Nhật còn đƣợc thể hiện ở sự thông minh, cần cù, khôn

ngoan. Bản sắc cộng đồng cao hơn bản sắc cá nhân. Trong tính cách của

ngƣời Nhật, những yếu tố tƣơng phản, đối lập hiện lên một cách rõ rệt, sắc

nét, quyết liệt: “Người Nhật có thể thưởng thức cái đẹp mong manh của hoa

anh đào và cái ánh thép lạnh người của một thanh bảo kiếm” [24, 116].

Tâm tính của ngƣời Nhật còn đƣợc thể hiện qua lối sống truyền thống

của cƣ dân. Uống trà là cả một nghệ thuật, một nghi lễ, đƣợc gọi là “trà đạo”.

Cùng với trà đạo, uống rƣợu sakê cũng là một phong tục truyền thống của

ngƣời Nhật, đòi hỏi những nghi lễ riêng. Bên cạnh đó ngƣời Nhật còn có óc

thẩm mỹ rất phát triển điều này đƣợc thể hiện rõ qua kiến trúc nhà và vƣờn.

- Đặc điểm hành vi của nhóm người

Ngƣời Nhật có tính kỷ luật cao. Trong quan hệ giữa các cá nhân của

ngƣời Nhật, tính kỷ luật biểu hiện nhƣ là sự mong muốn đạt tới tính điều

chỉnh. Đặc điểm này của họ đòi hỏi phải nghiêm chỉnh tuân theo một trật tự

đã đƣợc qui định. Bên cạnh tính kỷ luật, ngƣời Nhật còn trung thành với nhân

vật có uy quyền, chu toàn bổn phận với nhóm. Ngay từ nhỏ, ngƣời Nhật đã có

thói quen đặt “cái tôi” của mình dƣới lợi ích của nhóm. Ngƣời Nhật đƣợc giáo

dục ý thức phụ thuộc vào gia đình. Những cái cúi chào đầu tiên mà ngƣời trên

dạy cho đứa bé Nhật giúp cho nó có khái niệm sự phụ thuộc về vị trí của nó

trong nhóm. Ý nghĩa đạo đức Khổng giáo mà ngƣời Nhật lĩnh hội đƣợc thể

hiện qua câu châm ngôn: “Quan hệ giữa người trên và người dưới cũng như

quan hệ giữa gió và ngọn cỏ: cỏ phải rạp xuống khi gió thổi” [46, 58 -59].

- Đặc điểm trong cuộc sống thường ngày

Lịch sự, chu đáo, nhẫn nại, tằn tiện, ham học hỏi đó là tính cách trong

cuộc sống thƣờng ngày của ngƣời Nhật.

Có thể nói, lịch sự là một trong những chuẩn tắc quan trọng nhất của

cuộc sống thƣờng ngày trong tính cách dân tộc của ngƣời Nhật. Bất kỳ lời

nói, cử chỉ, hành vi nào của ngƣời Nhật, kể cả sự thúc giục, cũng đều mang

dấu ấn lịch sự. Trƣớc khi cầm một vật gì đó lên tay, ngƣời Nhật xin lỗi và xin

phép chủ nhân. Ăn nói lịch sự là thuộc tính bất di bất dịch của sự giao tiếp ở

Nhật Bản. Trên đƣờng phố, trong công viên và ở các nơi công cộng có thể bắt

gặp những tấm bảng nhỏ kêu gọi mọi ngƣời giữ phép lịch sự: “Con người

chẳng phải lệ thuộc một cái gì khác, ngoài điều tốt và phép lịch sự” [46, 63].

Nhiều ngƣời lần đầu tiên đến thăm Nhật Bản đều ngạc nhiên trƣớc sự

sắp xếp nhà cửa, cách ăn mặc và sự bài trí trong phòng. Tất cả đều mang dấu

ấn nghiêm túc và trật tự. Khắp nơi đều sạch sẽ lạ thƣờng. Tính cẩn thận và

tính ƣa sach sẽ kết hợp với tính tằn tiện là cơ sở để có đƣợc những kỹ xảo nổi

tiếng trong thực tiễn sản xuất của ngƣời Nhật - những kỹ xảo cho phép họ tạo

ra các sản phẩm với độ chính xác và hoàn hảo đáng kinh ngạc, khiến nhiều

hãng nƣớc ngoài phải ghen tị. Ở đây còn phải kể đến tính ham học hỏi của

ngƣời Nhật. Ngƣời Nhật đƣợc dạy cách nhận thức bản chất của sự việc mà

không cần đến trừu tƣợng hoá, vì thế nên sự ham học hỏi của ngƣời Nhật

cũng mang tính cụ thể. Có thể điều này có liên quan trực tiếp đến những đặc

điểm trong ý nguyện sáng tạo của họ.

1.2.1.2. Phong tục tập quán

Do điều kiện tự nhiên và xã hội, những phong tục tập quán đã định hình

trong các cộng đồng. Phong tục tập quán là những qui ƣớc sinh hoạt phần lớn

không thành văn đƣợc cả cộng đồng tuân thủ. Nó khá bền vững trƣớc thời

gian và làm nên dấu hiệu sinh hoạt có tính đặc thù của từng dân tộc. Phong

tục tập quán của địa phƣơng, của sắc tộc cũng là một nhu cầu tâm lý, một nét

tâm lý. Nắm đƣợc phong tục tập quán của một địa phƣơng thì sẽ dễ nhập

cuộc, dễ hoà đồng, tránh đƣợc những phản ứng tiêu cực trong tâm lý ngƣời

bản địa. Ví dụ: đến nhà ngƣời Nhật tuyệt nhiên không đƣợc đi thẳng vào

phòng khi chƣa để giày dép và áo khoác ở ngoài, đến phòng ngƣời châu Âu

muốn vào nhất thiết phải gõ cửa xin phép, sang đất Campuchia phải chắp tay

trƣớc ngực chào chứ không chìa tay ra bắt.

Nƣớc Nhật là một tấm gƣơng phản ánh sự thần kỳ về một tinh thần nỗ

lực vô bờ bến hƣớng về tƣơng lai của một đất nƣớc đang trong cảnh lạc hậu,

nghèo nàn.

- Trong cuộc sống thƣờng nhật ngƣời Nhật lịch lãm, gia giáo, chu tất,

kiên trì, căn cơ, ham học hỏi. Nguyên tắc sống của họ là “Biết được chỗ cần

dừng tất sẽ tránh khỏi hiểm nguy, thấu hiểu được thân phận mình tất khỏi bị

sỉ nhục” [9,156]. Và vì thế ngƣời Nhật có tính tự chủ rất cao, điềm

tĩnh và ôn hoà.

- Chúng ta đã quen cho rằng nụ cƣời xuất hiện trên gƣơng mặt khi ngƣời

ta đang có điều gì đó dễ chịu và tiếng cƣời rộn rã vang lên khi ngƣời ta bắt

gặp một niềm vui bất ngờ, hoặc tâm trạng đầy phấn khích. Đối với ngƣời

Nhật thì lại không phải thế. Nụ cƣời hay tiếng cƣời ngƣời Nhật có nhiều ý

nghĩa khác nhau - đó có thể là dấu ấn thân thiện, lại cũng có thể là biểu hiện

lạnh lùng, kín đáo, là sự bộc lộ cảm xúc một cách cởi mở và đồng thời cũng là

dấu hiệu lúng túng trong một tình huống khó xử. Nụ cƣời của ngƣời Nhật có

thể có ý nghĩa “tôi hiểu” hoặc “tôi không hiểu”. Không có gì đáng ngạc nhiên,

một trong những nụ cƣời phổ biến nhất là nụ cƣời “bí ẩn”. Và ngƣời Nhật sợ

nhất khi bị mất mặt, mất thể diện, tai tiếng.

- Trong giao tiếp với ngƣời Nhật họ tìm cách lẩn tránh các từ “không”,

“tôi không biết”, “tôi không thể”. Ngƣời Nhật thƣờng diễn đạt vòng vèo, bóng

gió, trở thành tập quán nói vòng vèo đƣợc rèn luyện từ đời này sang đời khác.

Để tránh tự ái và mất thể diện cho đối tƣợng giao tiếp, trong kinh doanh tập

quán này cũng đƣợc áp dụng.

- Ngƣời Nhật rất mực lễ phép và tôn trọng nghi thức. Khi mới gặp

khách, việc trao đổi danh thiếp và đọc một cách tỉ mỉ là điều không thể xem

thƣờng. Không nên nhìn lƣớt qua rồi cất ngay vào túi.

- Với ngƣời Nhật cách chào hỏi truyền thống là cúi đầu càng thấp thì thể

hiện tình cảm càng nhiều, sự lễ phép và tôn kính càng cao. Cách cúi chào thể

hiện sự giao tiếp có văn hoá của ngƣời Nhật Bản. Đa số ngƣời Nhật chấp

nhận việc cúi chào, nhìn xuống hoặc nhìn sang bên, còn không chấp nhận cái

nhìn trực diện, chăm chú. Ngƣời Nhật rất đỗi ngạc nhiên nếu một ngƣời nƣớc

ngoài mà hỷ mũi vào khăn vừa “nhìn chòng chọc” vào họ. Ngƣời nào, trong

lúc trò chuyện cứ tò mò nhìn thẳng vào ngƣời khác bị ngƣời Nhật xem là bất

lịch sự.

- Khi ngƣời Nhật trò chuyện với nhau, họ thƣờng tìm một vật trung gian

nào đó để nhìn. Đó có thể là một cuốn sách, một đồ trang sức, một lọ hoa.

- Ngƣời Nhật tiếp thu phong tục quốc gia khác rất nhanh. Họ thích học

tiếng nƣớc họ tới du lịch. Họ hài lòng khi chủ nhà thể hiện sự giao tiếp bằng

tiếng Nhật. Khi trở lại, họ sẽ chọn nơi họ đã ở lần trƣớc nếu nhƣ họ đã đƣợc

vui lòng.

- Phụ nữ Nhật rất sung sƣớng khi bạn tặng họ lời khen là “Mỹ nhân

tuổi tỵ”.

- Ngƣời Nhật rất tin vào tƣớng số, ngƣời dân rất kiêng kị con số 4. Trong

các khách sạn, cầu thang máy, bệnh viện, trƣờng học... số phòng đều có sự

nhảy cóc bỏ qua con số 4. Lý do thật đơn giản, trong tiếng Nhật “shi” có

nghĩa là số 4 và cũng có nghĩa là chết. Ngƣợc lại, ngƣời Nhật rất thích những

số lẻ nhƣ 1, 3, 5, 7, 9. Đi du lịch ngƣời ta thích chọn toa lẻ của tàu, số ghế lẻ

và buồng khách sạn lẻ. Đặc biệt tặng hoa, hoặc quà cho ngƣời thân, ngƣời ta

cũng thích tặng theo số lẻ.

- Nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) thƣờng kết hợp cái đẹp với cái khắc khổ,

gợi ra cảnh sông núi bao la với một ít nƣớc và một cành hoa. Dân tộc nào

cũng có tục cắm hoa nhƣng ở Nhật hoa cắm trong bình phải có một phong

cách, một cách sắp xếp đƣợc qui định. Cắm hoa cũng là một nghệ thuật phải

dày công học tập. Ngày nay, ở Nhật Bản có từ 300 đến 400 trƣờng phái cắm

hoa khác nhau.

- Ngƣời Nhật rất thích hoa anh đào “Sakura”. Đây là nét thẩm mỹ rất tự

hào của ngƣời Nhật: “những gì đẹp trong thiên nhiên cũng như trong cuộc

đời thường hiếm khi tồn tại lâu. Chính sự tàn phai sớm cũng là nét đẹp vì nỗi

luyến tiếc về những cuộc đời đã tắt lụi đúng ở đỉnh cao rực rỡ của nó chính là

cái cao đẹp nhất” [20, 56]. Hoa anh đào còn là biểu tƣợng của tinh thần tập

thể, với sức sống tràn đầy. Mỗi năm một lần, ngƣời Nhật có thú vui cùng

nhau đi ngắm hoa (Hanami). Họ dành trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc vui

chơi ngắm hoa thoải mái. Ngắm hoa có thể mang lại sự sảng khoái về tinh

thần và tâm lý. Vào dịp hoa nở, nếu một ngƣời nào đó đang gặp chuyện buồn,

gia đình và bạn bè sẽ rủ họ đi chơi ngắm hoa, coi đó là phƣơng cách làm dịu

nỗi đau tinh thần của họ. Dƣới gốc hoa anh đào, họ uống rƣợu, hát hò, nhảy

múa và quên đi những gì buồn đau của riêng mình. Hoa cúc cũng đƣợc ngƣời

Nhật ƣa thích và họ quan niệm rằng nó là biểu tƣợng cho tình cảm thắm thiết,

tri kỷ và tôn trọng.

- Trang trí của ngƣời Nhật chủ yếu là hai màu tƣơng phản đỏ và đen,

biểu hiện tính cách mạnh mẽ của ngƣời Nhật. Khi tặng quà cho ngƣời Nhật

cần chú ý: giấy gói có màu trắng, đỏ thắm cho gặp mặt thông thƣờng, màu

vàng bạc cho đám cƣới, màu đen và xám cho tang lễ. Màu dây buộc, nút dây

buộc cũng phải biết cách: màu dây buộc có thể 3, 5, 7, 9 không chẵn; nút dây

buộc cuối cùng phải giống nhƣ con ngài tằm. Tặng quà đƣợc coi là nét văn

hoá lâu đời của ngƣời Nhật. Không bóc quà tặng trƣớc mặt ngƣời tặng quà

với ngƣời Nhật đã trở thành một nguyên tắc.

- Khi giao tiếp với ngƣời Nhật cần chú ý:

Ngƣời Nhật không thích thổ lộ tâm tình với ngƣời mới gặp, mặc dù con

ngƣời trong khi giao tiếp đều tự bộc lộ mình trƣớc ngƣời đối thoại dƣới hình

thức này hay hình thức khác. Đối với ngƣời Nhật, thứ bậc của hệ thống đề tài

trong giao tiếp nhƣ sau: các vấn đề sinh hoạt công tác, thời cuộc, gia đình, sức

khoẻ. Có thể nói, trong giao tiếp ngƣời Nhật thích trao đổi hơn cả là những

chuyện thị hiếu, truyền hình, công việc và thời cuộc.

+ Trong phần lớn các tình huống, ngƣời Nhật không mở đầu câu chuyện

và không cố gắng duy trì nó. Trong tranh luận, họ không mong muốn giành

ƣu thế hay thuyết phục ngƣời khác. Họ thƣờng đƣa ra những nhận xét ngắn

gọn. Ngƣời Nhật có ý thức trách nhiệm cao về lời nói của mình và tiết kiệm

thời gian.

+ Nói nhanh không phải là đặc điểm tiêu biểu của ngƣời Nhật. Trong

đàm luận, họ có những lúc dừng lại. Ngƣời Nhật ý thức điều đó nhƣ là nhƣợc

điểm của mình.

+ Ngƣời Nhật có thái độ chọn lọc rất cao trong quan hệ với ngƣời đối

thoại. Ngƣời Nhật thƣờng từ chối giao tiếp với những ngƣời ít quen biết.

+ Ngƣời Nhật trọng thái độ thiện chí trong giao tiếp. Họ ít khi phản đối

ngƣời nói chuyện với mình ngay cả khi có quan điểm đối lập.

+ Ngƣời Nhật nhiều khi không muốn thảo luận trực tiếp vào vấn đề đặt

ra mà thích dẫn cuộc thảo luận đi vòng vo xung quanh bản chất vấn đề.

+ Cách diễn đạt của ngƣời Nhật nhiều khi không cụ thể mà ngƣời nƣớc

ngoài cho là mập mờ, ẩn ý trong lời nói.

+ Trong giao tiếp, ngƣời Nhật im lặng thì phải hiểu đó là một dấu hiệu từ

chối lời yêu cầu của đối phƣơng, chứ không phải là đồng ý. Ngƣời Nhật

thƣờng giải thích im lặng không phải là sự trống rỗng trong giao tiếp mà là

tình huống đối thoại cần kiềm chế để không biểu hiện ra bề ngoài những ý

nghĩ và cảm xúc của mình.

Những quy tắc giao tiếp của ngƣời Nhật Bản đã đƣợc hình thành từ lâu

đời và đƣợc mọi ngƣời Nhật Bản tôn trọng, dù hiện nay họ cảm thấy rƣờm rà.

Bên cạnh đó, ngƣời Nhật Bản rất hiếu khách. Đó là một đất nƣớc rất lịch sự

trong giao tiếp. Chẳng có nƣớc nào nhƣ Nhật Bản lại có đến 50 kiểu chào khi

gặp mặt, 40 kiểu chào khi từ biệt, hàng chục lối nói cảm ơn và hơn hai chục

kiểu nói xin lỗi.

1.2.1.3. Tín ngưỡng và tôn giáo

Ở Nhật Bản tự do tôn giáo đƣợc bảo đảm trong Hiến pháp, điều 20 của

Hiến pháp khẳng định rằng: “... không một tổ chức tôn giáo nào lại có thể có

những đặc quyền trong nước hoặc thực hiện một quyền lực chính trị nào.

Không ai có thể bị bắt buộc phải tham gia bất cứ một hoạt động tôn giáo nào,

nghi lễ, nghi thức hoặc tập tục nào. Nhà nước và các tổ chức của mình cũng

không được tuyên truyền hoặc tham gia hoạt động tôn giáo. ” [14,192]

Nhật Bản có hai tôn giáo chính là Thần đạo (Shinto) và Phật giáo. Mặc

dù hiện nay nhiều ngƣời nói rằng họ không có tín ngƣỡng đặc biệt nào nhƣng

hầu hết đều theo những tập quán và nghi lễ của cả Thần đạo và Phật giáo. Đa

số các lễ cƣới đều đƣợc tiến hành theo nghi thức Thần đạo còn các đám tang

thì lại theo phong tục Phật giáo. Thần đạo là tôn giáo bản địa của Nhật Bản,

có nguồn gốc từ linh vật của ngƣời Nhật Bản cổ. Thần đạo phát triển thành

tôn giáo của cộng đồng với những miếu thờ gia thần và các thần hộ mệnh của

địa phƣơng. Ngƣời ta cũng thờ các anh hùng và các vị thủ lĩnh xuất chúng của

cộng đồng qua nhiều thế hệ và thờ cúng hƣơng hồn tổ tiên.

Ở Nhật Bản ngày nay đạo Phật chiếm ƣu thế với khoảng 92 triệu tín đồ.

Đạo Cơ đốc cũng khá thịnh hành với khoảng 1,7 triệu giáo dân. Trong số các

tôn giáo khác có đạo Hồi khoảng 155.000 tín đồ.

Ngoài những chùa của Phật giáo và đền của của Thần đạo, ở Nhật Bản

còn có những nơi thờ cúng những cộng đồng ngƣời theo đạo Tin lành, Thiên

chúa giáo, Chính thống giáo phƣơng Đông, đạo Mormon, đạo Do Thái, đạo

Hindu, đạo Hồi và các tôn giáo khác.

1.2.2. Khẩu vị ăn uống

Trong cách nấu nƣớng truyền thống của Nhật Bản, thức ăn tƣơi có vai

trò rất quan trọng. Nếu bạn đƣợc mời tới nhà ăn một bữa tối điển hình của

Nhật Bản thì bạn sẽ đƣợc mời ăn cơm và có thể thêm món súp nấu bằng bột

đậu tƣơng (miso), món dƣa góp, cùng với cá hoặc thịt. Các loại gia vị thƣờng

dùng gồm tƣơng (shoyu), củ cải ngựa xanh (wasabi) và rong biển sấy khô

(nori). Ngoài gạo là lƣơng thực chính, cá cũng là một nguồn thực phẩm quan

trọng trong bữa ăn của ngƣời Nhật. Vào thế kỷ 16, các thƣơng gia Bồ Đào

Nha mang đến Nhật một món mà ngày nay rất đƣợc ƣa chuộng là hải sản rán

kỹ với rau (Tempura). Shasimi - món cá tƣơi cắt lát, sushi - cơm trộn dấm với

những khoanh cá tƣơi đều là những món ăn Nhật Bản nổi tiếng khắp thế giới.

Thịt vốn không phải là một thực phẩm truyền thống đối với ngƣời Nhật

nhƣng trong thế kỷ vừa qua, ngƣời ta đã phát triển những món ăn mới và

ngon lành có dùng thịt gà, thịt lợn và thịt bò. Thịt gà nƣớng xiên (yakitori) là

một món ăn đƣợc ƣa chuộng cùng với món sukiyaki gồm thịt bò nấu với rau

và đậu phụ (tofu) trong một cái xoong. Ngƣời Nhật hầu nhƣ không có tập

quán kiêng cữ thịt các do quy luật của tôn giáo vì thế ngƣời Nhật không biết

nhiều về những quy luật của các tôn giáo khác. “ Món ăn Nhật Bản không

những khoái cho mắt mà hơn thế nữa, cho cả tâm linh”. [23, 75].

Ngƣời Nhật cũng thích ăn mì, món Oden, bánh Okonomiyaki (gần giống

bánh xèo), món Takoyaki (bánh viên bột và mực ma). Tuy nhiên, Nhật Bản

không phải chỉ có những món ăn truyền thống này. Bạn có thể tìm thấy các

món ăn ở khắp nơi trên thế giới trong các nhà hàng hay gia đình ngƣời Nhật.

Các món ăn quốc tế đƣợc ƣa chuộng ở Nhật là các món ăn của Trung Quốc,

thịt nƣớng Triều Tiên, ca-ri, mỳ ống, bít-tết, bánh mỳ kẹp thịt băm viên và

pizza. Thanh niên Nhật ngày nay đặc biệt thích đồ ăn nhanh. Còn bữa ăn gia

đình hay bữa ăn nhẹ đã có thêm các món hàng ngày nhƣ trứng ốp-lết, mì sợi,

xúc xích nóng, khoai tây rán, sữa chua, sôcôla, kem, bánh ngọt và hàng loạt

đồ ăn có nguồn gốc nƣớc ngoài khác.

Ngoài các món ăn, ngƣời Nhật rất thích uống trà. Trà là thức uống phổ

biến của nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là châu Á. Việc pha trà, thƣởng

thức trà đã đƣợc ngƣời Nhật xây dựng và phát triển thành nghệ thuật đặc sắc.

Trà đạo đƣợc coi là nét đẹp trong truyền thống văn hoá Nhật Bản.

Ngƣời Nhật có hai hình thức uống trà, đó là: uống trà thông thƣờng

(ocha) và uống trà nghệ thuật “Cha-lo”. Trà xanh (ocha) là đồ uống đƣợc ƣa

chuộng nhất ở Nhật Bản bởi ngƣời Nhật quan niệm trà vừa là giải trí vừa là

chữa bệnh và thắt chặt tình đoàn kết. Ngƣời ta uống trà sau bữa ăn hoặc bất

cứ khi nào gặp nhau. Trà khi uống phải nóng bỏng và thƣờng uống vào lúc 10

giờ và 15 giờ trong ngày. Còn nghi lễ “Chado” - nghi lễ uống trà thì ngƣời

tham gia phải có vốn tri thức thơ ca, hội hoạ, văn học, kiến thức rộng, nhã

nhặn. (Người tham gia uống trà phải có những nét tương đồng là đối

tác của nhau). [29,12]

Nhật Bản hiện có khoảng mƣời phái trà đạo khác nhau, trong đó nổi

tiếng nhất là ba phái Urasenke, Musanokoehi và Omotesanke. Ngày nay, trà

đạo trở thành tài sản quốc gia quan trọng của nƣớc Nhật.

Những đồ uống thông thƣờng khác là trà đen (kocha), rƣợu gạo (sake),

rƣợu nấu bằng mạch nha với các loại hạt khác (shochu) hoặc từ các loại quả

nhƣ mận cũng đƣợc ngƣời Nhật ƣa thích.

1.2.3. Hấp dẫn của du lịch đối với ngƣời Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia số một châu Á về thị trƣờng du lịch ra nƣớc ngoài.

Trong những năm gần đây khách du lịch Nhật đƣợc coi là một trong những

thị trƣờng khách quốc tế quan trọng của du lịch Việt Nam. “Vì giá đi du lịch

trong nước trở nên quá đắt, chúng tôi không thể viếng thăm bất cứ nơi nào ở

đất nước chúng tôi. Thật là kỳ lạ là giá du lịch đi Okinawa (hòn đảo phía nam

Nhật Bản) thì đắt hơn giá của chuyến du lịch đảo Guam. Chỉ những người

giàu mới có thể thưởng thức tour du lịch trong nước, những công nhân nghèo

chúng tôi không thể trả mấy trăm đô la một đêm. Với số tiền như vậy, đi du

lịch nước ngoài thì tốt hơn”. [23, 106]

Yêu cầu về các dịch vụ khi đi du lịch của ngƣời Nhật nhƣ sau:

*Vận chuyển

Ngƣời Nhật chủ yếu sử dụng máy bay của các hãng Hàng không Nhật

Bản (JAL), Hãng Hàng không toàn Nhật Bản (ANA), hoặc Hệ thống Hàng

không toàn Nhật Bản (JAS) vì yêu cầu đầu tiên của ngƣời Nhật khi đi du lịch

là độ an toàn cao. Yêu cầu máy bay phải hạng sang, dịch vụ hoàn hảo, chiêu

đãi viên hàng không phải nhiệt tình, chu đáo.

Ngƣời Nhật thích đi tàu hoả nhƣng họ chê tàu hoả Việt Nam ồn, mất vệ

sinh và nhốn nháo nên rất ít đi. Yêu cầu về tàu hoả là phải sạch sẽ, chạy êm

và mất ít thời gian.

Về xe ô tô, cũng phải đảm bảo các tiêu chuẩn tiện nghi, an toàn, vệ sinh.

Ngƣời Nhật thƣờng chọn các loại xe có điều hoà, có micro và nếu có karaoke

thì càng tốt (đây là xu hƣớng mới của ngƣời Nhật giúp họ thoát khỏi vỏ bọc

“ít nói” của mình để cùng vui với những thứ khác).

*Lƣu trú

Khách du lịch Nhật Bản thích ở loại khách sạn có thứ hạng từ 3 sao trở

lên, nằm ở vị trí trung tâm có tiếng tăm. Phòng ở không ở tầng cao quá hoặc

thấp quá, quay mặt ra phố hoặc nơi có cảnh sắc thiên nhiên. Tầng một và hai

tầng ở trên cùng của một loại khách sạn cao tầng không thích hợp với ngƣời

Nhật vì lý do an toàn. Trƣớc khi ra nƣớc ngoài du lịch ngƣời Nhật đƣợc đến

các phòng tƣ vấn về vấn đề an ninh đảm bảo sự an toàn tính mạng và tài sản

của họ. Ngƣời Nhật quen dùng các tiện nghi hiện đại, vệ sinh sạch sẽ.

+ Phòng phải có bồn tắm nƣớc nóng.

+ Phải có cây xanh, hoa tƣơi.

+ Có dép đi trong phòng (geta hoặc sandal).

+ Có bộ kimônô để khách sử dụng.

+ Phòng tắm phải có: máy sấy tóc, dao cạo râu, dầu gội, xà phòng, mỹ

phẩm cùng với khăn tắm các cỡ.

+ Mini - bar luôn chứa đầy thức ăn, đồ uống.

Các dịch vụ nhƣ giặt ủi, đánh xi giầy dép cũng đƣợc cung cấp chu tất

ngay trong khách sạn. Màu sắc trong phòng hợp với ngƣời Nhật là đỏ và đen.

Yêu cầu đối với nhân viên là tận tình, mến khách, chu đáo nhƣng không đƣợc

xen vào chuyện riêng của khách.

Các khách sạn mà khách Nhật đánh giá cao ở Hà Nội là: Sofitel

Metropole Hanoi, Hanoi Deawoo, Nikko, Guoman, Sofitel Plaza .

*Ăn uống

Ngƣời Nhật thích các món ăn chế biến từ gạo (khẩu phần chính) và từ

hải sản, món ăn cũng phải phù hợp với thực phẩm của từng mùa. Món ăn đặc

sản của Nhật là cá sống. Chẳng hạn nhƣ gỏi cá, gỏi tôm uống với rƣợu sakê đƣợc hâm nóng 150C, khi ăn có bát nƣớc chè thả thêm một bông cúc để rửa

tay. Trƣớc khi ăn ngƣời Nhật thƣờng dùng khăn mặt bông cuốn chặt cứng dài

khoảng 15 - 20cm hấp nóng để lau mặt.

Khách Nhật thích thƣởng thức các món ăn dân tộc nhƣ: các món ăn Việt

Nam, Trung Quốc, sẽ rất thú vị nếu đƣợc dùng món ăn Nhật cổ truyền ở các

nhà hàng nƣớc ngoài. Khi đi du lịch, ngƣời Nhật thích ăn đồ chay, đặc sản,

hải sản. Trong bữa ăn, ngƣời Nhật yêu cầu cao cả về thẩm mỹ và chất lƣợng

bữa ăn. Ngƣời Nhật đặc biệt coi trọng cách trang trí một bữa ăn. Thức ăn phải

đƣợc đặt hết sức cẩn thận và rất cần sự hài hoà giữa hình thức và màu sắc, có

thể có ca múa nhạc dân tộc phụ hoạ. Ngƣời Nhật cũng thích các món ăn

nhanh kiểu Mỹ (fastfood), các loại bánh kẹo Mỹ của các hãng Hragen, Das,

Famous Amos. Họ thích loại rƣợu vang vùng California và nƣớc giải khát

Coca - Cola. Ngoài ra các loại rƣợu nhƣ Scotch, Whisky, rƣợu Pháp cũng

đƣợc khách Nhật ƣa chuộng. Họ không thích lắm loại rƣợu Gin, Votlka hay

Rum và họ không thích uống nƣớc có đá.

Các yêu cầu về phục vụ:

+ Khi phục vụ các đoàn khách Nhật, sự phục vụ nhanh là yêu cầu cơ

bản. Ngƣời Nhật không thích mất cả giờ đồng hồ vào việc đặt ăn và thời gian

ăn.

+ Thƣởng tiền không phải là thói quen của khách Nhật, làm nhƣ vậy

ngƣời Nhật cho là cá nhân bị xúc phạm. Ở các quán cà phê, nhà hàng không

nên trong chờ vào việc khách để lại tiền thƣởng. Chỉ ở những khách sạn hay

nhà hàng cực kỳ sang trọng họ mới làm việc này, thƣờng là họ trả luôn vào

hoá đơn và không bao giờ quá 10% chi phí.

+ Chú ý sắp xếp chỗ ngồi theo đúng vị trí xã hội của họ. Ngƣời Nhật có

thói quen từ chối vài lần rồi mới ngồi vào ghế dự tiệc khi đƣợc mời.

+ Sự giao tiếp giữa ngƣời phục vụ và khách Nhật là rất quan trọng, một

nụ cƣời thân mật, sự chu đáo tế nhị có thể đƣợc khắc phục đƣợc rất nhiều về

bất đồng ngôn ngữ.

+ Đồ ăn phải đƣợc đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh.

+ Ngƣời Nhật có thói quen ngồi ăn cùng bàn với ngƣời lạ (thói quen chia

sẻ bàn ăn). Trong nhà hàng ngƣời Nhật thích chia ra các khoang nhỏ tạo sự

ấm áp, gần gũi và giữ đƣợc khoảng cách cần thiết.

+ Để phục vụ khách Nhật đƣợc chu đáo và để làm hài lòng, nhà hàng

nên tìm hiểu sở thích của khách đối với các món ăn, thói quen ăn uống và

phong tục tập quán trong ăn uống.

Một số nhà hàng khách Nhật thƣờng ăn là: Sea food (22A Hai Bà Trƣng), Sakura (15 Tràng Thi), Indochina (16

Nam Ngƣ), Vạn Xuân (15 Hàng Cót), Anh Khoa (322 Bà Triệu), Thiên Huệ

(73 Triệu Việt Vƣơng), Show - nhà hàng Nhật Bản bên chùa (244 Bà Triệu).

Và các nhà hàng có món ăn Nhật Bản, Việt Nam, châu Âu, Trung Quốc v...v.

*Tham quan du lịch

Ngƣời Nhật thƣờng chọn du lịch có nắng, cảnh sắc hấp dẫn, nƣớc biển

trong xanh, cát trắng có thể tắm đƣợc quanh năm, quen với phƣơng tiện sinh

hoạt thuận lợi và hiện đại.

Khách du lịch ở độ tuổi thanh niên thích phiêu lƣu, dân dã, thích các

trang phục cũ của quân đội Mỹ. Khách Nhật Bản ngoài chƣơng trình du lịch

Việt Nam đã có, họ thích mua chƣơng trình câu cá, chƣơng trình săn bắn,

chƣơng trình đi tàu hoả ngắm cảnh Việt Nam theo chiều dài đất nƣớc và các

chuyến du lịch bằng đƣờng biển cũng gây hứng thú cho khách du lịch

Nhật Bản.

*Vui chơi giải trí

Khách Nhật thích đi nhiều, tham quan, chụp ảnh, câu cá và chơi các trò

chơi quý tộc nhƣ golf, tennis. Ngƣời Nhật thích dạo phố bằng xích lô hoặc đi

bộ ngắm phố vào buổi tối, thích xem ca múa nhạc dân tộc, xem múa rối nƣớc.

Khách Nhật cũng chi khá nhiều tiền cho việc mua sắm hàng lƣu niệm vì đây

là phong tục tập quán của họ. Đặc biệt phụ nữ Nhật rất mê mua sắm quần áo,

trang sức khi đi dạo phố. Họ thƣờng để tiền trong ngƣời nên họ thích mua nơi

nào gần toilet để dễ lấy tiền cho kín đáo.

Một số nghiên cứu của Mỹ chỉ ra rằng, những hoạt động đƣợc du khách

Nhật Bản thích tham gia nhất khi đi du lịch nƣớc ngoài (xếp theo thứ tự) là:

1. Ngắm cảnh thành phố

2. Mua sắm

3. Ăn tiệm

4. Tham quan có hƣớng dẫn

5. Thăm các địa danh đẹp

6. Quay phim chụp ảnh

7. Tắm biển

8. Thăm các công viên chủ đề

9. Bội lội

10. Thăm các gallery

Nghiên cứu này cũng cho thấy, khi đi du lịch nƣớc ngoài, du khách Nhật

thƣờng không có lựa chọn trƣớc về đích tới mà thƣờng cân nhắc và quyết

định tới thành phố nào đáp ứng đƣợc tốt nhất những sở thích trên của họ. [6,

88]

*Hƣớng dẫn viên

Nhất thiết phải là hƣớng dẫn viên nói thông thạo tiếng Nhật vì bản thân

ngƣời Nhật ít biết nói tiếng Anh và họ thích đƣợc nghe ngôn ngữ quốc gia

mình hơn. Hƣớng dẫn viên phải đƣợc bố trí đúng theo yêu cầu trong hợp đồng

nhƣ giới tính, độ tuổi, kể cả sự vui tính... ngoài trình độ hiểu biết và truyền

đạt thông tin.

Những yêu cầu khác:

+ Luôn luôn đúng giờ.

+ Luôn làm việc với trƣởng đoàn, phải tuân thủ ý kiến chung

của mọi khách.

+ Khi giao tiếp cần chú ý đến cử chỉ, lời nói.

+Phải giới thiệu đầy đủ khi đi tham quan, không đƣợc bỏ sót điểm tham

quan nào.

+ Cố gắng nhớ tên khách khi ở điểm tham quan, nhà hàng, khách sạn,

trên phƣơng tiện vận chuyển vì khách Nhật nếu có phàn nàn thì cũng ít khi

biểu lộ. Họ chỉ phàn nàn khi kết thúc chƣơng trình du lịch ở các hãng lữ hành

gửi khách mà thôi.

1.3. Điều kiện làm nảy sinh nhu cầu du lịch của ngƣời Nhật Bản

1.3.1. Thời gian rỗi

Đây là yếu tố cơ bản quyết định đến việc đi du lịch của du khách. Ngày

nay, kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của con ngƣời dần dần đƣợc cải

thiện. Xu hƣớng chung trong giai đoạn phát triển hiện đại là giảm bớt thời

gian làm việc và tăng thời gian nhàn rỗi. Để tìm cách gia tăng thời gian rỗi

của du khách tiềm năng, nhiều chuyên gia kinh tế du lịch đã chia thời gian

ngoài giờ làm việc thành các khoảng thời gian có mục đích khác nhau. [40,

100]

Trƣớc tiên đề cập tới thời gian rỗi của khách Nhật Bản tập trung nhiều

nhất vào các kỳ năm mới và tuần lễ vàng thì cho đến những năm gần đây số

lƣợng khách Nhật Bản đã giảm xuống và dần dần hình thành một xu hƣớng đi

du lịch nƣớc ngoài lan ra trong 12 tháng. Do tác động của vé máy bay và giá

tour đã tăng lên trong khi đó ngƣời Nhật lại không thích ồn ào và đông đúc.

Đặc biệt Chính phủ khuyến khích rút ngắn thời gian làm việc trong tuần và sử

dụng hết toàn bộ kỳ nghỉ mà vẫn đƣợc trả lƣơng theo quy định, nên ảnh

hƣởng lớn tới mùa du lịch của khách Nhật Bản khiến cho sự chênh lệch giữa

các thời kỳ chính vụ và ngoài vụ về số lƣợng khách ngày càng giảm đi. Xét về

mùa đi du lịch nƣớc ngoài của ngƣời Nhật Bản thì không cụ thể phân biệt

đƣợc mùa cao điểm nhƣng nói chung, hai giai đoạn đƣợc xem là quan trọng

đối với thị trƣờng du lịch nƣớc ngoài của Nhật Bản là dịp Giáng sinh và năm

mới và dịp tuần lễ vàng. Dịp tuần lễ vàng bắt đầu vào tuần cuối cùng của

tháng 4 đến tuần đầu tiên của tháng 5. Tuy nhiên, những tháng nhƣ tháng 12,

tháng 4 và tháng 5 không phải là tháng bận rộn nhất của du lịch ra nƣớc

ngoài. Mùa du lịch thì luôn luôn vào mùa hè, đặc biệt vào tháng 8, tháng 9

đang trở nên bận rộn hơn so với tháng 7. Những năm đầu thế kỷ có ba tháng

bận rộn nhất theo thứ tự giảm dần là tháng 8, tháng 7 và tháng 9. Khi các

ngày quốc lễ rơi vào thứ hai và thứ sáu, nhiều ngƣời đi nghỉ xa ba ngày hoặc

họ nghỉ thêm vài ngày. Trong năm 2005 có nhiều ngày lễ trùng vào ngày nghỉ

cuối tuần - khoảng 15 dịp trong cả năm và các nhà điều hành tour đang hy

vọng rằng điều này sẽ tạo thêm nhiều ngày nghỉ cuối tuần du lịch quốc tế.

Số những ngƣời nghỉ mùa tăng lên mạnh vào đầu tháng 3 vì đó là một

trong những tháng bận rộn nhất - chủ yếu vì nhiều ngƣời đi nghỉ ngày lễ Phục

sinh hơn.

1.3.2. Khả năng tài chính của du khách Nhật Bản

Nền kinh tế của Nhật Bản phát triển sẽ làm cho ngƣời dân có mức sống

cao, do đó họ có khả năng thanh toán cho các nhu cầu về du lịch trong nƣớc

và nƣớc ngoài. Khi đi du lịch và lƣu trú ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của

mình, khách du lịch là ngƣời chi tiêu các loại dịch vụ, hàng hoá. Để có thể đi

du lịch và tiêu dùng du lịch, họ phải có tiền - đó là một trong những điều kiện

cần thiết để biến nhu cầu đi du lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng

thanh toán, vì khi đi du lịch khách du lịch Nhật Bản phải chi trả rất nhiều loại

dịch vụ và xu hƣớng của họ khi đi du lịch là tiêu nhiều tiền và du khách Nhật

Bản đƣợc coi là một trong những du khách có khả năng chi tiêu cao tại các

điểm du lịch. Chính vì vậy, thu nhập của ngƣời dân là yếu tố quan trọng và là

điều kiện vật chất để họ có thể tham gia du lịch. Thực tế, con ngƣời khi muốn

đi du lịch họ không chỉ cần thời gian mà còn phải có đủ tiền mới có thể thực

hiện đƣợc mong muốn đó. [40, 101]

1.3.3. Trình độ dân trí

Sự phát triển của du lịch còn phụ thuộc vào trình độ văn hoá chung của

dân cƣ ở một đất nƣớc. Nếu trình độ văn hoá của cộng đồng đƣợc nâng cao

thì nhu cầu đi du lịch của con ngƣời ở đó cũng tăng lên. Mặt khác, nếu trình

độ văn hoá của cƣ dân ở một đất nƣớc cao thì khi phát triển du lịch đất nƣớc

đó sẽ phục vụ du khách một cách chu đáo và làm hài lòng họ hơn. Trình độ

dân trí còn đƣợc thể hiện qua cách ứng xử với môi trƣờng xung quanh, bằng

thái độ của du khách với cƣ dân địa phƣơng, của cƣ dân đối với du khách.

Nếu du khách hoặc cƣ dân địa phƣơng có trình độ hiểu biết làm cho giá trị

của các chuyến du lịch đƣợc tăng lên. Ngƣợc lại, chính các hành vi thiếu văn

hoá của họ sẽ là nhân tố có thể làm cản trở sự phát triển du lịch.

[40, 102]

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Nhật Bản hiện là một trong những thị trƣờng trọng điểm đối với tất cả

các nƣớc muốn thu hút khách đến du lịch do dân số đông, số lƣợng khách du

lịch lớn, mức chi tiêu trên đầu khách cao. Hàng năm, Nhật Bản có khoảng 16

triệu khách đi du lịch nƣớc ngoài, trong số đó đến khu vực ASEAN chiếm gần

13%. Tất cả các nƣớc, dù ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ hay châu Phi đều tổ

chức các chƣơng trình xúc tiến du lịch có quy mô lớn tại thị trƣờng Nhật Bản

nhằm thu hút khách đến nƣớc mình.

Việt Nam và Nhật Bản có sự gần gũi về văn hoá, lịch sử và địa lý với

mối quan hệ hợp tác lâu đời. Đó là điều kiện thuận lợi để thu hút khách du

lịch từ Nhật Bản vào Việt Nam. Tuy nhiên, lƣợng khách du lịch từ thị trƣờng

Nhật Bản vào Việt Nam còn hạn chế. Đây không chỉ do tác động của những

nhân tố khách quan mà còn cả về phía các công ty lữ hành. Chính vì vậy cần

phải nghiên cứu về đặc điểm tâm lý cũng nhƣ nhu cầu của thị trƣờng khách

du lịch Nhật Bản, các cơ sở tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch

Nhật Bản đến Việt Nam.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH

NHẬT BẢN ĐẾN VIỆT NAM

2.1. Những xu hƣớng chính tác động tới thị trƣờng khách Nhật

đi du lịch nƣớc ngoài

Theo ông Naoto Katsumata, chuyên gia tƣ vấn WTO kiêm nghiên cứu

viên viện phát triển du lịch quốc tế Nhật Bản (IITDJI) thì xu hƣớng chính tác

động tới thị trƣờng khách Nhật đi du lịch nƣớc ngoài là:

 Du lịch là một phần của đời sống và lối sống Nhật Bản. Từ sau

chiến tranh thế giới thứ hai, ngƣời Nhật đã luôn luôn tin rằng:

(1) Giá đất và giá chứng khoán tiếp tục tăng cao.

(2) Vốn đầu tƣ cho tập đoàn, công ty và chi phí tiêu dùng tiếp

tục tăng.

(3) Nhân viên làm việc cả đời tiếp tục trở thành một thực tế

chung trong các doanh nghiệp Nhật Bản.

- Doanh nghiệp của Nhật hiện nay đã dành ra nhiều thời gian nghỉ, nhiều

kỳ nghỉ hơn cho nhân viên.

- Ngƣời Nhật đã biết cách giảm tốc độ làm việc của họ và bắt đầu tận

hƣởng cuộc sống với gia đình.

Từ những thay đổi trên về thái độ của ngƣời Nhật với cuộc sống, một

thay đổi trong quan niệm về giá trị, ngành công nghiệp du lịch Nhật Bản có

đủ mọi lý do để phát triển trong tƣơng lai. Đi du lịch đang dần dần trở thành

một phần quan trọng trong cuộc sống và lối sống của ngƣời dân Nhật.

 Sự gia tăng khách du lịch nữ, ngƣời nghỉ hƣu và đi với gia đình,

cùng với du lịch nghỉ tuần trăng mật.

- Thị trƣờng du khách nữ.

- Thị trƣờng những du khách đã nghỉ hƣu.

- Thị trƣờng những ngƣời đi du lịch với gia đình.

- Thị trƣờng những ngƣời đi nghỉ tuần trăng mật.

Toàn bộ các phân đoạn trên đều thuộc loại khách đi du lịch độc lập (FIT)

hay thị trƣờng khách du lịch đơn lẻ.

(1) Trong tất cả các du khách nữ, số khách trong độ tuổi 20 - 29 tăng

nhanh hơn cả. Đặc biệt phổ biến là những khách “OL (office lady) - nữ viên

chức”, những quý cô làm việc trong các văn phòng, hay là những nhóm sinh

viên nữ vừa tốt nghiệp trở thành phân đoạn thị trƣờng lớn nhất, dẫn đầu vì

những phụ nữ Nhật còn độc thân đã biết hƣởng thụ tự do và tiền bạc của họ

trƣớc khi lập gia đình. Những đối tƣợng này chiếm tỷ lệ cao trong tổng số

khách nữ ngƣời Nhật Bản du lịch ra nƣớc ngoài.

(2) Thứ hai là đến những ngƣời về hƣu. Theo Viện nghiên cứu

những vấn đề dân số thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi, quá trình già đi của xã hội

Nhật đã đang có nhiều tiến triển với một tốc độ nhanh hơn bất cứ nƣớc nào

trên thế giới. Đến năm 2007, ƣớc tính dân số Nhật sẽ lên tới đỉnh điểm là

128.640.000 ngƣời, cứ 5 ngƣời dân sẽ có một ngƣời từ 65 tuổi trở lên. Thực tế

quan trọng hơn là số ngƣời hƣởng lƣơng hƣu - những ngƣời trên 60 tuổi dự

tính sẽ tăng gấp 3 trong vòng 30 năm tới, từ 12,7 triệu lên đến 30,8 triệu

ngƣời. Những con số này đã đƣa ra gợi ý đối với ngành du lịch là hàng triệu

ngƣời lĩnh lƣơng hƣu sẽ có nhiều thời gian rỗi hơn và nghỉ hƣu một cách

thoải mái. Số ngƣời nghỉ hƣu ngày càng tăng mỗi năm sẽ làm tăng các chuyến

du lịch nƣớc ngoài và biến nó thành một phƣơng thức nghỉ ngơi cần thiết hay

một phần không thể thiếu trong cuộc đời của họ.

(3) Thứ ba, thị trƣờng khách du lịch gia đình. Đã từng mang tiếng là

những ngƣời tham công tiếc việc, nay ngƣời Nhật đã bắt đầu quay lại nơi mà

họ thuộc về đó là gia đình. Hàng triệu ngƣời “làm công ăn lƣơng” đã coi công

việc làm ăn là một thứ quan trọng hàng đầu trong nhiều thập kỷ. Ngày nay, họ

dƣờng nhƣ đã biết cách giảm chậm lại, thƣ giãn và tận hƣởng cuộc sống -

cuộc sống với gia đình mình trong lúc nền kinh tế tăng trƣởng chậm và suy

thoái kéo dài. Khoảng vài năm gần đây số du khách đi du lịch cùng gia đình

mặc dù còn nhỏ bé về số tuyệt đối nhƣng cũng tăng đều đặn.

(4) Thứ tƣ, thị trƣờng khách du lịch đi nghỉ tuần trăng mật. Trong

những năm gần đây, ngƣời Nhật có phong trào đi nghỉ tuần trăng mật ở nƣớc

ngoài. Số lƣợng những ngƣời này chiếm một tỷ lệ cũng không nhỏ trong tổng

số ngƣời Nhật đi du lịch ra nƣớc ngoài. Trung bình chi tiêu cho chuyến đi là

10.000 USD.

Theo kết quả khảo sát về xu hướng du khách Nhật đi du lịch Việt Nam

và các nước Asean của Công ty tiếp thị Nhật Bản (có trụ sở chính tại Nhật)

vừa công bố mới đây, có đến trên 88% du khách Nhật mê món ăn Việt Nam.

Theo kết quả của nghiên cứu này, mua sắm tại Việt Nam cũng được du khách

Nhật khá thích thú, với kết quả 82% du khách khẳng định có đi mua sắm khi

đến Việt Nam. Về mục đích của du khách Nhật đến Việt Nam, có đến 69% cho

biết đến Việt Nam với mục đích nghỉ ngơi và 17,6% với mục đích thương mại

- đầu tư, so với các nước trong khu vực là 66% và 11,7%. Tuy nhiên, về xu

hướng khách du lịch Nhật Bản trở lại chỉ có 3,3% du khách khẳng định trở

lại Việt Nam lần 2 và 5,7% trở lại lần 3, so với các nước trong khu vực là

13,8% và 25,7%.[54]

* Về xu hướng của thị trường khách du lịch Nhật Bản hiện nay

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, chúng ta luôn tƣởng tƣợng hình ảnh

của những ngƣời Nhật đó là những nhân viên làm việc cả đời, chỉ có 10 ngày

nghỉ trong năm và tiêu dùng số tiền kiếm đƣợc bằng việc sử dụng những hàng

hoá, dịch vụ nổi tiếng, hợp mốt và cao giá. Thế nhƣng, từ sau những năm đầu

thập niên 90 của thế kỷ XX, tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế đã

dần dần làm thay đổi hình ảnh đó. Quan niệm tiêu dùng cũng đã thay đổi theo.

Ngƣời Nhật tìm đến nhiều hơn với những hàng hoá, dịch vụ tiện ích và kinh

tế. Kiểu thái độ “tiền không thành vấn đề” dƣờng nhƣ đã biến mất và họ trở

nên tỉnh táo và kén chọn giá trị dịch vụ đúng nhƣ nhu cầu của mình.

Điều này cũng đƣợc thể hiện trong việc lựa chọn các chƣơng trình du

lịch. Trƣớc kia, với 10 ngày nghỉ trong năm, họ luôn phải lên lịch trình rất

chặt chẽ cho những chuyến du lịch của mình. Họ sử dụng những dịch vụ hoàn

hảo và chủ yếu nhằm vào các nƣớc Mỹ, Úc, Anh, Pháp và một số quốc gia

châu Âu khác.

Thế nhƣng hiện nay, từ những nhân viên làm việc quên nghỉ, ngƣời

Nhật đã bắt đầu biết giảm tốc độ làm việc của họ và tận hƣởng cuộc sống. Họ

có nhiều thời gian hơn. Và điểm đến nhiệt đới Đông Nam Á thanh bình, an

toàn, chi phí phải chăng, đã trở nên hấp dẫn hơn trong mắt du khách Nhật.

Điều này là do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, đó là những biến động của tình

hình an ninh, chính trị và kinh tế tại các nƣớc nhƣ Mỹ và một số nƣớc châu

Âu và khu vực Trung Đông... đã khiến cho ngƣời Nhật trở nên thận trọng

hơn. Họ lo sợ nạn khủng bố sẽ không đảm bảo cho sự an toàn của họ. Thứ

hai, ngƣời Nhật có nhiều thời gian hơn và đồng thời suy xét sáng suốt hơn,

tỉnh táo hơn để lựa chọn những chƣơng trình du lịch phù hợp và hấp dẫn. Thứ

ba, đó là vì hiện nay, tại một số nƣớc Đông Nam Á, du khách Nhật cũng có

thể tìm thấy đƣợc những dịch vụ khá hoàn hảo mà không phải bỏ ra quá nhiều

tiền.

*Khách du lịch Nhật Bản tới Việt Nam là những đối tượng nào?

Trong một vài năm gần đây, Việt Nam cũng đã trở thành một trong

những nơi đƣợc ngƣời Nhật chú ý tới trong khu vực. Tuy nhiên, hầu nhƣ

chúng ta mới chỉ chủ yếu thu hút đƣợc một số ít khách thuộc 3 phân đoạn thị

trƣờng đó là: Phân đoạn thị trƣờng du khách nữ; Phân đoạn thị trƣờng du

khách nghỉ hƣu; Phân đoạn thị trƣờng du khách thanh niên – sinh viên.

Hầu nhƣ toàn bộ các tập khách thuộc 3 phân đoạn thị trƣờng này đều là

khách đi lẻ (FIT). Điều này lý giải tại sao ta thƣờng bắt gặp trên đƣờng 2 cô

gái Nhật, hoặc 1 nhóm ngƣời Nhật cao tuổi đi với nhau. Rất ít khi chúng ta

thấy họ đi theo theo một đoàn đông nhƣ kiểu khách du lịch Trung Quốc, hoặc

khách du lịch Pháp.

Phân đoạn thị trƣờng khách nữ mà hầu hết là Office Lady (Nữ viên

chức) ngƣời Nhật đang ngày một mở rộng. Phụ nữ Nhật hiện nay lập gia đình

muộn hơn. Họ tự chủ về kinh tế và biết hƣởng thụ tự do, tiền bạc mà họ kiếm

ra trƣớc khi lập gia đình. Xu hƣớng của họ là tới thăm các nƣớc Đông Nam Á

và Trung Hoa. Những du khách thuộc đối tƣợng này thƣờng đi theo một

nhóm nhỏ (không quá 10 ngƣời) và mua sắm rất nhiều đồ thủ công mỹ nghệ.

Họ thích hƣởng thụ những dịch vụ về lƣu trú và ăn uống có chất lƣợng cao.

Phân đoạn thị trƣờng du khách Nhật thứ hai thƣờng lựa chọn đến Việt

Nam là các vị đã nghỉ hƣu. Theo dự báo của chính phủ, xã hội Nhật đang

ngày càng già đi. Ƣớc tính tới năm 2007, dân số Nhật sẽ lên tới 128.640.000

ngƣời và cứ 5 ngƣời dân thì có sẽ có 1 ngƣời trên 65 tuổi. Vậy là hàng triệu

ngƣời lĩnh lƣơng hƣu, có nhiều thời gian rỗi sẽ đi du lịch nƣớc ngoài. Thiết

nghĩ, các công ty du lữ hành của chúng ta nên chú y hơn tới việc đáp ứng nhu

cầu và sở thích của đối tƣợng khách nghỉ hƣu này để có thể khai thác đƣợc tốt

nhất.

Phân đoạn thị trƣờng thứ ba là sinh viên và thanh niên Nhật. Đối tƣợng

này thƣờng thích đi theo kiểu du lịch du lịch ba lô và họ rất thích tìm hiểu về

lối sống và văn hoá của địa phƣơng thông qua việc tham gia vào các sinh hoạt

cộng đồng, hoạt động của các tổ chức từ thiện... Họ thích tiếp xúc trực tiếp

với ngƣời dân, ở ngay trong những ngôi nhà của cƣ dân địa phƣơng, cùng ăn

những món ăn gia đình hơn là ở những khách sạn sang trọng và ăn tại nhà

hàng dành cho khách du lịch.

Ngoài ra, ở Việt Nam còn một số lƣợng khách nhỏ ngƣời Nhật đi du

lịch theo kiểu gia đình, và các doanh nhân tìm hiểu để hợp tác về kinh tế...

nhƣng thị phần này chƣa nhiều và chúng ta cũng chƣa đủ điều kiện về dịch vụ

hoàn hảo để đáp ứng cho những nhu cầu rất cao của các đối tƣợng khách là

doanh nhân và khách gia đình này.

Vậy đặc tính của các đối tƣợng khách thuộc 3 phân đoạn thị

trƣờng này là gì?

Thứ nhất, về tập quán và thói quen tiêu dùng, những ngƣời phụ nữ Nhật

vốn nổi tiếng là kỹ tính. Thực chất họ đã quen với những dịch vụ và tiện nghi

có chất lƣợng cao. Cụ thể họ đặt ra những tiêu chuẩn cho dịch vụ khi đi du

lịch phải gồm 4 chữ C và 1 chữ S:

- Comfort (tiện nghi)

- Convenience (thuận tiện)

- Cleanliness (sạch sẽ)

- Courtesy (lịch sự)

- Safety (an toàn)

Hầu hết các khách sạn ở Nhật Bản đều phải đáp ứng đƣợc những tiêu

chuẩn này. Trong một quảng cáo trên mạng Internet của khách sạn Ryokan –

Tokyo, ngƣời ta mô tả cách đón tiếp khách nhƣ sau: khi bạn bƣớc tới lối vào

của Ryokan, một nhân viên Ryokan sẽ cúi gập ngƣời chào đón bạn. Anh ta sẽ

xách túi cho bạn và chỉ cho bạn đến phòng của mình. Nƣớc chè đƣợc sắp sẵn

và một nữ phục vụ khác sẽ mang đến cho bạn một Yakata (đồ mặc trƣớc và

sau khi tắm kiểu Nhật) vừa vóc dáng của bạn. Trong phòng tắm có rất nhiều

kích cỡ khăn tắm, chủng loại mỹ phẩm, dầu tắm, dầu gội để bạn lựa chọn. Có

đủ cả máy sấy tóc, dao cạo râu, bàn chải. Điều này dƣờng nhƣ rất ít khi thấy

trong các phòng tắm của các khách sạn ở Việt Nam. Sau đó, khi rời khỏi

phòng tắm, bạn sẽ thấy một bồ đồ sạch sẽ và chiếc giƣờng đã sẵn sàng chờ

bạn ngả lƣng. Ngƣời Nhật vốn đã có thói quen không phải mang gì theo khi ở

các khách sạn kiểu Nhật Bản. Và họ cũng rất mong muốn kiểu phục vụ nhƣ

vậy ở các nƣớc khác. Nhƣng hiện nay ở Việt Nam thì khó tìm thấy kiểu khách

sạn hoàn hảo nhƣ vậy. Đây là một hạn chế của chúng ta mặc dù những tiện

nghi và kiểu phục vụ nhƣ vậy hoàn toàn có thể làm đƣợc.

Đặc tính thứ hai, ngƣời Nhật Bản trong giao tiếp từ trang phục, hành vi

đều nhã nhặn, lịch sự, khiêm tốn, tự trọng dân tộc và vị tha nhƣng họ cũng rất

nguyên tắc, cứng nhắc, khó thƣơng lƣợng, khó thay đổi. Họ thích kỷ luật và

tuân thủ thời gian, không muốn chờ đợi lâu. Họ đặc biệt thích sự đúng giờ,

nhất là đối với những ngƣời làm việc tại các công sở. Vì vậy, trong các

chƣơng trình du lịch, những ngƣời Nhật sẽ đòi hỏi phải thật chính xác về thời

gian. Mọi yếu tố về thời gian đƣa đón, phƣơng tiện vận chuyển, ngƣời điều

khiển, chƣơng trình, nội dung và con ngƣời cụ thể khi làm việc đều phải đƣợc

thể hiện ra trên giấy tờ, văn bản. Họ ít khi chấp nhận sự thiếu chính xác do

chủ quan mang lại. Điều này cũng lý giải tại sao khi vào các nhà hàng, khách

du lịch rất thích đƣợc phục vụ nhanh chóng. Nếu bữa ăn đã đƣợc chuẩn bị chu

đáo thì họ sẽ hoàn toàn yên tâm. Đặc biệt, với các quý cô, một nam nhân viên

phục vụ ân cần, nhanh nhẹn và mến khách là hình ảnh đem lại ấn tƣợng rất tốt

đối với họ.

Một đặc tính nữa của những du khách Nhật Bản, đó là họ rất tò mò, rất

thích tìm hiểu (nhất là những du khách thuộc đối tƣợng nữ viên chức và sinh

viên, thanh niên). Thay vì ngồi trong phòng khách sạn, họ luôn ra ngoài để

xem, ăn uống, thử mua bán, giải trí. Họ sẽ hỏi hƣớng dẫn viên rất nhiều về

những mặt hàng. Thƣờng họ mua rất nhiều đồ mỹ nghệ và quần áo bằng chất

liệu vải lụa tơ tằm Việt Nam để làm quà tặng cho những ngƣời thân khi về

nƣớc. Họ sẽ rất thích thú nếu bạn chỉ cho họ đƣợc địa điểm để xem rối nƣớc,

ăn đặc sản, mua sắm đồ thủ công mỹ nghệ mà giá cả thấp hơn so với những

mức giá đƣợc ghi trong sách hƣớng dẫn du lịch. Và đặc biệt hơn cả là những

vị khách ngƣời Nhật sẽ rất hài lòng nếu nhƣ họ nhận đƣợc một món quà lƣu

niệm của đơn vị kinh doanh du lịch gửi tặng.

Về ngôn ngữ, ngƣời Nhật thích những hƣớng dẫn viên nói tiếng Nhật.

Đa số ngƣời dân Nhật đều học tiếng Anh (nếu là trung học thì 6 năm còn đại

học thì học 10 năm), nhƣng chủ yếu họ chú trọng vào 2 kỹ năng đọc và viết.

Vì vậy, hƣớng dẫn viên tiếng Anh sẽ không đƣợc khách Nhật thích bằng

hƣớng dẫn viên nói bằng chính ngôn ngữ của họ. Một điều đặc biệt cần phải

lƣu ý khi giao tiếp với ngƣời Nhật là họ rất ít khi nói đúng suy nghĩ của mình.

Họ thƣờng không khi nào trả lời không, hay nói ngƣợc lại với ý thích của

mình. Ngƣời Nhật họ rất giỏi trong việc che giấu cảm xúc. Vì vậy mà chúng

ta rất khó để có thể biết khách có thực sự hài lòng với chƣơng trình du lịch

hay không. Thƣờng thì họ sẽ không phàn nàn tới hãng hoặc công ty lữ hành

gửi khách khi họ đã về nƣớc.

Về tôn giáo, hầu hết những du khách Nhật đƣợc hỏi đều trả lời rằng họ

theo đạo Phật. Họ thích tới tham quan các công trình văn hoá nghệ thuật, di

tích lịch sử mang tính tôn giáo và biểu hiện đƣợc đặc điểm kiến trúc, tính dân

tộc của nơi họ đến tham quan. Đặc biệt, ngƣời Nhật rất kỵ số 4. Trong tiếng

Nhật “shi” là số 4 và cũng có nghĩa là cái chết. Họ thích những chữ số lẻ. Vì

vậy, bạn sẽ không đƣợc đánh giá cao nếu nhƣ bạn xếp cho họ những phòng

khách sạn mang số 4. Những ngƣời khó tính, họ còn không chấp nhận sự sắp

xếp này. Và ngay lập tức họ sẽ cho rằng, bạn chƣa thật hiểu về họ.

Ngƣời Nhật, đặc biệt là du khách nữ, rất thích áo dài, đồ gốm và món

ăn Việt Nam. Vì vậy, nếu đƣợc tham gia vào một công đoạn sản xuất thủ

công nhƣ vẽ lên gốm, hoặc làm món ăn kiểu Việt Nam thì họ sẽ rất hài lòng.

Thế nhƣng, trong một chuyến đi dài, họ cũng thích đƣợc ít nhất một lần ăn

những món ăn Nhật Bản tại địa phƣơng họ tới tham quan du lịch. Nếu nhƣ

trên bàn ăn của Việt Nam mà lại có bình nƣớc tƣơng kiểu Nhật thì nghĩa là

biểu hiện sự hiếu khách của chúng ta và điều này sẽ tạo đƣợc ấn tƣợng rất tốt

đẹp cho những vị khách Nhật Bản.

Trong một cuộc trò chuyện với lƣu học sinh Việt Nam tại một trƣờng

Đại học ở Nhật, một vị giáo sƣ đã nói: “Việt Nam – hơn cả những điều tƣởng

tƣợng. Mọi cái đều vƣợt ra ngoài những gì tôi đã nghĩ”. Câu nói này đã phản

ánh một thực tế về tiềm năng của Việt Nam đối với khách du lịch Nhật Bản.

Thế nhƣng, để có thể thu hút đƣợc không chỉ thị trƣờng khách đi lẻ mà còn

nhiều hơn nữ khách du lịch Nhật đi theo đoàn, việc đầu tiên là phải hiểu đƣợc

ngƣời Nhật, hiểu họ mong muốn gì khi tới Việt Nam. Có hiểu đƣợc họ, chúng

ta mới có thể mang đến cho họ những sản phẩm lữ hành tốt nhất, độc đáo và

hấp dẫn. Đặc biệt, đối với những nhân viên phục vụ trực tiếp trong ngành, mà

quan trọng là đội ngũ các hƣớng dẫn viên du lịch, thì việc giao tiếp và hiểu về

văn hoá Nhật Bản, hiểu đƣợc đặc tính và xu hƣớng của ngƣời Nhật khi đi du

lịch là điều cần thiết nhất. [34, 58 - 61]

2.2. Thực trạng khai thác thị trƣờng khách Nhật Bản tại Việt

Nam

Nhật Bản là một trong những thị trƣờng du lịch trọng điểm của du lịch

Hà Nội nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung. Lƣợng khách du lịch từ

Nhật Bản vào Hà Nội luôn chiếm vị trí cao (thứ 2/ hoặc 3) trong 10 thị trƣờng

khách du lịch quốc tế hàng đầu và có chiều hƣớng tăng mạnh trong giai đoạn

1999 – 2002. Do ảnh hƣởng của dịch bệnh SARS và cúm gia cầm nên trong

năm 2003 lƣợng khách du lịch Nhật Bản đến Hà Nội giảm nhiều. Từ năm

2004 đến nay lƣợng khách Nhật Bản đã có dấu hiệu tăng trƣởng tốt. Năm

2004, lƣợng khách Nhật Bản vào Hà Nội là 81.712 lƣợt khách chiếm 8,6%

tổng lƣợng khách quốc tế đến Hà Nội và chiếm 28,5% khách du lịch Nhật

Bản đến Hà Nội trong năm 2005 ƣớc tính đạt 100.119 lƣợt khách chiếm 9%

tổng lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam, tăng 23% so với năm 2004 và tăng

7% so với năm 2002 (năm tăng trƣởng cao nhất của giai đoạn trƣớc khi xảy ra

dịch bệnh SARS và cúm gia cầm).

Trung bình một du khách Nhật chi tiêu trong một ngày lớn hơn nhiều so

với khách ở nƣớc khác. Ngƣời Nhật đặc biệt chi nhiều cho các dịch vụ lƣu trú

(47%), số tiền chi cho dịch vụ giải trí còn quá ít (12%). Đây là điểm cần chú ý

khi xây dựng chƣơng trình cho khách Nhật bởi vì thực sự hiện nay các địa

điểm giải trí của ta còn quá nghèo nàn, khó thu hút đƣợc họ.

Khách du lịch đến Việt Nam chủ yếu là khách đi du lịch thuần tuý và du

lịch kết hợp với mục đích kinh doanh, phần lớn mua tour trọn gói qua các

công ty gửi khách. Khách Nhật tới Việt Nam qua đƣờng hàng không là chính

chiếm 90%, còn lại là đƣờng biển và đƣờng bộ.

*Một số nguyên nhân hạn chế khách Nhật Bản đến Việt Nam

- Thứ nhất, tài nguyên du lịch có tiềm năng phong phú, hấp dẫn nhƣng

việc khai thác để tạo nên sức hút cho sản phẩm du lịch còn gặp nhiều khó

khăn và hạn chế. Số lƣợng, chủng loại sản phẩm du lịch chƣa đa dạng, chƣa

thể hiện rõ nét bản sắc văn hoá. Chất lƣợng dịch vụ chƣa đáp ứng yêu cầu của

khách, chƣa khai thác đƣợc cảnh quan môi trƣờng, các giá trị văn hoá lịch sử

độc đáo của dân tộc, bỏ lỡ nhiều cơ hội thu hút nguồn du khách từ bên ngoài

nhất là các thị trƣờng Mỹ, Đức, Nhật… Nếu không nhanh chóng khai thác

tiềm năng, chậm chạp trong đa dạng hoá sản phẩm, chất lƣợng phục vụ du

lịch yếu kém thì lƣợng du khách Nhật Bản trong những năm tiếp theo sẽ

không tăng hoặc tăng chậm và quan trọng hơn là thời gian lƣu trú của khách

sẽ ngắn ngày nên mức chi tiêu của họ thấp.

- Thứ hai, chƣơng trình du lịch còn thiếu sự phong phú, quá đơn điệu,

thiếu tính độc đáo và hầu nhƣ giống nhau với mọi loại khách, ở mọi thời

điểm. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp lữ hành chỉ tìm kiếm các di tích,

danh lam thắng cảnh có sẵn rồi xâu chuỗi chúng lại, kết hợp với các cơ sở

dịch vụ du lịch là thành một tuyến du lịch cho khách du lịch Nhật Bản còn các

loại hình du lịch nhƣ các tour du lịch khám phá mạo hiểm (lặn biển, chèo

thuyền, leo núi) còn rất ít chƣa thu hút đƣợc một số lƣợng khách lớn.

- Thứ ba, giá các chƣơng trình du lịch của Việt Nam thƣờng cao hơn so

với các nƣớc trong khu vực vì giá vé máy bay và thuế VAT cao làm “đội giá”

toàn chƣơng trình. Điều này làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các tuyến

du lịch tại Việt Nam.

- Thứ tƣ, quảng cáo tiếp thị của các doanh nghiệp lữ hành chƣa tạo đƣợc

sức hút đối với du khách Nhật Bản. Mặc dù vài năm trở lại đây đã xuất hiện

nhiều ấn phẩm nhƣ Guidebook, CD - ROM, băng video, tập gấp, tờ rơi....giới

thiệu về Việt Nam song hầu nhƣ các ấn phẩm đó chƣa đƣợc tuyên truyền rộng

rãi, những hình ảnh về Việt Nam qua các phƣơng tiện truyền thông đến với

ngƣời nƣớc ngoài một là quá ít, hai là bị lệch lạc. Các website về du lịch Việt

Nam, các CD - ROM ấn phẩm bằng tiếng Nhật chƣa có để tuyên truyền quảng

bá ở thị trƣờng này. Các băng video, tài liệu phần lớn là những băng quá cũ

hoặc không đƣợc kiểm soát chặt chẽ. Các doanh nghiệp lữ hành cũng tự xuất

bản các ấn phẩm của riêng mình, tự quảng cáo về mình qua sách, báo, tivi...

nhƣng cơ hội tiếp xúc với các hãng lữ hành quốc tế và khách hàng một cách

trực tiếp để quảng cáo thì hầu nhƣ không có.

- Thứ năm, cơ sở vật chất có chất lƣợng cao phục vụ du lịch chƣa đáp

ứng đƣợc yêu cầu của khách du lịch Nhật Bản: thiếu khách sạn cao cấp từ 3

sao trở lên, không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng, gây tình trạng căng

thẳng thiếu phòng thƣờng xuyên và thực tế các hãng lữ hành đã phải từ chối

nhiều đoàn khách quốc tế muốn đến thăm Việt Nam. Thiếu phƣơng tiện vận

chuyển hiện đại cho khách du lịch. Hệ thống taxi tuy đủ về số lƣợng nhƣng

chất lƣợng phục vụ chƣa thực sự tốt. Dịch vụ vui chơi giải trí còn thiếu và

kém chất lƣợng, thiếu khu vui chơi giải trí, khu du lịch, trung tâm triển lãm,

trung tâm thƣơng mại mang tầm cỡ quốc gia và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Cơ sở

hạ tầng và giao thông còn hạn chế nên việc vận chuyển du khách còn chiếm

nhiều thời gian, ảnh hƣởng đến thời gian nghỉ, tham quan… không phù hợp

với tâm lý yêu cầu của du khách.

- Thứ sáu, mối quan hệ quốc tế của các hãng lữ hành chƣa đƣợc mở

rộng. Hiện nay, du lịch Việt Nam đã ký hợp tác du lịch song phƣơng với 13

nƣớc. Đã ký, tham gia hợp tác đa phƣơng trong khuôn khổ ASEAN, tiểu vùng

Mê Kông mở rộng, EU, ba nƣớc Việt - Lào - Thái Lan.

- Thứ bảy, khách Nhật ít quay lại Việt Nam, đặc biệt là ít đối với lần thứ

ba. Nguyên nhân là do họ thiếu thông tin, không hài lòng lắm khi đi mua sắm

(sản phẩm còn nghèo nàn) và không thấy thông tin về hệ thống chăm sóc sức

khoẻ. Ngoài ra lý do còn là cơ sở hạ tầng của Việt Nam yếu kém và du lịch

Việt Nam chƣa thực sự hƣớng tới khách du lịch giàu có.

Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam quan hệ với trên 1000 công ty của

trên 50 nƣớc nhƣng hiện tại mới chỉ có 15 doanh nghiệp lữ hành gia nhập

Hiệp hội các hãng lữ hành Nhật Bản (JATA) nên khả năng thâm nhập thị

trƣờng Nhật Bản còn rất hạn chế.

15 doanh nghiệp lữ hành Việt Nam là thành viên của JATA: Công ty du

lịch thành phố Hồ Chí Minh, Công ty du lịch Hƣơng Giang, OSC Việt Nam,

Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội, Công ty du lịch Việt Nam tại thành phố

Hồ Chí Minh, Công ty du lịch Việt Nam tại Đà Nẵng, Công ty du lịch và dịch

vụ Hà Nội, Công ty điều hành hƣớng dẫn du lịch Vinatour, Công ty du lịch

dịch vụ Bến Thành, Công ty du lịch dịch vụ Hạ Long, Công ty du lịch Khánh

Hoà, Hàng không Việt Nam, Công ty du lịch Đà Lạt - Lâm Đồng, Công ty du

lịch Hà Nội.

Những công ty lữ hành Việt Nam tham gia khai thác thị trƣờng khách

Nhật đó là: Công ty du lịch Hƣơng Giang, Saigontourist, Vietravel, Fiditour,

Công ty du lịch – dịch vụ OSC – SMI.

Một số hãng lữ hành có quan hệ gửi khách với các công ty lữ hành Việt

Nam là: Japan Travel Bureau, Nippon Travel Agency, Kinki Nippon Tourist,

Jalpak, Jetour Corp, H.I.S, Nippon Express và một số hãng lữ hành khác.

2.3. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam

2.3.1. Số lƣợng khách

Trong vài năm trở lại đây, ngành du lịch Việt Nam đón nhận một xu

hƣớng "bùng nổ" dòng khách Nhật đi du lịch Việt Nam. Nếu nhƣ cách đây

hơn 10 năm, lƣợng khách Nhật đến Việt Nam chỉ dừng lại con số ít ỏi hơn

1.000 khách, thì đến năm 2002 đã tăng lên đến gần 300.000 khách. Hàng

năm, số ngƣời Nhật đi du lịch các nƣớc khoảng 18 triệu ngƣời, nhƣng chỉ 1%

trong số này đến Việt Nam (cứ 3,5 triệu/18 triệu lƣợt ngƣời đến ASEAN,

trong đó tới Thái Lan 1,3 triệu, tới Singapore 0,9 triệu, tới

Indonesia là 0,6 triệu). [56]

Những năm gần đây, lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam có chiều

hƣớng tăng lên, đặc biệt là sau khi đƣờng bay trực tiếp từ thành phố Osaka

đến thành phố Hồ Chí Minh đƣợc mở. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch

Việt Nam, lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam năm 2000 là 142.900 ngƣời,

năm 2001 tăng lên 205.100 ngƣời, năm 2002 tăng lên 279.800 ngƣời, sau đó

lƣợng khách chững lại và chỉ đạt hơn 209.600 ngƣời vào năm 2003 và hơn

267.210 vào năm 2004. Và đến năm 2005, lƣợng khách du lịch Nhật Bản đến

Việt Nam đạt 320.605 ngƣời. Trong khi đó, chỉ xét riêng năm 1996, lƣợng

khách Nhật Bản đến các nƣớc ASEAN đạt 3,4 triệu ngƣời, trong đó lƣợng

khách đến Singapore là 1.171.899 ngƣời, đến Thái Lan là 940.196 ngƣời, đến

Indonesia là 638.287 ngƣời và đến Malaysia là 353.204 ngƣời. Còn lƣợng

khách Nhật đến Việt Nam thì chỉ đạt hơn 118.000 ngƣời. Đến năm 2005

khách Nhật Bản đến Việt Nam đạt 320.605 khách, trung bình tăng 20%/năm

so với năm 2004. Thị phần khách Nhật Bản chiếm 6 - 7% tổng số khách du

lịch quốc tế đến Việt Nam. “So với số du khách Nhật đến Việt Nam, số

ngƣời Nhật đi thăm các nƣớc châu Âu, hoặc chỉ đến Bangkok thôi cũng lớn

hơn nhiều”. [23, 102].

Bảng 1. Số lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam (2002 - 2006) [58, 59, 60,

61].

Đơn vị : lƣợt khách

Năm 2002 2003 2004 2005 10 tháng

năm 2006

211.100 208.100 256.906 286.324 229.871 Đài Loan

279.800 209.600 267.210 320.605 311.795 Nhật Bản

111.500 86.800 104.025 126.402 106.551 Pháp

259.900 218.800 272.473 333.566 322.329 Mỹ

69.700 63.300 71.016 80.884 67.831 Anh

97.102 Thái Lan 41.000 40.100 53.528 84.100

Trung Quốc 723.400 693.000 778.431 752.576 456.247

Các quốc tịch khác 411.060 546.891 668.760 834.185 231.976

2.3.2. Cơ cấu khách

Khách du lịch Nhật Bản là một thị trƣờng khá mới mẻ ở Việt Nam cũng

nhƣ ở Hà Nội. Vì vậy ngoài số liệu của Tổng cục Du lịch Việt Nam tác giả

khoá luận còn sử dụng một số kết quả thu đƣợc từ việc tiến hành điều tra sơ

bộ với 42 khách trong thời gian một tháng, đặc biệt lấy dẫn chứng là điều tra

khách du lịch Nhật Bản trong phạm vi Hà Nội. Kết quả điều tra không thể nói

hết đƣợc các đặc điểm khách Nhật Bản vào Hà Nội nhƣng đó cũng là cơ sở

cần thiết để bổ sung một số thông tin trong quá trình nghiên cứu.

*Theo mục đích chuyến đi

Bảng 2. Mục đích đi du lịch của ngƣời Nhật Bản

Mục đích Số phiếu %

Tham quan du lịch 18 42.9

Kinh doanh thƣơng mại 7 16.7

Thăm thân 0 0

Mục đích khác 17 40.4

Mục đích đi du lịch của ngƣời Nhật đƣợc xếp theo thứ tự ƣu tiên: du lịch

thuần tuý, du lịch kết hợp kinh doanh, thăm thân, du lịch kết hợp tìm hiểu thị

trƣờng, trong đó mục đích đi du lịch thuần tuý nghỉ ngơi, tham quan chiếm tỷ

lệ cao. Ngoài ra, mục đích du lịch gắn với việc đi dự thảo, hội nghị, hội thảo

và tham gia các khoá học ở nƣớc ngoài tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhƣng đang tăng

dần trong những năm gần đây. Ngƣời Nhật đi du lịch ở các nƣớc châu Á và

châu Âu thuần tuý nghỉ ngơi, giải trí cao hơn ở Mỹ. Châu Á điển hình là

Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á đƣợc coi là thị trƣờng đầu tƣ hấp dẫn

nên dẫn thu hút đƣợc khá nhiều khách Nhật đi du lịch kết hợp với mục đích

kinh doanh. Trong khi đó, mục đích du lịch kết hợp tham dự hội nghị, hội

thảo và học tập lại chuyển hƣớng sang châu Âu và Mỹ, nơi có hệ thống giáo

dục đào tạo vững chắc, trung tâm của các cuộc hội thảo, hội nghị kinh tế -

chính trị - xã hội tầm cỡ thế giới.

*Theo giới tính

Đến Hà Nội, khách là nữ giới nhiều hơn là nam giới, kết quả điều tra cho

thấy: Nam giới chiếm 19%, nữ giới là 81%. Cũng theo số liệu của công ty du

lịch Việt Nam - Hà Nội thì số lƣợng khách Nhật chiếm 65,7% là nam giới,

còn lại là 34,3% là nữ giới. Tỷ lệ này chƣa phản ánh đầy đủ xu hƣớng chung

của giới nữ đang gia tăng việc đi du lịch nƣớc ngoài.

*Theo số lần đến

Bảng 3. Số lần đến Hà Nội của khách Nhật Bản

Số lần đến (%)

Lần thứ nhất 64.3

Lần thứ hai 23.8

Lần thứ ba 11.9

Lần thứ tƣ 0

Theo kết quả điều tra cho thấy, khách Nhật Bản đến Hà Nội lần đầu và

lần thứ hai, thứ ba chênh lệch rất nhiều. Theo sự đối chiếu giữa các phiếu điều

tra thì khách đến lần thứ hai, thứ ba chủ yếu là đối tƣợng khách có mục đích

kinh doanh, dự hội nghị, hội thảo. Còn khách Nhật đến Hà Nội lần đầu

thƣờng là khách du lịch thuần tuý.

*Theo độ tuổi

Theo số liệu điều tra, trong tổng số khách nữ ra nƣớc ngoài của Nhật

Bản thì độ tuổi 20 - 29 chiếm tỷ lệ cao.

Bảng 4. Phân loại khách đến Hà Nội theo độ tuổi

Nhóm tuổi (%)

Dƣới 17 0

Từ 18 - 25 59.5

Từ 26 - 35 26.2

Từ 36 - 45 9.5

Từ 46 - 55 2.4

Trên 60 2.4

Qua bảng trên, khách đến Hà Nội chủ yếu là từ độ tuổi 18 - 25. Đây là

khách thuộc nhóm sinh viên. Còn số khách từ 55 - 60 tuổi trở lên còn quá ít.

2.3.3. Chi tiêu của khách

Trong các chuyến du lịch, do có thu nhập cao nên ngƣời Nhật thƣờng có

xu hƣớng sử dụng dịch vụ và mua những sản phẩm có chất lƣợng cao. Khách

du lịch Nhật đƣợc đánh giá là đối tƣợng khách có chi tiêu cao. Bình quân mỗi

khách nƣớc ngoài vào VN tiêu khoảng 400 – 450 USD, nhƣng bình quân một

khách Nhật tại Việt Nam chi khoảng 2.000 – 3.000 USD/chuyến. Nhu cầu

mua sắm của du khách Nhật Bản cao vì khả năng chi tiêu của du khách Nhật

Bản cao. Hiện nay, họ là một thị trƣờng tiêu thụ hàng hoá lớn của công

nghiệp dệt may và hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Nắm bắt cơ hội này, tại

nhiều điểm du lịch nhất là ở TP. Hồ Chí Minh) nhiều nhà kinh doanh đã mở

những cửa hàng chuyên doanh phục vụ riêng cho khách Nhật. Những mặt

hàng đƣợc tiêu thụ mạnh là đồ may mặc sẵn, đồ trang sức thủ công nhƣ túi kết

cƣờm, dây đeo tay đeo cổ tết bằng các loại sợi màu, giày dép thời trang lạ

mắt.

2.3.4. Thời vụ du lịch

Ngƣời Nhật đi du lịch nhiều nhất vào bốn thời điểm: Giáng sinh, năm

mới (25/12 đến 7/1); kỳ nghỉ xuân của sinh viên Nhật (cuối tháng 3 đầu tháng

4); tuần lễ vàng (cuối tháng 4 đầu tháng 5); thời gian học sinh Nhật nghỉ hè

(cuối tháng 7 đến cuối tháng 8). Họ thƣờng đăng ký với các đơn vị lữ hành

thời gian khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Mùa đi du lịch cao điểm nhất là mùa

hè và Tết.

Theo điều tra của JNTO - Tổ chức du lịch quốc gia Nhật Bản, năm 2005

những tháng đỉnh điểm đi du lịch nƣớc ngoài của ngƣời dân Nhật là từ tháng

4 đến tháng 8 với số khách trung bình 1,52 triệu. Ngoài ra, dịp năm mới 2005

cũng thu hút 12,1% ngƣời Nhật ra nƣớc ngoài. [49, 35].

2.3.5. Độ dài trung bình của chuyến du lịch

Ngƣời Nhật không đi du lịch trong thời gian dài, phần lớn ngày nghỉ của

họ ngắn hơn ở những nƣớc phƣơng Tây. Hơn nữa, nhiều ngƣời Nhật không

nghỉ hết ngày cho phép vì ở một số công ty nhƣ thế bị xem là thiếu tinh thần

trách nhiệm. Khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam chỉ thích đi du lịch năm

ngày bốn đêm hoặc bốn ngày ba đêm Tuy nhiên suy nghĩ này đang dần dần

thay đổi. Vì vậy thời gian trung bình của mỗi chuyến đi nghỉ là 8 ngày, tuỳ

từng điểm đến mà độ dài tour có thể kéo dài hoặc thu hẹp lại. Điều này hoàn

toàn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của các điểm du lịch và trình độ hiểu biết của

ngƣời Nhật đối với địa điểm đó.

2.3.6. Quyết định đi du lịch

Phần lớn ngƣời Nhật cho rằng quyết định đi du lịch còn phụ thuộc vào

nhiều điều kiện. Các công ty lữ hành quan tâm trƣớc hết đến đối tƣợng: chắc

chắn đi du lịch và đã có kế hoạch; chắc chắn đi nhƣng chƣa có kế hoạch, vì nó

liên quan đến các kế hoạch cho mùa du lịch của công ty song con số những

đối tƣợng này chỉ chiếm trung bình 26,6 %.

Nếu một gia đình Nhật Bản bao gồm ông bà, bố mẹ, con cái định đi du

lịch ở nƣớc ngoài thì bọn trẻ sẽ quyết định khi nào họ sẽ đi, ông bà quyết định

họ sẽ tiêu bao nhiêu trong chuyến đi vì ngân quỹ của họ dồi dào hơn của bố

mẹ. Bà mẹ có quyết định cuối cùng về tất cả mọi thứ còn ông bố chỉ thực thi

mà không có ý kiến gì.

Theo kết quả điều tra lần thứ 17 về động thái du lịch của ngƣời Nhật Bản

thực hiện bởi Hiệp hội du lịch Nhật Bản (Japan Tourist Association) vào năm

1996, việc quyết định điểm du lịch sẽ đi dựa theo ý kiến của ngƣời thân và

bạn bè đã đi du lịch ở điểm đó chiếm tỷ lệ cao nhất, thứ đến là họ quyết định

sau khi tham khảo ở sách hƣớng dẫn du lịch (guide book) và các tập gấp.

2.3.7. Bạn đồng hành khi đi du lịch

Rất ít khi thấy khách du lịch Nhật Bản đi một mình trừ khi chuyến đi đó

với mục đích thƣơng mại hoặc du lịch balô. Họ đi du lịch theo những nhóm

đƣợc tổ chức bởi các đại lý du lịch, trƣờng học, tổ chức kinh doanh hoặc

những tổ chức khác mà phần lớn là du lịch trọn gói.

2.3.8. Lựa chọn các công ty, đại lý du lịch phục vụ chuyến đi

Các hãng lữ hành Nhật Bản tổ chức cho khách Nhật đi du lịch nƣớc

ngoài đa phần là các hãng loại một, trong đó những hãng loại một dẫn đầu sự

lựa chọn của khách du lịch là: Japan Travel Bureau (JTB), Kinki Nippon

Tourist (KNT), Nippon Travel Agency (NTA), Tokyo Tourists, Hankyu

Express, JTB Tranveland, Nippon Express, Jalpak, H.I.S... trong số 926 hãng

loại này và đều là thành viên của JATA. Các hãng loại 2 và 3 chủ yếu làm đại

lý bán chƣơng trình cho các hãng loại 1: trong đó phải kể đến những hãng loại

2 hàng đầu là: Keihan Travel Service, Big Holiday, ANA World, All Nippon

Airways Tradings... trong số 75 hãng này có mặt trong JATA.

2.3.9. Cách thức phục vụ khách du lịch Nhật Bản

Ngƣời ta nói rằng khách du lịch Nhật Bản rất khó tính, đòi hỏi cao trong

phục vụ. Nhƣng có thể khái quát các yếu tố phục vụ của họ thành 4 C và 1

chữ S. Đó là:

- Comfort (Tiện nghi)

- Convenience (Thuận tiện)

- Cleanliness (Sạch sẽ)

- Courtesy (Lịch sự)

- Safety (An toàn)

Họ thích trong phòng mình ở mọi thứ phải luôn sẵn sàng, đầy ắp và sạch

sẽ. Đầy ắp về thức ăn và cũng nên đầy ắp cả về thông tin vì ngƣời Nhật

thƣờng có tính tò mò muốn thoả mãn hết các vấn đề mà họ quan tâm. Thay vì

ngồi trong phòng cả ngày họ luôn có xu hƣớng ra ngoài để xem, ăn, thử, mua

sắm hay giải trí. Do đó các khách sạn nên đƣa những thông tin hữu ích đối với

khách Nhật vào những cuốn sách nhỏ, báo hay băng video.

Hay cũng có ngƣời cho rằng ngƣời Nhật Bản cũng sử dụng 3 chữ S là:

- Speed (Tốc độ)

- Sophistication (Tinh tế)

- Specialisation (Chuyên môn hoá cao)

Dịch vụ cần phải nhanh vì khách hàng không thích chờ đợi đặc biệt là

với ngƣời Nhật. Nói chung, yếu tố chính xác giờ giấc cũng là yêu cầu không

thể thiếu trong quá trình phục vụ khách Nhật vì ngƣời Nhật bản thân họ luôn

sống rất đúng giờ. Bữa trƣa bao giờ cũng chỉ có 20 - 30 phút. Đúng giờ đôi

khi tạo cho họ tính hay sốt ruột nên khách Nhật Bản gọi phục vụ ngay khi họ

ngồi vào ghế ở nhà hàng. Phục vụ nhanh đối với họ cũng đồng nghĩa là mến

khách.

Ngoài ra các nƣớc cần phải làm nổi bật nét độc đáo của mình về ẩm

thực, lịch sử và văn hoá. Các sản phẩm du lịch và các dịch vụ cần phải tinh tế

vì khách Nhật ngày càng khó tính. Ngƣời Nhật không quốc tế hoá lắm về

ngôn ngữ, vì vậy rất tôn trọng những ai biết nói tiếng Nhật do đó đội ngũ

hƣớng dẫn viên và nhân viên phục vụ cần đƣợc đào tạo tốt hơn để có thể giao

tiếp bằng tiếng Nhật một cách trôi chảy, làm cho họ có cảm giác nhƣ

luôn đang ở nhà mình.

Bên cạnh đó các yêu cầu của ngƣời Nhật Bản cũng đƣợc tổng kết bằng 5

chữ S là:

- Safety (An toàn)

- Sanitation (Vệ sinh)

- Space (Thoáng đãng)

- Shopping (Mua sắm)

- Soup (Ẩm thực)

Trong việc lựa chọn sản phẩm du lịch nào đó, khách du lịch ngƣời Nhật

thƣờng dựa vào các yếu tố sau: uy tín và tên tuổi của công ty du lịch, sự hài

lòng đối với những lần du lịch trƣớc đó, hoặc do bạn bè ngƣời thân giới thiệu.

Sự tận tình, chu đáo, hiểu biết rộng và lành nghề của hƣớng dẫn viên và nhân

viên phục vụ.

Về phong cách giao tiếp nên coi trọng các câu nhƣ là:

- Tôi có thể giúp đƣợc gì cho ông (bà) ? (Irasshaimase)

- Cảm ơn (Arigato gozaimashota)

- Phải đấy thƣa ông (bà) (Kashikomarimashita)

- Xin chờ cho một lát (Shosho Omachi Kudasaimase)

- Xin lỗi vì đã để ông (bà) phải đợi (Omatase itashimashita)

- Xin ông (bà) vui lòng.....(Osore irimasuga)

- Rất lấy làm tiếc (Moshiwake gozaimasen)

- Xin thứ lỗi...(Shitsure itashimashita)

- Chúng tôi hy vọng đƣợc phục vụ quý ông (bà) lần sau (Zehi mata

goriyo kudasaimaso)

Với tƣ cách là hƣớng dẫn viên cho khách du lịch là ngƣời Nhật cần thể

hiện tốt những nhiệm vụ sau:

- Chào đón khách một cách lịch sự theo đúng phong cách Nhật Bản

trong tƣ thế nghiêm, cúi lƣng thấp, tƣơi cƣời với câu nói: “Xin chào mừng

quý vị đến với đất nước chúng tôi. Chúng tôi hân hạnh được đón tiếp quý vị”

- Mặc đồng phục đã đƣợc giặt ủi của hãng và đeo biển hiệu trên ngực với

vẻ mặt vui vẻ, dễ gần.

- Khi tiếp xúc cần nhìn thẳng vào mắt khách, đừng bao giờ tránh cái nhìn

của họ. Kiểm tra họ và tên khách và khách sạn nơi họ đã đăng ký đặt chỗ, giải

thích cho khách phải thật cặn kẽ rõ ràng, dễ nghe khi trao cho họ vé khứ hồi,

thẻ khởi hành.

- Với khách Nhật hộ chiếu là văn bản chính thức đƣợc Chính phủ Nhật

cấp, chứng nhận họ là công dân nƣớc Nhật do đó văn bản quan trọng này chỉ

có họ đƣợc giữ nó. Vì vậy hƣớng dẫn viên chỉ đƣợc phép cầm giữ hộ chiếu

của khách trong trƣờng hợp: xin visa cho khách vì nhà cung cấp dịch vụ yêu

cầu phải có hộ chiếu theo luật quốc gia hiện hành hoặc hộ chiếu là tài liệu cần

thiết trong việc xảy ra các sự cố, tai nạn...

- Từ khi khách đến (hoàn tất thủ tục) cho đến khi đƣa khách ra xe ô tô

không quá 10 phút, giúp đỡ khi lên xuống xe. Khi điểm danh phải gọi đầy đủ

họ và họ tên khách, phải nói rõ cho khách biết lịch trình trƣớc khi đi, khi

khách còn đang trong tình trạng do dự về một quyết định nào đó lời khuyên

hữu ích kịp thời đối với họ có giá trị nhƣ vàng. Ngƣời hƣớng dẫn viên cần

quan tâm đặc biệt tới khách là ngƣời cao tuổi và trẻ em bằng các việc làm cụ

thể. Nhanh chóng nhận ra trƣởng đoàn, hoặc những ngƣời “thủ lĩnh” trong

nhóm khách để nhờ sự giúp đỡ của họ. Cần tránh sự thân mật hoặc quan tâm

quá mức tới một ai đó trong nhóm khách (trừ ngƣời già và trẻ em) cố gắng sử

dụng tất cả vốn tiếng Nhật mà mình có khi nói chuyện với họ, các chỉ dẫn cho

họ cũng bằng tiếng Nhật. Nhai kẹo cao su, hút thuốc, sửa thắt lƣng trƣớc mặt

khách du lịch ngƣời Nhật là điều phạm huý (Taboo). Sẽ là hành vi cực kỳ thô

lỗ trƣớc ngƣời Nhật khi mà bạn đếm khách bằng cách chỉ ngón tay vào mặt

họ. Tuyệt đối giữ gìn bí mật cho khách. Đôi khi thật khó mà biết khách du

lịch Nhật Bản có thực sự hài lòng hay không. Nhiều ngƣời cho rằng biết

khách Nhật có thực sự hài lòng hay không là điều chẳng dễ chút nào. Họ

không phàn nàn ngay lập tức bởi nhiều lý do nhƣ: ngôn ngữ bất đồng hay tâm

lý ngại đông ngƣời của khách Nhật. Thƣờng thì họ phàn nàn các tổ chức hay

những hãng du lịch khi họ quay về nƣớc, để tránh những điều không hay này

nên có các phiếu thăm dò, góp ý của khách để thông qua đó có thể giải quyết

những phàn nàn của họ một cách trực tiếp và hiệu quả.

Tóm lại, phong cách phục vụ khách du lịch nói chung và khách Nhật nói

riêng chứa đựng bốn thành phần mà ngƣời ta gọi là “4S”. Đó là tƣơi cƣời

(Smile), chân thành (Sincerity), nhanh nhẹn (Speed), và lịch sự (Smart). Vì

vậy khi phục vụ khách du lịch ngƣời Nhật đòi hỏi nhân viên phục vụ và

hƣớng dẫn viên phải nắm bắt đƣợc những tâm lý - xã hội đặc trƣng của họ.

Với phong cách giao tiếp của nền văn hoá phƣơng Đông, với những chuẩn

mực bất thành văn của nó: sự tôn kính, ân tình, nhƣờng nhịn, kín đáo, vì cộng

đồng kết hợp các tiêu chuẩn trên sẽ giúp cho chúng ta có phong cách giao

tiếp phù hợp với khách du lịch ngƣời Nhật.

2.3.10. Sự hấp dẫn của sản phẩm du lịch Việt Nam

Những sản phẩm của du lịch Việt Nam mà khách Nhật ƣa thích đó là

những tour đƣợc thiết kế nêu bật cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp, hấp dẫn và

một nền văn hoá nhiều bản sắc, có bề dày lịch sử và nhất là có nhiều tƣơng

đồng với họ. Khách Nhật cũng mong muốn đƣợc làm giàu vốn hiểu biết của

mình khi đƣợc khám phá những sắc thái dân tộc và nền văn hoá đặc thù của

54 dân tộc anh em của nƣớc ta. Họ thích có chuyến đi ngƣợc dòng thời gian đi

tìm văn hoá bản làng bởi các dân tộc thiểu số còn giữ đƣợc nếp sống, phong

tục từ xƣa nhƣ một sự hiện diện của quá khứ trong xã hội hiện đại nhƣ các

chuyến đi SaPa, đi thăm các bản Dao, H’Mông. Ngoài ra khách Nhật còn lựa

chọn đến các đình chùa của đạo Phật trong chuyến đi của mình. Dẫu sao đó là

tôn giáo mà đa số ngƣời Nhật sùng kính và để thấy những giống nhau và khác

nhau của đạo Phật ở hai nƣớc và rút ra các nhận xét bổ ích về giá trị tâm linh

mà họ đặt niềm tin.

Theo tổng kết của tờ Mainichi Newspapers Survey, trong các tour mà

ngƣời Nhật thích tham gia nhƣ: tham quan danh thắng tự nhiên, nghỉ biển,

tham quan các di tích lịch sử và di tích cổ xƣa, tham gia danh thắng chính

yếu, nghỉ ở vùng núi, đồi, cao nguyên, tour mua sắm, thể thao, làm quen với

phong tục tập quán và lối sống của ngƣời dân địa phƣơng, nghiên cứu văn hoá

dân gian, nghiên cứu ẩm thực, du thuyền thì tour tham quan danh thắng tự

nhiên là chiếm số đông nhất (gần 50%) sau đó mới đến nghỉ biển và ít nhất là

tour du thuyền. Trong các nƣớc ASEAN thì Việt Nam là nƣớc thứ tƣ thu hút

khách Nhật đi theo tour tham quan danh thắng tự nhiên (sau Singapore, Thái

Lan và Malaysia), đứng thứ ba về lƣợng khách Nhật đi theo tour tham quan di

tích lịch sử và di tích cổ xƣa, tour tham quan một nơi hay một thành phố, tour

nghiên cứu ẩm thực, đứng thứ hai về tour làm quen với phong tục tập quán và

cuộc sống của ngƣời dân địa phƣơng (sau Thái Lan). [48, 25]

Ngoài ra những điểm du lịch trên thế giới cũng rất hấp dẫn ngƣời Nhật.

Hawaii vẫn là điểm du lịch đứng đầu bảng thu hút hơn 2 triệu khách du lịch

mỗi năm. “Theo ông Matshuhashi - Giám đốc văn phòng xúc tiến Du lịch

Nhật Bản, Hawaii có nhiều dịch vụ và cảnh đẹp hấp dẫn thu hút du khách

và cho phép du khách đƣợc nghỉ ngơi thực sự. Bờ biển Waikiki trên đảo

thực sự là một điểm du lịch điển hình của sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp

thiên nhiên với giai điệu du dƣơng và những câu chuyện tiểu thuyết lãng

mạn.” [4, 12]

Tiếp sau Hawaii là các điểm du lịch khác hấp dẫn nhƣ Guam, Mỹ, Bali

(Indonesia), Hồng Kông và Malaysia.

Các chƣơng trình chủ yếu vẫn là:

- Hà Nội: đa số khách Nhật thích tham quan lăng Bác, khu phố cổ, khu

di tích Hồ Gƣơm, đền Quán Thánh, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chùa Quán

Sứ... xa hơn thì có Cổ Loa, làng gốm Bát Tràng, làng tranh Đông Hồ. Giải trí

ở Hà Nội chủ yếu vẫn là xem múa rối nƣớc, xem hát dân tộc, tự do dạo phố

hoặc mua sắm, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ.

- Huế: thăm cố đô Huế, dạo chơi sông Hƣơng, nghe hò, dạo chơi chợ

Đông Ba.

- Quảng Nam: thăm phố cổ Hội An, Non Nƣớc – Ngũ Hành Sơn, thánh

địa Mỹ Sơn.

- Đà Lạt: thích chơi golf, tham gia săn bắn, ngắm cảnh Đà Lạt.

- Nha Trang: thích tắm biển, thăm tháp Chàm Ponaga.

- TP. Hồ Chí Minh: dạo chơi phố, shopping.

Ngoài ra những di tích chiến tranh nhƣ DMZ tour cũng luôn thu hút du khách

sinh viên Nhật bởi đó chính là bằng chứng hùng hồn của sức mạnh Việt Nam.

2.3.11. Các tác nhân hạn chế

- Vấn đề cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật của ngành du lịch và vấn đề con

ngƣời trực tiếp hoạt động trong ngành dịch vụ du lịch. Theo thống kê của

Tổng cục Du lịch đến thời điểm năm 1998 cả nƣớc ta có hơn 2000 hƣớng dẫn

viên đƣợc cấp thẻ, trong đó chỉ có 6% số hƣớng dẫn viên tiếng Nhật. Đến

năm 2006 hiện nay cả nƣớc có 6.000 hƣớng dẫn viên. Trong khi đó theo con

số thống kê đƣợc của Văn phòng du lịch quốc gia Thái Lan ở Nhật Bản cung

cấp thì hiện tại ở Thái Lan có tổng số 19.586 hƣớng dẫn viên, trong đó có

4.304 hƣớng dẫn viên tiếng Nhật. Nhƣ vậy mới thấy đƣợc số lƣợng hƣớng

dẫn viên của ta còn quá ít ỏi. Trong thực tế việc chỉ có khả năng ngoại ngữ

cùng với một số hiểu biết về lịch sử, văn hoá, xã hội, con ngƣời của đất nƣớc

mình vẫn sẽ là không đủ nếu không am hiểu tƣờng tận về tập quán, thói quen

và văn hoá của những ngƣời khách mà mình đang hƣớng dẫn. Đôi khi nhiều

ngƣời khách Nhật còn phàn nàn rằng có những hƣớng dẫn viên gần nhƣ chỉ

làm việc nhƣ một phiên dịch thuần tuý. Họ chỉ biết nói hết những gì mà họ đã

chuẩn bị trƣớc về địa điểm họ dẫn khách đến tham quan.

- Vấn đề đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng chƣa đƣợc tốt khi khách

Nhật luôn bị quấy rầy về tệ nạn ăn xin, chào bán mua các đồ lƣu niệm ở địa

phƣơng du lịch.

- Vấn đề giao thông vận tải (đƣờng sá, giao thông đến các điểm du lịch)

còn chƣa thuận lợi, còn hạn chế nên việc vận chuyển du khách còn chiếm

nhiều thời gian, ảnh hƣởng đến thời gian nghỉ, tham quan… không phù hợp

với tâm lý nhu cầu của du khách.

- Trong thời gian gần đây chúng ta đã cố gắng rất nhiều trong việc đầu tƣ

xây dựng cơ sở vui chơi giải trí nhƣ công viên chủ đề, nhƣng chất lƣợng và số

lƣợng những dịch vụ vui chơi giải trí, những sạp hàng lƣu niệm bày bán có lẽ

chƣa thật hấp dẫn và phù hợp với sở thích của họ. Xét về thực tế, khi đƣợc hỏi

ngƣời Nhật Bản đều nói thích đến miền nam nƣớc ta, đặc biệt là thành phố Hồ

Chí Minh. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, đặc biệt là những dịch vụ

vui chơi giải trí ở đây phát triển hơn những nơi khác ở nƣớc ta.

Mặt khác chúng ta chƣa đáp ứng đƣợc với tập tục thói quen của ngƣời

Nhật Bản. Đôi khi có ngƣời Nhật còn phàn nàn rằng có những khách sạn vẫn

bố trí những phòng nghỉ không có bồn tắm cho họ. Đây có thể nói là một việc

làm hoàn toàn không chú ý đến tập quán của khách. Đối với ngƣời Nhật Bản

thì một việc không thể thiếu đƣợc hàng ngày là việc họ vào bồn tắm ngâm

trong nƣớc ấm. Đây là một hình thức làm cho họ bớt đi những căng thẳng và

mệt mỏi sau một ngày làm việc. Tuy nhiên với giới trẻ tuổi thì nhiều khi họ

cũng không đòi hỏi, nhƣng phần đông những ngƣời khách Nhật đều muốn

nghỉ ngơi trong phòng có bồn tắm. Việc không bố trí phòng có bồn tắm cho

họ sẽ là một điều gây cho họ cảm giác khó chịu, tuy họ không nói ra.

- Tuy nhiên, trong quá trình phục vụ khách du lịch Nhật Bản, các doanh

nghiệp lữ hành của chúng ta còn có nhiều hạn chế. Chất lƣợng phục vụ chƣa

đáp ứng đƣợc yêu cầu của khách Nhật. So với các nƣớc trong cùng khu vực,

cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của chúng ta còn rất yếu và thiếu.

- Một đặc điểm là ngƣời Nhật rất tôn trọng thời gian và lời hứa. Qua tiếp

xúc với những ngƣời có kinh nghiệm đi du lịch Việt Nam, đặc biệt là những

ngƣời đã trực tiếp tổ chức những đoàn khách đến Việt Nam du lịch, họ phản

ánh rằng đôi khi lịch trình tour thực hiện không chính xác. Có ngƣời đi du

lịch Việt Nam rất nhiều lần nên có hƣớng dẫn viên du lịch của một hãng lữ

hành trong miền Nam rất giỏi tiếng Nhật đồng thời hiểu biết tâm lý tập quán

của khách Nhật và lần sau họ đã mua tour của hãng lữ hành này và yêu cầu

ngƣời hƣớng dẫn viên đó phụ trách việc hƣớng dẫn. Hãng lữ hành này đã hứa

nhƣng sau đó không hiểu vì lý do gì đã thay ngƣời hƣớng dẫn viên khác. Kết

quả là họ đã rất bất bình và có một ấn tƣợng xấu về cung cách làm việc của ta.

Những việc làm nhƣ vậy rất ảnh hƣởng đến uy tín và tính hấp dẫn của du lịch

Việt Nam.

- Sản phẩm du lịch của chúng ta chủ yếu dựa vào tài nguyên. Ngƣời

Nhật tới Việt Nam chủ yếu vì nguồn tài nguyên của chúng ta hấp dẫn. Thế

nhƣng, chúng ta lại chƣa phát huy đƣợc thế mạnh này. Không kể đến các yếu

tố cơ sở vật chất kỹ thuật thì chất lƣợng của đội ngũ hƣớng dẫn viên và phục

vụ khách vẫn còn nhiều vấn đề đáng bàn.

2.4. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản và vấn đề đối mặt với

kinh doanh du lịch Việt Nam

Nhật Bản từ lâu nằm trong danh sách 5 quốc gia và vùng lãnh thổ có

lƣợng khách du lịch đến Việt Nam đông nhất, gồm Trung Quốc, Mỹ, Hàn

Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Tuy nhiên, so với tổng số du khách Nhật đi du

lịch nƣớc ngoài (17,5 triệu năm 2005), số khách đến Việt Nam còn quá nhỏ

bé (317.000 ngƣời). [52]

Do vậy, để cạnh tranh với các điểm đến mới và các thị trƣờng du lịch

phát triển nhƣ Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia... và khuyến khích du

khách Nhật quay trở lại, Việt Nam cần quảng bá nhiều hơn hình ảnh của mình

trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng Nhật Bản. Hiểu hơn về luật hoạt

động của các công ty lữ hành Nhật Bản sẽ là một lợi thế. Nếu biết rõ hơn về

15 ngày lễ mà ngƣời Nhật không đi du lịch, hay những thời điểm mà ngƣời

Nhật thích “ở nhà” hơn nhƣ ngày Phật đản vào trung tuần tháng 8, tuần lễ

cuối năm và trƣớc bầu cử… cũng giúp ích cho các công ty du lịch Việt Nam

lên kế hoạch thu hút khách. Điều quan trọng là phải hiểu về đặc điểm tập

quán, phong tục, những sở thích để chăm sóc khách hàng. Một trong những

“phƣơng tiện” hữu hiệu trong quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới là hàng

không.

Cùng với việc các công ty của Nhật mở văn phòng và hoạt động kinh

doanh tại nƣớc ngoài, số doanh nhân Nhật làm việc tại nƣớc ngoài cũng tăng.

Nhiều ngƣời không mang theo vợ con. Và sự cô đơn của những doanh nhân là

nhu cầu dẫn tới việc mở các quán karaoke tại nhiều thành phố trên thế giới.

Và tất nhiên ngƣời bản địa làm ăn với thƣơng gia Nhật cũng là khách đƣợc

mời tới thƣởng thức loại hình giải trí này. Karaoke bar xuất hiện không chỉ ở

các nƣớc Đông Nam Á mà còn lan sang Hoa Kỳ và các thành phố khu vực

Nam Mỹ. Thống kê cho thấy, cứ 3 ngƣời Nhật thì có một ngƣời thích hát

karaoke. Ngƣời ta cho rằng, nếu có nét văn hoá nào của Nhật lan rộng thì có

lẽ đó là karaoke. Xét về một chừng mực nào đó, nó cũng giống nhƣ các hình

thái sinh hoạt khác nhƣ rủ nhau đi uống bia, nghe nhạc, chơi golf để

tăng cƣờng quan hệ.

Không giống nhƣ vài chục năm trƣớc đây, từ sau chiến tranh thế giới

thứ 2 ngƣời Nhật không đƣợc đón chào tại Việt Nam, nay họ lại đƣợc coi là

những vị khách quý, đƣợc các công ty du lịch lữ hành quan tâm. Chính phủ

Việt Nam cũng đã bỏ thị thực nhập cảnh cho công dân Nhật để mở rộng thêm

thị trƣờng tiềm năng này và trên thực tế, việc bỏ thị thực cho du khách Nhật

đã giúp tăng số du khách Nhật đến Việt Nam. Do đƣợc miễn visa, du khách

Nhật chủ động đi lại hơn, nên số ngƣời thông qua các công ty du lịch lữ hành

lại không nhiều. Các chuyến bay thẳng và đƣờng bay cũng tăng tạo điều kiện

cho ngƣời Nhật đến Việt Nam. Nhƣng dù đƣợc miễn thị thực trong hai tuần,

thƣờng họ chỉ đến Việt Nam 5 ngày với mục tiêu mua sắm và cƣỡi ngựa xem

hoa là chính, chứ không đi sâu tìm hiểu nhƣ khách du lịch phƣơng Tây. Ví dụ,

muốn biết về đồng bằng sông Cửu Long và sông nƣớc Nam Bộ, họ chỉ đi gần

cỡ thành phố Mỹ Tho, sáng đi chiều về, để có cái nhìn tổng quát. Du khách

Nhật chi tiều nhiều nhờ giá rẻ hơn ở nƣớc họ rất nhiều. Tại Việt Nam, họ tiêu

tiền rất thoải mái và thuộc số du khách chi tiêu rộng rãi nhất. Họ rất thích mua

hàng lƣu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ và những thứ ở Nhật rất đắt. Khách du

lịch nƣớc ngoài nói chung và khách Nhật nói riêng đến Việt Nam dƣới nhiều

hình thức, hoặc thông qua công ty du lịch, hoặc tự đi bằng đƣờng hàng không,

đƣờng bộ, đƣờng biển, Khách Nhật thích tự tổ chức đi du lịch thay vì thông qua

các công ty và đây là xu hƣớng của ngƣời Nhật nói chung cũng nhƣ giới trẻ Nhật

nói riêng, nhất là khi Việt Nam bãi bỏ visa đối với khách nhập cảnh từ Nhật.

Trong chuyến thăm và làm việc chính thức tại Nhật Bản từ ngày 03 đến

10 – 4 – 2005, Tổng cục trƣởng Tổng cục Du lịch Võ Thị Thắng và ông

Kitagawa Kazua – Bộ trƣởng Lãnh thổ, Hạ tầng và Vận tải Nhật Bản đã ký

Tuyên bố chung hợp tác du lịch hai nƣớc. Theo tinh thần của Tuyên bố, hai

bên sẽ tăng cƣờng thúc đẩy một số lĩnh vực hợp tác bao gồm xúc tiến, quảng

bá du lịch, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, quy hoạch du lịch, khuyến

khích đầu tƣ trao đổi thông tin, chuyên gia.

Đây là một dấu hiệu rất đáng mừng đối với các nhà kinh doanh lữ hành

và du lịch tại Việt Nam. Việc hợp tác về du lịch giữa hai nƣớc ở cấp quốc gia

sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng lữ hành Việt Nam tìm kiếm đối tác và

mở rộng thị trƣờng. Hiện tại chúng ta đang có rất nhiều lợi thế bởi hình ảnh

của một đất nƣớc nhiệt đới yên ả, thanh bình đang ngày càng trở thành ấn

tƣợng tốt đẹp trong lòng du khách Nhật. Số lƣợng khách ngày một tăng. Theo

thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, từ năm 1995 đến nay, Nhật Bản

luôn là 1 trong 5 nƣớc dẫn đầu về số lƣợng khách quốc tế đến Việt Nam. Năm

2004, ngành du lịch chúng ta đã đón 267.210 lƣợt khách Nhật Bản và chiếm

thị phần khách quốc tế đông thứ 3 tại Việt Nam chỉ sau Trung Quốc, Mỹ. Tốc

độ tăng trƣởng đƣợc nâng lên hàng năm và luôn chiếm tỷ trọng lớn. [56]

Trong chƣơng trình Cửa sổ nhìn ra thế giới, Đài truyền hình Asahi

(Nhật Bản) đã liên tục phát băng giới thiệu về Việt Nam. Thông qua hành

trình dọc đất nƣớc băng tàu Thống Nhất, các địa danh, phong cảnh cùng với

những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống độc đáo khắp ba miền đã đƣợc giới

thiệu với ngƣời Nhật. Đây là một tin rất mừng đối với ngành du lịch Việt

Nam. Điểm đến Việt Nam an toàn và hấp dẫn đang thu hút sự chú ý của

khách du lịch Nhật Bản. Chắc chắn, trong những năm tới, ngƣời Nhật sẽ coi

Việt Nam là một trong những lựa chọn của mình. Vấn đề đặt ra ở đây là làm

sao để ngày càng có nhiều ngƣời Nhật lựa chọn Việt Nam? Làm sao để ngƣời

Nhật quay trở lại Việt Nam nhiều lần sau khi đã tới Việt Nam lần đầu tiên. Có

lẽ, chúng ta hãy bắt đầu từ việc tìm hiểu về đặc tính và xu hƣớng đi du lịch

của ngƣời Nhật Bản.

Lý do khiến ngƣời Nhật chọn Việt Nam làm điểm đến là do họ thích thú

với các loại hình resort từ bình dân đến cao cấp, các mặt hàng trang trí nội

thất, mỹ nghệ phong cách Á châu có giá cả dễ chấp nhận. Ngoài ra sự hấp dẫn

từ cuộc sống mãnh liệt và năng động của ngƣời Việt Nam, sự pha trộn của

văn hoá ảnh hƣởng Trung Hoa, Pháp đã thu hút khách Nhật. Cơ hội đầu tƣ

vào Việt Nam vẫn hấp dẫn các doanh nghiệp Nhật… Đặc biệt sự tƣơng đồng

về văn hoá giữa hai dân tộc cũng nhƣ lòng mến khách, sự thân thiện, yêu

thích hoà bình, quý thiên nhiên, thú chơi cây cảnh, cắm hoa, trà đạo… đã tạo

sự gần gũi cho khách Nhật. Tuy nhiên, du lịch Việt Nam còn gặp một số khó

khăn khi khai thác thị trƣờng Nhật vì các quốc gia lân cận cũng tích cực giành

giật thị phần ở đối tƣợng khách này. Giá vé máy bay từ Nhật sang Việt Nam

còn cao hơn so với Thái Lan. Việt Nam còn thiếu những điểm vui chơi giải

trí, các điểm nghĩ dƣỡng. Tình hình giao thông đô thị còn phức tạp hay ùn tắc

giao thông, vệ sinh môi trƣờng còn kém đặc biệt là thiếu các điểm thông

tin cho khách. [53]

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Có thể nói thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là một thị trƣờng tiềm

năng. Thông qua đó các nhà kinh doanh du lịch cần phải có sự hiểu biết hơn

nữa về phong tục, tâm lý, sở thích tiêu dùng du lịch của tập khách này để thu

hút họ đến đông hơn.

Ngƣời Nhật Bản đƣợc mệnh danh là ngƣời đam mê du lịch, thích tìm

hiểu về văn hoá lịch sử nên du lịch Việt Nam cần phát triển và bảo tồn các di

tích lịch sử và danh thắng đặc biệt là Hạ Long, Huế, phố cổ Hội An v...v.

Đồng thời phải có chính sách tuyên truyền quảng bá về những hình ảnh đất

nƣớc, con ngƣời và du lịch của Việt Nam. Ngoài ra tạo điều kiện mở rộng

quan hệ giao lƣu văn hoá, tiếp xúc, tìm đối tác ký kết các hợp đồng hợp tác

phát triển và kinh doanh du lịch.

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP KHAI THÁC THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU

LỊCH NHẬT BẢN LÀ THỊ TRƢỜNG TRỌNG ĐIỂM

3.1. Xây dựng mô hình chiếm lĩnh thị trƣờng khách du

lịch Nhật Bản

Nhật Bản là một thị trƣờng trọng điểm lớn đối với các công ty lữ hành

Việt Nam. Trong tƣơng lai gần, có khoảng 500.000 lƣợt khách Nhật tới Việt

Nam và đến năm 2010 sẽ là 1 triệu lƣợt khách.

- Về quan hệ đối ngoại: Quan hệ với Nhật Bản là một trong những ƣu

tiên chiến lƣợc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, lãnh đạo hai quốc

gia đã nhất trí cùng xây dựng quan hệ “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài trong

thế kỉ 21”. Nhật Bản là một trong những nƣớc có tài trợ ODA lớn nhất cho

Việt Nam, có nhiều nhà đầu tƣ lớn tại Việt Nam. Việt Nam đã đơn phƣơng

miễn thị thực nhập cảnh vào Việt Nam cho Nhật Bản tạo điều kiện cho khách

du lịch, thƣơng gia Nhật Bản vào Việt Nam du lịch, tìm kiếm cơ hội đầu tƣ.

- Về tâm lý khách: Ngƣời Nhật có nhu cầu rất cao về đi du lịch nƣớc

ngoài và từng xuất hiện phong trào đi du lịch Việt Nam. Khách du lịch Nhật

Bản có mức chi tiêu cao đem lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn nhƣng cũng yêu

cầu rất cao về chất lƣợng dịch vụ và có sở thích đặc trƣng trong khi đi du lịch.

Có thể nói ngƣời Nhật rất hiếu kỳ và hay đi du lịch theo đợt hoặc bị phong

trào, thông tin đại chúng lôi cuốn, thƣờng đi nhóm nhỏ theo đơn vị tổ chức từ

trƣớc, có đi lẻ (ba lô) nhƣng ít. Mùa du lịch cao điểm là dịp Tết dƣơng lịch và

mùa hè. Họ thƣờng đi ngắn ngày dƣới 1 tuần, thích thăm các công trình văn

hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, những nơi có cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp,

trong lành, tìm hiểu đặc tính dân tộc của đất nƣớc đến du lịch. Ngoài ra, nhiều

ngƣời Nhật thích tắm suối nóng, chơi golf, tham gia vào các công đoạn sản

xuất nhƣ vẽ lên đồ gốm, làm nem… Ngƣời Nhật thƣờng chuẩn bị từ sớm:

đăng ký đi du lịch thƣờng trƣớc 6 tháng đến 1 năm. Tỷ lệ du khách nữ cao

hơn nam. Đặc biệt hiện nay văn hoá Việt Nam đã thâm nhập vào cuộc sống

của ngƣời dân Nhật, đã xuất hiện áo dài và các món ăn Việt Nam trong các

dịp lễ trọng đại của Nhật (nhƣ trong lễ kết hôn, lễ tiếp khách trọng thể…).

Từ những lý do trên, cần xây dựng một mô hình thu hút khách du lịch

Thị

SPDL

T.O

trường

- KS

khách

Marketing

- V/C

Nhật

Bản

- TNDL

- CQDL

T.A Quảng cáo

Nhật Bản trở thành thị trƣờng trọng điểm.

Việt Nam có một lợi thế là có rất nhiều làng nghề, hiện nay Việt Nam

có hơn 300 làng nghề với khoảng 100 làng đƣợc xếp là làng nghề truyền

thống (Làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc, làng mộc Đồng Kỵ, làng sơn

mài Đình Bảng). Do đó, có thể đƣa ra sáng kiến khởi động phong trào “Mỗi

làng một sản phẩm” (đƣợc gọi tắt là OVOP). Phong trào hiện nay đã đƣợc

thực hiện tại Nhật Bản, Thái Lan và Lào và thu hút đƣợc một số

lƣợng lớn khách du lịch.

Mục tiêu của mô hình OVOP là tìm ra sản phẩm độc đáo, đặc trƣng

nhất của mỗi làng, sau đó liên kết, xây dựng lại để giới thiệu và bán

cho khách du lịch.

Ví dụ ở Thái Lan bên cạnh mô hình OVOP, họ vẫn muốn tạo ra những

sản phẩm làng nghề đặc trƣng hơn nữa, chính vì vậy Thái Lan tiếp tục cho

xây dựng một mô hình mang tên “Mỗi huyện một sản phẩm” (viết tắt là

OTOP). Đó là tạo ra các sản phẩm văn hoá và đặc trƣng của mỗi địa phƣơng,

mỗi cộng đồng trong địa phƣơng.

“Nguyên tắc chính của OTOP là chỉ dừng lại ở cấp địa phương, sáng

tạo và tự chủ, phát triển nguồn nhân lực. ở OTOP được Thái Lan chia theo lộ

trình. Ví dụ như: ngay từ đầu năm 2002 khi mới thành lập đã đăng ký ngay

OTOP. Hai năm 2003 và 2004 mời chuyên gia từ bên ngoài, người mua hàng

từ các cửa hàng bán sản phẩm để đánh giá sản phẩm đạt chất lượng từ 1 – 5

sao. Cũng ngay trong năm 2004, Thái Lan cho tổ chức hội chợ OTOP, năm

2005 tổ chức hội chợ có sự tham gia của nhiều quốc gia. Sang năm 2006

OTOP đã đến với thế giới bằng cách nhanh nhất. Hiện nay Thái Lan có 120

làng nghề được chọn để quảng bá sản phẩm. Chính vì vậy mà hàng năm

lượng khách đến Thái Lan kết hợp du lịch với thương mại ngày càng tăng

cao. Điều đó cũng đồng nghĩa với doanh số sản phẩm liên tục tăng qua các

năm. Theo Vụ Xúc tiến xuất khẩu, Bộ Thương mại Thái Lan: Nếu như năm

2002 doanh thu OTOP đạt 16,714 triệu bath thì đến năm 2005 con số này đã

tăng lên xấp xỉ 60 triệu bath. Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định: doanh số

này rất có thể sẽ tăng gấp đôi trong năm 2006 và đây là bài học tuyệt vời mà

Việt Nam nên tham khảo”. [64]

Tại cuộc hội thảo: “Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa APEC phát

triển nghề thủ công địa phƣơng” đƣợc Tổng cục Du lịch Việt Nam phối hợp

với diễn đàn APEC, Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ)

tổ chức vừa qua, tại Hà Nội có rất nhiều ý kiến xung quanh việc có hay không

nên học từ mô hình OVOP và OTOP. Theo ông Phạm Trung Lƣơng – Phó

viện trƣởng – Viện Nghiên cứu phát triển du lịch cho biết: Kim ngạch xuất

khẩu của các làng nghề thủ công Việt Nam đã có sự tăng trƣởng qua các năm:

Năm 1991 kim ngạch xuất khẩu của các làng nghề thủ công đạt 6,8 triệu

USD, năm 2000 đạt 300 triệu USD và năm 2005 đạt 2005 đạt xấp xỉ 700 triệu

USD. Tuy nhiên kết quả này chƣa phản ánh hết tiềm năng của một đất nƣớc

có tới 14.900 làng nghề thủ công, trong đó có 300 làng nghề truyền thống.

Việc có nên áp dụng mô hình OTOP hay OVPT vào Việt Nam để thu hút

không chỉ khách du lịch Nhật Bản nói riêng mà còn khách du lịch quốc tế nói

chung hay không cần phải nghiên cứu sao cho phù hợp bởi:

- Thứ nhất, do đặc thù của các làng nghề thủ công có một thời gian dài

làm việc theo kiểu bị động (theo mẫu đặt nên những ngƣời làm nghề

rất muốn sáng tạo ra sản phẩm nhƣng tƣ duy sáng tạo ở họ chƣa có do

không đƣợc đào tạo).

- Thứ hai, là các làng nghề Việt Nam chƣa tạo đƣợc tour khép kín các

dịch vụ nhƣ: bến bãi đỗ xe, nơi dừng chân, khu bán hàng ăn uống,

hƣớng dẫn viên du lịch làng nghề. [64]

Nếu giải quyết đƣợc những hạn chế trên thì các làng nghề ở Việt Nam sẽ

thu hút đƣợc một số lƣợng lớn khách du lịch Nhật Bản và khách quốc tế tới

tham quan.

3.2. Định hƣớng khai thác thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là

thị trƣờng trọng điểm

Thị trƣờng du lịch Việt Nam thu hút khách Nhật bởi nhiều lợi thế:

đƣờng bay gần, an toàn, sản phẩm du lịch (hàng hoá và dịch vụ du lịch) và

môi trƣờng du lịch hấp dẫn. Khách Nhật đến Việt Nam với mong muốn đƣợc

khám phá cảnh quan thiên nhiên, truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời, thƣởng

thức món ăn dân tộc, mua sắm nhiều hàng hoá truyền thống với sự đón tiếp

nồng hậu. Có thể nói, các tour tham quan, mua sắm tại TP.HCM, thăm phố cổ

Hội An, thánh địa Mỹ Sơn khách Nhật lựa chọn nhiều hơn cả. [55]

Bên cạnh đó, theo Tổng cục Du lịch, ngành du lịch của Việt Nam hiện

đã thu hút đƣợc một số đầu tƣ Nhật Bản các dự án nhƣ khách sạn Nikko Hà

Nội, Ysaka Sài Gòn – Nha Trang, Công ty liên doanh Du lịch Apex, Công ty

du lịch – dịch vụ OSC – SMI… Tuy nhiên, theo các chuyên gia về hoạt động

du lịch, để đạt đƣợc mục tiêu thu hút hàng triệu lƣợt khách du lịch Nhật,

ngành du lịch cần giải quyết 3 vấn đề lớn. [53]

Thứ nhất là phải có sản phẩm du lịch đặc thù vì khách Nhật rất thích

loại hình sinh thái, văn hoá và mua sắm. Đây là một thị trƣờng khách khó tính

và đòi hỏi cao về chất lƣợng dịch vụ.

Thứ hai là Việt Nam thiếu hƣớng dẫn viên du lịch biết sử dụng tiếng

Nhật (chỉ chiếm 5,3% trong tổng số trên 5.000 hƣớng dẫn viên đƣợc cấp thẻ).

Thứ ba là công tác xúc tiến quảng bá tại thị trƣờng Nhật Bản.

Thứ ba vấn đề cũng hết sức quan trọng là triệt để thực thi những biện

pháp tạo sự an toàn, yên tâm cho khách ở khắp mọi nơi, mọi lúc (trên tàu xe,

ngoài đƣờng phố), chấm dứt tình trạng ăn xin, đeo bám, móc túi… Rút kinh

nghiệm từ sự suy giảm thị trƣờng của Singapore, Việt Nam nên giữ nguyên

những nét cổ kính vốn có của các khu phố cổ, duy trì hình ảnh xích lô, ngƣời

bán hàng rong với những chiếc đòn gánh nhịp nhàng trên đƣờng.

Về phía hàng không, đại diện Việt Nam Airlines cho biết đã dành phần

đầu tƣ lớn vào thị trƣờng Nhật, hàng tuần khai thác 23 chuyến bay nối các

trung tâm kinh tế chính trị lớn của 2 nƣớc. Ngoài ra, hàng không Việt Nam

còn duy trì đều đặn 3 – 4 chuyến/ ngày.

Theo ông Matsuoka, Chủ tịch Công ty Apex Việt Nam – công ty lữ

hành chuyên đƣa khách Nhật vào Việt Nam cho rằng: “Muốn thu hút thị

trƣờng Nhật, chúng ta cần có những nhà tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực

dịch vụ hay công nghiệp phục vụ khách. Trƣớc mắt phải nâng cao chất lƣợng

các tour. Hiện nay Việt Nam còn thiếu những chính sách đồng bộ giữa hãng

hàng không và ngành du lịch dẫn đến giá máy bay còn đắt so với các nƣớc

trong khu vực. Việt Nam nên có sự phối hợp đồng bộ từ trung ƣơng đến địa

phƣơng trong việc quảng bá du lịch. [53]

Theo báo cáo của Hiệp hội Các hãng lữ hành hải ngoại Nhật Bản, số

lƣợng khách Nhật đi du lịch nƣớc ngoài hàng năm là 16 triệu lƣợt. Con số này

gia tăng khoảng 30%/năm. Kế hoạch của JATA, theo ông Shinmachi Koji –

Chủ tịch hiệp hội, là đến năm 2007 sẽ đạt đến con số 20 triệu khách Nhật đi

du lịch ra nƣớc ngoài. Điều đáng quan tâm là hƣớng khách đến các sản phẩm

du lịch có chất lƣợng cao. Thị trƣờng khách Nhật đƣợc chú ý đầy kỳ vọng là

thế hệ sinh sau thế chiến, vì đây là thế hệ đông nhất, dành toàn bộ thời gian

hƣu trí để đi du lịch. Thế hệ ở tuổi 30 độc thân vui tính, họ cố gắng làm việc

thật nhiều và tự thƣởng cho mình những chuyến du lịch ra nƣớc ngoài với chi

phí mua sắm, tiêu xài rất cao. Những phụ nữ thuộc lứa tuổi 20 – 30 là thế hệ

mang tƣ tƣởng “yên bình chậm rãi”, “tròn trịa đầy đặn” rất hiện đại nhƣng

pha chút hoài cổ đã tạo nên trào lƣu “trở về những giá trị truyền thống”. Từ

năm 2000, đã có sự bùng nổ khách Nhật đến Việt Nam và xuật hiện phong

trào “du lịch đến Việt Nam là mốt”. Năm 2000 có 150.000 khách Nhật đến

Việt Nam, năm 2001 con số này là 200.000 ngƣời, năm 2002 là 279.000

ngƣời, đến năm 2003 do ảnh hƣởng của dịch SARS lƣợng khách đi du lịch

Việt Nam giảm hơn 23% là 208.800 ngƣời. Tuy nhiên, nhờ những biện pháp

mạnh đặc biệt là chính sách miễn thị thực đơn phƣơng cho công dân Nhật

Bản, năm 2004 dù gặp nhiều khó khăn nhƣng lƣợng khách Nhật đến Việt

Nam tăng 27,4% so với năm 2003 đạt 267.210. Năm 2005 đạt 338.509 lƣợt và

8 tháng đầu năm 2006 đã đạt 234.973 lƣợt. Ƣớc tính đến năm 2007 Việt Nam

sẽ đón khoảng 500.000 lƣợt khách Nhật. Cùng với việc đề nghị Nhật Bản

quan tâm để du lịch Việt Nam nhận đƣợc nhiều hỗ trợ ODA, Tổng cục du lịch

Việt Nam cũng đề nghị phía bạn nâng cấp trang web tiếng Nhật hiện có hoặc

xây dựng trang web riêng giới thiệu về du lịch Việt Nam bằng tiếng Nhật, hỗ

trợ du lịch Việt Nam đặt văn phòng xúc tiến du lịch tại Nhật Bản. Trong hợp

tác hành lang Đông – Tây, Nhật Bản đã hỗ trợ cử chuyên gia sang khảo sát và

xây dựng dự án khả thi phát triển du lịch làng nghề (làng mây tre đan Phú

Vĩnh – tỉnh Hà Tây, làng thêu ren Ninh Hải – tỉnh Ninh Bình); tổ chức hội

thảo về kinh nghiệm phát triển làng nghề cho 120 đại biểu. Nhân dịp này,

Việt Nam cũng đề nghị phía Nhật Bản xem xét khả năng hỗ trợ xây dựng cơ

sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến quảng bá phát triển du lịch làng

nghề. Tổng cục trƣởng Tổng cục du lịch Việt Nam Võ Thị Thắng cũng cho

biết đã đề nghị phía Nhật Bản tổ chức farmtrip cho các hãng lữ hành, các nhà

đầu tƣ tìm hiểu cơ hội đầu tƣ vào du lịch Việt Nam, hỗ trợ đào tạo tiếng Nhật

cho đội ngũ hƣớng dẫn viên Việt Nam và bồi dƣỡng kiến thức về thị hiếu, văn

hoá của ngƣời Nhật. Các đề nghị này đã đƣợc phía Nhật Bản ghi nhận và tiếp

tục xem xét trong thời gian tới trên tinh thần phối hợp triển khai “Tuyên bố

chung hợp tác du lịch Việt Nam – Nhật Bản” một cách có hiệu quả, hƣớng tới

mục tiêu 500.000 lƣợt khách Nhật Bản đi du lịch Việt Nam vào năm 2007.

Theo Tổng cục du lịch Việt Nam, Nhật Bản luôn nằm trong danh sách 5 thị

trƣờng gửi khách lớn nhất, số khách du lịch Nhật Bản chiếm gần 10%

tổng lƣợng khách vào Việt Nam. [51]

Đến nay, Nhật Bản đã đầu tƣ 11 dự án du lịch – khách sạn ở Việt Nam

với tổng vốn đăng ký 163 triệu USD. Năm 2001, chính phủ Nhật Bản thông

qua cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã hỗ trợ du lịch Việt Nam thực

hiện nghiên cứu tổng thể phát triển du lịch 11 tỉnh ven biển miền Trung.

Tháng 9/2003, Nhật Bản tài trợ cho việc nghiên cứu quy hoạch du lịch các

tỉnh thuộc khu vực trọng điểm kinh tế Bắc Bộ. [63]

Hai nƣớc Việt Nam – Nhật Bản có mối quan hệ tốt đẹp. Nhật Bản là

một trong những thị trƣờng trọng điểm của du lịch Việt Nam, có dƣờng bay

trực tiếp, có số lƣợng khách đi du lịch nƣớc ngoài lớn, chi tiêu cao. Hơn nữa,

Việt Nam đã đơn phƣơng miễn thị thực cho công dân Nhật Bản đi du lịch

Việt Nam. Đồng thời Việt Nam đƣợc đƣa vào danh sách ƣu tiên hỗ trợ ODA

của Nhật Bản. Đây là những điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể thúc đẩy

hợp tác trong lĩnh vực du lịch với Nhật Bản.

Những hoạt động nhằm thu hút khách du lịch Nhật Bản:

- Nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất đón tiếp (phát triển về số lƣợng, chất

lƣợng các phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế).

- Tăng cƣờng tần suất chuyến bay thẳng từ Hà Nội đến Nhật Bản. Hàng

tuần có 3 chuyến bay thẳng Hà Nội – Tokyo (thứ 5, 7, CN); 3 chuyến Hà Nội

– Osaka (thứ 2, 6, 7) và 2 chuyến Hà Nội – HCM – Fukuoka (thứ 2, 4, 7).

- Tổ chức nhiều lớp bồi dƣỡng nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng tổ chức các

chƣơng trình du lịch cho hƣớng dẫn viên tiếng Nhật.

- Tham gia Hội đồng xúc tiến Du lịch châu Á, tổ chức chƣơng trình du

lịch khảo sát tại Nhật Bản, chƣơng trình khảo sát Hà Nội và vùng phụ cận cho

các quan chức du lịch của Tokyo.

- Phối hợp cùng Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, Vietnam Airlines

tổ chức hoạt động xúc tiến nhằm tuyên truyền cho văn hoá Việt Nam, thu hút

khách du lịch Nhật Bản.

- In ấn các ấn phẩm: CD – ROM, tập gấp, các chƣơng trình xúc tiến

giới thiệu Việt Nam với du khách Nhật Bản.

- Phối hợp với Văn phòng đại diện Hà Nội tại Tokyo để tăng cƣờng các

hoạt động quảng bá giới thiệu du lịch Hà Nội.

- Mở văn phòng thông tin về hệ thống chăm sóc sức khoẻ.

- Một trong những điểm thu hút của du lịch Việt Nam là giá cả ở Nhật

Bản rất cao, sang Việt Nam thì họ tiêu tiền rất thoải mái. Vì vậy có thể xây

dựng các tour du lịch shopping, dặc biệt họ cũng rất thích mua hàng lƣu niệm

vì những thứ đó ở Nhật rất đắt.

3.3. Giải pháp khai thác thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là

thị trƣờng trọng điểm

Nhật Bản là một thị trƣờng khách du lịch lớn và hấp dẫn, bởi lẽ mỗi năm

có tới 16 triệu lƣợt ngƣời Nhật Bản đi du lịch nƣớc ngoài. Hơn thế trong khi

đi du lịch nƣớc ngoài, ngƣời dân các nƣớc chỉ chi bình quân 750 USD/ ngƣời,

thì mỗi ngƣời Nhật chi tới 2000 USD/ ngƣời/tour. Việt Nam cũng xác định

Nhật Bản là một trong số các thị trƣờng khách du lịch chính của mình. Vì sao

nhiều du khách Nhật Bản còn chƣa chọn Việt Nam làm điểm đến? Trên thực

tế hiện nay khách du lịch Nhật chủ yếu mới vào Tp. Hồ Chí Minh (đi mua

sắm), một số ít ra thăm Hội An. Lƣợng ngƣời đi du lịch Hà Nội và các tỉnh

phía Bắc hầu nhƣ không đáng kể. Song nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do

công tác tuyên truyền quảng bá còn chƣa tốt và chất lƣợng tour tuyến cũng

chƣa cao.

Do đó ngành du lịch Hà Nội cũng nhƣ ngành du lịch của Việt Nam cần

phải xây dựng định hƣớng cụ thể để khai thác nguồn khách này có hiệu quả.

Luận văn xin đƣa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút nguồn khách đến

đông hơn, đó là:

3.3.1. Đẩy mạnh công tác xúc tiến tuyên truyền, quảng bá du lịch

Trong vài năm trở lại đây, ngành du lịch Việt Nam đón nhận một xu

hƣớng “bùng nổ” dòng khách Nhật đi du lịch Việt Nam. Bình quân mỗi khách

nƣớc ngoài vào Việt Nam chi tiêu 400 – 450 USD, nhƣng mỗi khách Nhật lại

tiêu tới 1.000 – 1.200 USD. [56]

Cơ hội đã dễ nhận thấy nhƣng thách thức cũng luôn là điều khiến cho

nhiều nhà kinh doanh du lịch cân nhắc. Làm thế nào để khai thác cơ hội? Tiếp

nhận và phục vụ du khách nhƣ thế nào để tạo ấn tƣợng tốt? Chính vì vậy cần

nỗ lực trong công tác tiếp thị du lịch. Công tác tuyên truyền, tiếp thị và quảng

bá sản phẩm du lịch là công việc quan trọng. Quảng cáo hiệu quả mà không

lãng phí. Cần xác định:

- Đối tƣợng quảng cáo: Khách Nhật lẻ ở trong nƣớc, khách Nhật ở Nhật

Bản, các hãng lữ hành Nhật Bản, các cơ sở cung cấp dịch vụ trong nƣớc

(chúng ta chủ yếu quảng cáo cho khách thông qua họ).

- Mức độ, vị trí trên thị trƣờng: khắc sâu hình ảnh trong trí nhớ của mọi

đối tƣợng khách, không cứ gì khách Nhật.

- Nắm bắt đƣợc các đặc tính tâm lý của các loại đối tƣợng khách để đƣa

ra các loại quảng cáo phù hợp. Đối với khách Nhật là thƣơng nhân có thu

nhập cao thì nên áp dụng các hình thức quảng cáo qua chất lƣợng dịch vụ và

mức giá cao của các chƣơng trình hạng đặc biệt. Còn với khách là sinh viên,

học sinh có thu nhập thấp thì quảng cáo qua hình ảnh bắt mắt, chƣơng trình

độc đáo đƣợc nhấn mạnh.

Các hình thức quảng cáo có thể dùng là:

Thông tin đại chúng (qua báo chí, phƣơng tiện nghe nhìn).

- Tờ rơi, tập gấp và Catologue bằng tiếng Nhật

- Áp phích thể hiện những hình ảnh tiêu biểu về đất nƣớc, công trình

kiến trúc, cảnh quan hay khía cạnh văn hoá khác trong chƣơng trình

du lịch đó.

- Xây dựng chƣơng trình quảng bá về du lịch qua các sản phẩm nghe

nhìn đặc biệt nhƣ CD - ROM, trên Internet.

- Tiếp tục duy trì thƣờng xuyên các hội chợ, hội thảo, hội nghị về thị

trƣờng khách Nhật.

- Qua việc đài thọ chi phí cho các chƣơng trình phim tƣ liệu về Việt

Nam ở Nhật.

- Bên cạnh việc tiến hành chính sách tuyên truyền với các hàng du lịch

của Nhật Bản, cần đặt văn phòng đại diện và tập trung tiến hành chiến

dịch quảng bá tại các thành phố đông dân cƣ nhƣ Tokyo, Osaka.

Ngoài việc quảng bá cho thị trƣờng khách quốc tế cần phải tăng

cƣờng quảng cáo cho thị trƣờng nội địa. Đƣa ra các thông tin chính

xác, cụ thể về các tuyến du lịch, các địa danh du lịch, mạng lƣới cơ sở

lƣu trú và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, giá cả và chất

lƣợng phục vụ. Đặc biệt cần thúc đẩy công tác tuyên truyền quảng

cáo du lịch bằng nhiều hình thức khác nhau. Phát triển và thực hiện

có hiệu quả hoạt động du lịch, các tổ chức du lịch để thu thập thông

tin về xu hƣớng phát triển nguồn khách, cơ cấu mục đích đi du lịch,

nhu cầu du lịch, đặc điểm tâm lý, khả năng thanh toán của khách

nhằm triển khai hiệu quả các hình thức quảng cáo.

3.3.2. Đa dạng hoá và nâng cao chất lƣợng sản phẩm

Du lịch muốn phát triển mạnh cần thu hút nhiều hơn số lƣợng khách đến

tham quan du lịch, do vậy muốn thu hút nhiều du khách đến Hà Nội cần xây

dựng các chƣơng trình du lịch độc đáo, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới,

mang đậm bản sắc dân tộc. Các sản phẩm mới có thể là du lịch sông Hồng

thăm các làng nghề, du lịch theo chủ đề về cội nguồn dân tộc Việt Nam với

các điểm du lịch là những di tích của ngƣời Việt cổ, du lịch thám hiểm đại

dƣơng, du lịch tham quan các bản làng dân tộc.

Nhằm đáp ứng các nhu cầu của khách, các nhà quản lý và kinh doanh du

lịch không chỉ nghiên cứu để đa dạng hoá làm cho sản phẩm du lịch phong

phú mà còn cần phải thực hiện đồng thời việc nâng cao chất lƣợng của sản

phẩm đó. Có nhƣ vậy mới tạo nên chính sách sản phẩm hiệu quả. Muốn nâng

cao chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ cần phải quan tâm đến mối quan hệ với các

nhà hàng, khách sạn, những cơ sở cung cấp dịch vụ trong chƣơng trình du

lịch. Bên cạnh đó cần nghiên cứu thiết kế mới các chƣơng trình du lịch để đáp

ứng nhu cầu đa dạng của khách Nhật nhƣ tour nghiên cứu văn hoá ẩm thực,

tour làm quen phong tục tập quán và cuộc sống của ngƣời dân địa phƣơng.

Ngoài ra, đối với thị trƣờng khách công vụ: phải chuẩn bị các chƣơng

trình trọn gói từng phần. Mặt khác, cần có những lựa chọn kịp thời, chuẩn xác

các dịch vụ có tính chất quyết định đến sự thoải mái và thuận tiện của đối

tƣợng khách này. Đó là các dịch vụ lƣu trú, ăn uống và vận chuyển theo yêu

cầu của khách. Còn đối với thị trƣờng khách có tuổi đã về hƣu: khách ở đoạn

thị trƣờng này có mục đích đi du lịch sang Việt Nam thông qua các tour trọn

gói của các công ty lữ hành là tìm hiểu và tận hƣởng thiên nhiên tƣơi đẹp vẫn

còn mang nhiều chất nguyên sơ, mang đậm chất trữ tình dễ gây cảm xúc gần

gũi thiên nhiên và cùng với mục đích khám phá truyền thống văn hoá dân tộc

đầy bản sắc và một cốt cách con ngƣời Việt Nam đầy sức hấp dẫn.

Đối với các hãng lữ hành, công ty du lịch, cần cân nhắc kỹ thiết kế

chƣơng trình sao cho càng về cuối khách du lịch sẽ càng có ấn tƣợng sâu sắc

hơn, bất ngờ hơn, thú vị hơn so với giai đoạn đầu. Đồng thời cần kết hợp với

các công ty lữ hành giữ khách bên Nhật đã am hiểu đối tƣợng khách, có nhƣ

vậy một chƣơng trình du lịch mới đảm bảo thành công và đƣợc đánh giá

cao từ phía khách.

Bên cạnh đó cần tăng cƣờng các dịch vụ tại cơ sở lƣu trú để phục vụ đầy

đủ nhu cầu của khách nhƣ: dịch vụ đổi tiền, điện thoại, giặt là, đánh giầy, y

tế... Phát triển và mở rộng hơn nữa các chƣơng trình vui chơi giải trí để khách

tiêu khiển trong thời gian rỗi nhƣ chơi golf, tennis, bowling. Ngoài các món

ăn truyền thống Việt Nam, Hà Nội cần phát triển nhiều hơn các quán ăn Nhật

Bản đặc biệt là các quán ăn nhanh nhằm phục vụ thị trƣòng khách này. Chú

trọng phát triển hàng thủ công mỹ nghệ. Theo đánh giá của ông Riku Emoto,

chuyên gia tƣ vấn cao cấp của JETRO (Tổ chức xúc tiến thƣơng mại Nhật

Bản) thì mỹ nghệ Việt Nam từ đồ gia dụng, trang trí nội thất đến quà tặng đều

có sự sáng tạo về màu sắc, kiểu dáng, mẫu mã, nhất là nét văn hoá dân tộc thể

hiện trên sản phẩm. Chính vì vậy cần phải nâng cao chất lƣợng sản phẩm và

giá cả hợp lý.

3.3.3. Nâng cao chất lƣợng đội ngũ lao động

Với khách du lịch Nhật Bản thì chất lƣợng phục vụ đƣợc đặt lên hàng

đầu. Chính vì vậy các nhà kinh doanh du lịch cũng nhƣ các hƣớng dẫn viên

phải không ngừng trau dồi thêm kiến thức, tìm hiểu về thị trƣờng và các đặc

tính tâm lý tiêu dùng của khách Nhật. Muốn vậy cần phải xây dựng đội ngũ

nhân viên theo đúng các tiêu chuẩn đặt ra nhằm phát triển nguồn nhân lực. Du

lịch Việt Nam cũng có đang kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn, ngoại

ngữ để có đủ hƣớng dẫn viên thành thạo tiếng Nhật hiểu biết đƣợc tâm lý, tập

quán của khách Nhật, đáp ứng đƣợc tốc độ tăng nhanh lƣợng khách đến từ

Nhật Bản.

*Trƣớc mắt, cần xây dựng tiêu chuẩn cho các nhân viên trực tiếp liên

quan đến công tác phục vụ khách.

- Đối với nhân viên xây dựng chƣơng trình

+ Phải có trình độ kinh tế du lịch và ngoại ngữ

+ Hiểu biết sâu sắc các tuyến điểm

+ Luôn phải cập nhật thông tin về các nhà cung cấp, về chất lƣợng,

về giá cả và dịch vụ.

+ Phải có sự hiểu biết sâu rộng về văn hoá dân tộc nhƣ lễ hội, tập

quán ăn uống... giúp họ xây những chƣơng trình mang tính sáng tạo và phong

phú hơn.

+ Cần có sự hăng say, nhiệt tình trong công việc.

- Đối với nhân viên điều hành

+ Có trình độ kinh tế du lịch và ngoại ngữ

+ Có khả năng hiểu biết và hình dung đƣợc các chƣơng trình du lịch

mà sắp tiến hành

+ Khả năng điều hành và xử lý tình huống nhanh nhạy

+ Khả năng ngoại giao

- Đối với hƣớng dẫn viên

+ Đủ các tiêu chuẩn của Tổng cục Du Lịch Việt Nam đề ra trong

Quy chế hƣớng dẫn viên và Pháp lệnh du lịch.

+ Có kinh nghiệm

+ Hiểu biết sâu về lịch sử văn hoá, tâm lý khách du lịch Nhật

+ Năng nổ, hoạt bát, xử lý các tình huống phát sinh nhanh nhạy và

khéo léo.

*Ngoài ra cần xây dựng một cơ chế, nội quy tuyển chọn nhân viên, đặc

biệt là hƣớng dẫn viên tiếng Nhật, căn cứ vào những công việc đã qui định

tiêu chuẩn. Có kế hoạch tuyển chọn nhân viên mới (đặc biệt là các hƣớng dẫn

viên) qua việc tiếp xúc, trợ giúp một số sinh viên du lịch, ngoại ngữ

có khả năng.

*Bố trí nhân viên hợp lý đúng ngƣời đúng việc, tạo cơ hội cho nhân viên

đƣợc nói ý kiến của mình nhiều hơn thông qua các cuộc họp, thảo luận nghề

nghiệp, tổ chức thi đua nghiên cứu khoa học giúp cho việc đề xuất các sản

phẩm mới.

*Tổ chức bồi dƣỡng trình độ nhân viên thông qua các lớp học ngắn hạn.

Đề xuất với Tổng cục du lịch về việc cấp thẻ hƣớng dẫn viên thông qua việc

kiểm tra thực tế khả năng hƣớng dẫn.

Song song với việc đào tạo nguồn nhân lực thì việc tuyên truyền sâu

rộng đến nhân dân tại địa phƣơng là rất cần thiết bởi phát triển du lịch đã trở

thành mối quan tâm chung của tất cả các tầng lớp nhân dân. Vai trò của ngƣời

dân trong việc phát triển kinh doanh du lịch rất quan trọng. Ngoài các yếu tố

nhƣ chất lƣợng dịch vụ, giá cả, nhân viên phục vụ thì ý thức, thái độ cƣ xử

của ngƣời dân địa phƣơng luôn để lại những ấn tƣợng sâu sắc trong lòng

khách du lịch. Vì vậy cần phải có những chƣơng trình tuyên truyền, giáo dục

về du lịch cho nhân dân nhằm nâng cao dân trí, bảo vệ môi trƣờng, giữ gìn

các di tích văn hoá và dân tộc.

3.3.4. Tăng cƣờng đầu tƣ kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật du lịch

- Nâng cấp khách sạn đạt tiêu chuẩn và tổ chức xây dựng các khu vui

chơi giải trí nhằm nâng cao chất lƣợng phục vụ khách du lịch. Do vậy ngành

du lịch cần thu hút nhiều khả năng đầu tƣ, xây dựng và quản lý các công ty du

lịch một cách hoàn thiện nhất và có hiệu quả nhất để đáp ứng đƣợc các nhu

cầu của khách du lịch.

- Cải thiện nâng cấp hệ thống giao thông đƣờng bộ, hàng không. Cải

thiện và xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tại điểm du

lịch. Việc mở đƣờng bay thẳng Nakita – Hà Nội trong tƣơng lai cũng sẽ giúp

Hà Nội và các vùng phụ cận đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá. Hy vọng khách

Nhật sẽ tới du lịch phí Bắc Việt Nam đông hơn. Song song với quá trình xây

dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần chú ý đến tính đồng bộ và hoàn chỉnh để hấp

dẫn du khách.

3.3.5. Thúc đẩy hợp tác du lịch

Lãnh đạo ngành du lịch hai nƣớc Việt – Nhật đang xúc tiến nhiều giải

pháp nhằm mục tiêu thu hút nửa triệu lƣợt du khách Nhật vào Việt

Nam năm 2007.

Theo Tổng cục trƣởng Tổng cục Du lịch Võ Thị Thắng, để thúc đẩy hợp

tác du lịch tƣơng xứng với tiềm năng hai nƣớc, tại cuộc gặp gỡ song phƣơng

với ông Ken Haruta, Thứ trƣởng Bộ Lãnh thổ, hạ tầng và vận tải Nhật Bản

(cơ quan cao nhất của Nhật Bản về du lịch) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ

trƣởng du lịch APEC diễn ra tại Hội An từ ngày 16 đến 18 – 10 vừa qua, lãnh

đạo Tổng cục trƣởng Tổng cục du lịch đã đề nghị hai bên tiếp tục phối hợp

triển khai nội dung tuyên bố chung hợp tác du lịch Việt Nam – Nhật Bản một

cách có hiệu quả.

Đặc biệt vào ngày 5 – 4 – 2005, Tổng cục trƣởng Tổng cục Du lịch Võ

Thị Thắng và Bộ trƣởng Bộ Lãnh thổ, hạ tầng và vận tải Nhật Bản đã ký

tuyên bố chung hợp tác du lịch hai nƣớc, hƣớng vào một số lĩnh vực nhƣ trao

đổi khách du lịch, xúc tiến quảng bá du lịch, trao đổi chuyên gia, đào tạo và

phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích đầu tƣ. Thực hiện tuyên bố chung

này, hai bên đã nhất trí thành lập Ủy ban Hợp tác du lịch Việt Nam – Nhật

Bản (VJTCC). Uỷ ban này sẽ họp thƣờng niên để thảo luận, thống nhất những

phƣơng hƣớng, nội dung kế hoạch hành động hợp tác du lịch hai nƣớc, địa

điểm và thời gian các phiên họp tiếp theo. Trên cơ sở đó, hai bên tiếp tục trao

đổi ở cấp chuyên viên để triển khai các chƣơng trình hợp tác cụ thể. Tại phiên

họp thứ nhất tổ chức ở Đà Lạt tháng 8 – 2005, VJTCC đã thảo luận và thống

nhất đƣợc một kế hoạch hành động hợp tác du lịch giữa hai nƣớc.[51]

3.3.6. Giáo dục du lịch toàn dân

Cách ứng xử của du khách và thái độ của họ đối với vùng du lịch là chìa

khoá dẫn đến du lịch bền vững. Vì vậy giải thích, thuyết phục, thông tin và

giáo dục là việc làm mà các nhà kinh doanh du lịch thƣờng xuyên phải thực

hiện. Phát triển các chƣơng trình đào tạo mới cho cán bộ kinh doanh du lịch

để giúp họ thực hiện tốt chức năng này.

Du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang khách hàng đến sản phẩm chứ

không mang sản phẩm đến khách hàng. Sản phẩm ở đây bao gồm không chỉ

không gian môi trƣờng nơi cộng đồng địa phƣơng sử dụng hoặc sở hữu mà

còn là chính cộng đồng địa phƣơng với bản sắc văn hoá của họ. Giáo dục du

lịch toàn dân bao gồm các lĩnh vực sau:

- Tham gia quy hoạch phát triển du lịch.

- Tham gia vào việc lập quyết định liên quan đến phát triển của điểm du lịch.

- Tham gia hoạt động và quản lý hoạt động du lịch ở những vị trí thích hợp.

- Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.

- Không gây rối, phiền toái cho du khách.

- Không làm xấu cảnh quan và xâm hại đến tài nguyên du lịch

Sự không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ của cộng đồng địa

phƣơng sẽ khiến chính họ trở thành sản phẩm bị bán cho hoạt động du lịch,

hoặc họ sẽ khai thác tài nguyên du lịch theo kiểu của họ, không có lợi cho du lịch.

3.3.7. Phối hợp liên ngành để phục vụ khách

Phát triển du lịch phải tăng cƣờng đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế.

Việc hợp tác du lịch quốc tế sẽ tạo nhiều cơ hội để học hỏi kinh nghiệm, trao

đổi thông tin du lịch và cùng nhau phát triển. Hợp tác quốc tế là cơ hội để Hà

Nội thu hút đầu tƣ cho ngành du lịch, tạo điều kiện và sự quan tâm của các tổ

chức quốc tế đối với ngành du lịch Việt Nam cũng nhƣ du lịch Hà Nội, tăng

cƣờng khả năng đón khách du lịch trong nƣớc và nƣớc ngoài. Hoà nhập vào

môi trƣờng quốc tế giúp cho du lịch Hà Nội có thể tự khẳng định mình, thúc

đẩy các hoạt động du lịch phát triển.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang tính liên ngành, liên

vùng và xã hội hoá cao. Vì vậy ngành du lịch cần có sự phối hợp của các

ngành có liên quan từ Ngoại giao, Công an, Hải quan, Quốc phòng, Hàng

không, Giao thông - Vận tải, Văn hoá, Bƣu chính viễn thông, Tài chính, Đầu

tƣ, Khoa học - Công nghệ - Môi trƣờng. Cần có kế hoạch tăng cƣờng năng lực

vận chuyển hàng không đáp ứng kịp thời nhu cầu tăng khách du lịch với chất

lƣợng phục vụ tốt hơn, giá cả phù hợp hơn. Vấn đề môi trƣờng, văn hoá du

lịch trong du lịch cũng phải đƣợc quan tâm chỉ đạo, triển khai tốt hơn. Giao

thông - Vận tải, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp điện, nƣớc... cũng cần đƣợc

triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm hơn, ƣu tiên cho các vùng trọng

điểm du lịch.

Tóm lại, sự phối hợp liên ngành là rất cần thiết đồng thời phải có sự giúp

đỡ của chính quyền địa phƣơng để giúp du khách giảm bớt đƣợc những lo

lắng về tệ nạn ăn xin, hàng rong. Bên cạnh đó trong nội bộ ngành du lịch cũng

cần phải phát triển cân đối, hỗ trợ lẫn nhau.

3.4. Các khuyến nghị

Những giải pháp trên chỉ có thể thực hiện đƣợc và đạt kết quả tốt khi có

đƣợc sự quan tâm và giúp đỡ của Nhà nƣớc, các bộ, ngành. Do vậy, tác giả

xin phép đƣa ra khuyến nghị với Nhà nƣớc, các ngành một số vấn đề nhƣ sau:

3.4.1. Đối với Chính phủ và các ngành có liên quan về du lịch

- Mở văn phòng du lịch quốc gia, trƣớc tiên là tại các thị trƣờng trọng

điểm nhƣ Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Úc, Pháp… để

nghiên cứu, thu thập thông tin về thị trƣờng du lịch và quảng bá, xúc tiến các

sản phẩm du lịch Việt Nam tới thị trƣờng quốc tế.

- Nhà nƣớc cần đánh giá kết quả và hiệu quả của các chƣơng trình hợp

tác đã ký kết trên cơ sở hiệp định với một số nƣớc nhƣ Thái Lan, Lào,

Singapore... Từ đó rút ra kinh nghiệm và bài học nhằm tiếp tục điều chỉnh nội

dung và hình thức hợp tác đối với từng nƣớc cho phù hợp

- Nâng cao hiểu biết nhận thức về hợp tác và hội nhập cho các

doanh nghiệp.

- Nhà nƣớc và Uỷ Ban Nhân Dân thành phố cần đẩy mạnh việc xây

dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng trên toàn thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho

du lịch phát triển.

*Kiến nghị với Cục hàng không dân dụng Việt Nam trong việc:

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty du lịch tham gia mạng lƣới đại

lý vé máy bay tốt hơn nữa.

- Hiện nay việc Airport taxi một mình độc quyền hoạt động trong sân

bay gây nhiều trở ngại cho các công ty du lịch vì họ không đƣợc đƣa xe của

công ty vào sân bay đƣa đón khách, và nếu khách cần di chuyển với cự ly

ngắn thì các tài xế của Airport taxi thƣờng từ chối. Tuy nhiên tình hình đã

đƣợc cải thiện với việc đƣa các tuyến xe buýt vào hoạt động trong sân bay.

Trong khi các công ty du lịch không thể để du khách đi xe buýt mà vẫn cần

đƣợc tự do ra vào sân bay đƣa đón khách.

*Với Bộ Văn hóa - Thông tin

- Phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để thống nhất quy chế khai thác,

sử dụng các di tích, thắng cảnh vào việc phát triển du lịch.

- Cải tạo lại điều kiện phục vụ tại các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du

lịch tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở thêm nhiều sản phẩm

có sức hấp dẫn.

- Cải thiện một cách căn bản môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội

tại các điểm du lịch có đông khách du lịch quốc tế làm cho khách có ấn tƣợng

tốt đẹp về các điểm du lịch của Việt Nam.

- Tích cực khai thác và tu bổ các khu du lịch đã hình thành ở các địa

phƣơng, nhanh chóng quy hoạch và đầu tƣ xây dựng một số khu du lịch có

tầm cỡ quốc gia, tạo ra các sản phẩm du lịch đồng bộ có chất lƣợng cao.

*Tổng cục hải quan.

- Thủ tục hải quan tại các sân bay quốc tế Việt Nam còn chậm (sân bay

Tân Sơn Nhất chỉ có 12 quầy làm thủ tục, mà lúc cao điểm có tới khoảng

2.000 khách cùng một lúc nên phải chờ đợi rất lâu. Đặc biệt có đoàn phải mất

3 giờ đồng hồ mới làm xong thủ tục, du khách rất mệt mỏi và chán nản)

- Tổng cục hải quan nên tạo cho khách du lịch quốc tế cũng nhƣ khách

du lịch nội địa thấy đƣợc văn minh lịch sự trong hoạt động kiểm tra hành lý,

hƣớng dẫn khách làm thủ tục.

- Bộ Văn hoá - Thông tin và Tổng cục hải quan cần có qui định cụ thể về

việc buôn bán, chuyên chở xuất khẩu đồ giả cổ cho khách du lịch nói chung

và khách Nhật nói riêng để khuyến khích họ mua nhiều hàng thủ công mỹ

nghệ Việt Nam.

*Với Bộ Công an, Bộ ngoại giao

- Hai bộ này nên phối hợp, cải tiến, đơn giản hoá, thuận tiện nhanh

chóng hơn trong việc xét duyệt nhân sự, cấp hộ chiếu, thị thực cho khách xuất

nhập cảnh về các thủ tục giải quyết chung.

- Các bộ này cũng phải có biện pháp hữu hiệu bảo đảm an ninh an toàn

cho khách nhất là du khách Nhật, cần hạn chế tình trạng lấy cắp đồ, cƣớp giật,

ăn xin bám theo và tâm lý ức chế vì gây phiền cho khách.

Nhà nƣớc cần có sự tiêu chuẩn hoá về sản phẩm đối với hoạt động kinh

doanh lữ hành để vấn đề quản lý chất lƣợng chƣơng trình du lịch tại các

doanh nghiệp du lịch trở thành một trong những hoạt động quan trọng, cơ bản

của hoạt động kinh doanh lữ hành.

3.4.2. Đối với Tổng cục du lịch

- Tổng cục du lịch cần tăng cƣờng triển khai các cuộc họp hai bên giữa

lữ hành Việt Nam và Hiệp hội lữ hành Nhật Bản, tạo mối liên kết giữa các

doanh nghiệp để cùng khai thác hiệu quả thị trƣờng. Việc các doanh nghiệp lữ

hành Việt Nam tiếp xúc với các hiệp hội là điều kiện để mở rộng mối quan hệ

trong kinh doanh và thu hút thêm khách du lịch.

- Tổ chức phổ biến, quán triệt và triển khai Luật du lịch. Tuyên truyền

phổ biến sâu rộng trong toàn ngành du lịch và trong nhân dân về các văn bản

liên quan của Tổng cục du lịch. Thƣờng xuyên kiểm tra việc thi hành Luật du

lịch, kịp thời đánh giá rút kinh nghiệm về tổ chức thực hiện.

3.4.3. Đối với địa phƣơng

- Xây dựng các làng nghề, làng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ

khách tham quan, mua sắm hàng lƣu niệm.

- Nghiên cứu và tích cực tháo gỡ khó khăn để xây dựng các loại hình du

lịch mới do các hãng lữ hành quốc tế đề xuất (nhƣ du lịch ô tô, mô tô, máy

bay, lặn biển, lƣớt ván, nhảy dù). Đồng thời giúp đỡ các công ty lữ hành cùng

các thành phần kinh tế xây dựng một số loại hình du lịch độc đáo nhƣ: đua

chó do Vũng Tàu đề xuất, săn bắn, du lịch sinh viên, open tour cho khách du

lịch ba lô...).

- Cần tổ chức giáo dục ý thức toàn dân, quản lý di tích lịch sử, danh lam

thắng cảnh của địa phƣơng mình nói riêng và cho ngành du lịch của đất nƣớc

nói chung. Tăng cƣờng phối hợp liên ngành để chấn chỉnh an ninh trật tự, vệ

sinh môi trƣờng an toàn, an ninh cho khách.

3.4.4. Đối với các doanh nghiệp

- Tăng cƣờng công tác tiếp thị, quảng bá du lịch Việt Nam qua Internet

cả về nội dung lẫn hình thức.

- Tiếp tục duy trì việc nâng cao chất lƣợng dịch vụ thể hiện trong thông

tin, tiếp thị, công tác hƣớng dẫn, điều hành.

- Mở rộng các loại hình kinh doanh và các dịch vụ bổ sung để tăng

nguồn thu, tạo thêm sức hấp dẫn đối với du khách và giải quyết lao động.

- Từng bƣớc ổn định nhân sự phù hợp với yêu cầu kinh doanh, đề cao ý

thức tiết kiệm và tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ.

- Đẩy mạnh hơn nữa công tác thi đua, ban hành một số qui chế mới về

tiêu chuẩn định mức và biện pháp thƣởng phạt hàng tháng. Đồng thời tăng

cƣờng kiểm tra khâu quản lý, hoạt động kinh doanh, sắp xếp cán bộ, công

nhân viên phù hợp với những việc đƣợc giao, đảm bảo đem lại

hiệu quả cao nhất.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Tóm lại, thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản có thể đƣợc coi là thị trƣờng

trọng điểm đối với du lịch Việt Nam cũng nhƣ đối với du lịch Hà Nội. Đây là

đối tƣợng có yêu cầu cao về sản phẩm du lịch nên tìm hiểu đặc điểm tâm lý là

hết sức cần thiết nhằm xây dựng và tổ chức các chƣơng trình du lịch có khả

năng hấp dẫn, khai thác có hiệu quả thị trƣờng khách này. Bởi xét về xu

hƣớng tiêu dùng của du khách Nhật Bản khi tới Việt Nam là vô cùng phong

phú. Chính vì vậy, cần có chính sách quảng cáo du lịch cũng nhƣ các sản

phẩm tour du lịch chất lƣợng cao, giá cả phù hợp để khai thác thị trƣờng

khách du lịch Nhật Bản dựa trên những sở thích tiêu dùng. Mặt khác phải

quan tâm nhiều hơn đến việc nghiên cứu thị trƣờng du lịch và đề ra các chiến

lƣợc kinh doanh hợp lý hơn cũng nhƣ các biện pháp khả thi để khai thác

khách du lịch Việt Nam nói chung cũng nhƣ khách du lịch Nhật Bản nói riêng

nhằm đẩy mạnh và phát triển hơn nữa du lịch Việt Nam.

KẾT LUẬN

Nhật Bản là thị trƣờng gửi khách hàng đầu trên thế giới. Hiện còn vấp

phải một số khó khăn do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu

vực, nhƣng Nhật Bản vẫn luôn là thị trƣờng đầy hấp dẫn đối với du lịch Việt

Nam. Con số 0,73% lƣợt khách Nhật đến Việt Nam là quá nhỏ bé so với 16

triệu khách du lịch ở nƣớc ngoài hàng năm. Để đạt đƣợc 6 – 7 triệu lƣợt

khách đến năm 2010. Du lịch Việt Nam cần có chiến lƣợc đầu tƣ vào từng thị

trƣờng trọng điểm, đặc biệt là Nhật Bản. So với các nƣớc Âu, Mỹ, việc thu

hút khách Nhật đến Việt Nam có nhiều thuận lợi vì khoảng cách đi lại ngắn,

Việt Nam và Nhật Bản đã có truyền thống quan hệ hữu nghị, gần gũi về văn

hoá, nhân dân Nhật Bản vốn có cảm tình với Việt Nam. Chính vì vậy, để tăng

lƣợng khách đến Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung đầu tƣ cho thị

trƣờng Nhật Bản cả trong công tác xúc tiến và nâng cấp tiêu chuẩn dịch vụ

phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của du khách Nhật.

Khách du lịch Nhật Bản đến Hà Nội cũng nhƣ đến Việt Nam đã có chiều

hƣớng tăng. Đây là thị trƣờng khách có những đặc điểm đặc trƣng về tâm lý

cũng nhƣ về sở thích tiêu dùng du lịch, thuận lợi cho việc khai thác bởi có

những nét tƣơng đồng về địa lý, lịch sử và văn hoá với Việt Nam.

Từ tốc độ tăng trƣởng nhanh của lƣợng khách du lịch Nhật Bản tới Việt

Nam thời gian qua có thể dự báo rằng: trong vòng một hoặc hai năm tới, mức

tăng này sẽ lên gấp 2 - 3 lần và tới năm 2007, Việt Nam có thể đón 500.000 -

700.000 khách từ thị trƣờng khách này. Đây cũng là con số đáng mừng song

cũng là những thách thức. Tuy nhiên, triển vọng khai thác khách du lịch từ thị

trƣờng Nhật Bản đang có những tín hiệu khả quan.

Số lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng

rõ ràng còn là rất khiêm tốn. Ở đây có nhiều nguyên nhân, chẳng hạn nhƣ vấn

đề quảng cáo và vấn đề chất lƣợng dịch vụ của ta còn hạn chế. Từ đó đặt ra,

chúng ta sẽ còn phải phấn đấu rất nhiều trong tƣơng lai mới có thể đuổi kịp và

cạnh tranh đƣợc với các quốc gia khác trong cùng khu vực trong việc thu hút

khách du lịch Nhật Bản, bằng cách in nhiều ấn phẩm quảng bá du lịch bằng

tiếng Nhật, phát hành rộng rãi để dân chúng Nhật biết về các sản phẩm hấp

dẫn của du lịch Việt Nam. Bên cạnh đó, cần chỉ đạo cho các địa phƣơng, các

công ty du lịch nâng cao chất lƣợng dịch vụ, kéo dài tour tuyến, chú trọng

phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng hƣớng

dẫn viên và lễ tân thạo tiếng Nhật cũng nhƣ tăng cƣờng các hãng lữ hành của

Nhật vào thăm Việt Nam để giới thiệu rõ nét hơn về Việt Nam. Trong tƣơng

lai, ngành cũng phải nghiên cứu trình Chính Phủ cho phép đặt Văn phòng đại

diện của Tổng cục du lịch Việt Nam tại thị trƣờng Nhật Bản đồng thời có

chính sách khuyến khích về thủ tục visa đối với khách du lịch Nhật Bản.

Những chính sách trên đƣợc đƣa ra để thu hút khách du lịch Nhật Bản đã

và sẽ mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp. Để lƣu giữ khách đƣợc lâu hơn cũng nhƣ

khách tiếp tục quay trở lại nhiều hơn khoá luận đã đƣa ra một số giải pháp

nhƣ chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách tuyên truyền quảng bá

sản phẩm du lịch, chính sách phân phối, đào tạo nguồn nhân lực và tăng

cƣờng mối quan hệ hợp tác liên ngành. Ngoài ra vấn đề giữ gìn môi trƣờng du

lịch cần đƣợc coi là nhiệm vụ hàng đầu. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể khai

thác lƣợng khách nhiều và ổn định từ thị trƣờng cao cấp này.

Hà Nội là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Với những tiềm năng

về tự nhiên, văn hoá, kinh tế, xã hội, Hà Nội có đầy đủ điều kiện để phát triển

tốt về du lịch. Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm tâm lý và sở

thích tiêu dùng du lịch khoá luận phần nào sẽ giúp cho các nhà kinh doanh du

lịch có những định hƣớng đúng nhằm khai thác thị trƣờng khách Nhật đông

hơn. Đồng thời qua quá trình thực hiện nghiên cứu và đánh giá các nội dung

trên khoá luận cũng đƣa ra một số khuyến nghị với Chính phủ và các ngành

có liên quan về du lịch, với Tổng cục du lịch, địa phƣơng và các

doanh nghiệp du lịch.

Với những gợi ý khiêm tốn, tác giả hy vọng rằng bài luận văn của mình

sẽ là một tài liệu tham khảo có ích đối với các doanh nghiệp du lịch và đối với

những ai quan tâm nghiên cứu về thị trƣờng khách Nhật Bản, ngoài ra tác giả

cũng mong bổ sung thêm nhiều ý kiến, ý tƣởng mới giúp cho luận văn đƣợc

hoàn chỉnh và việc khai thác thị trƣờng khách Nhật Bản ngày một tốt hơn, có

hiệu quả hơn.

THƢ MỤC SÁCH THAM KHẢO

A/ Tiếng Việt

1. Allent Cheng (2001), “Việt Nam: thiên đƣờng mua sắm của phụ nữ Nhật”,

Báo Tuổi trẻ chủ nhật (số 6) (18/2/2001), tr 37.

2. Nguyễn Văn Ân (2000), “Những quy tắc giao tiếp của ngƣời Nhật Bản”,

Nghiên cứu Nhật Bản (số 4), tr 44 - 47.

3. Thuý Bình (1999), “Ấn tƣợng Nhật Bản”, Báo Tuần Du lịch (số 45), tr 11.

4. Thuý Bình (2000), “Làm thế nào để thu hút khách du lịch Nhật Bản?”, Báo

Du lịch (số 41) (11/8/2000), tr 12.

5. Nhật Chiêu (1995), “Nhật Bản trong chiếc gương soi”, NXB Giáo dục, Hà

Nội, 204 tr.

6. Đinh Thị Vân Chi (2004), “Nhu cầu của du khách trong quá trình du lịch”,

NXB Văn Hoá - Thông tin, Hà Nội, 220 tr.

7. Phong Châu (1998), “Du khách Nhật nguồn tiềm năng nhƣng..”, Du lịch

Việt Nam (số 11), tr 31.

8. Phạm Chiến (1998), “Du khách Nhật Bản những điều thêm”, Du lịch Việt

Nam (số 5), tr 33.

9. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh (1995), “Giáo trình tâm lý và nghệ

thuật giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh du lịch”, NXB Thống kê, Hà Nội,

268 tr.

10. “Để giữ chân khách Nhật” (2005), Thời báo kinh tế Sài Gòn (số 9), tr 28.

11. Fukushima Emi (2004), “Những bí ẩn quanh cội nguồn của văn hoá

Nhật”, Tạp chí Nipponia (số 13), tr 32.

12. “Gương mặt Nhật Bản” (1998), NXB Thế giới, Hà Nội, 40 tr.

13. “Hình ảnh Nhật Bản ngày nay”(1992) - Tập đoàn Japan Graphic xuất bản.

14. Hamano Takayoshi (2002), “Comparing Quality of life in Japan, US,

Europe “, Nghiên cứu Nhật Bản (số 4) (22) 8.

15. Hội thông tin giáo dục quốc tế (1991), “Nhật Bản ngày nay”, NXB Thông

tin lý luận, Hà Nội, 257 tr.

16. Hồ Hoàng Hoa (2001), “Văn hoá Nhật những chặng đường phát triển” –

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 252 tr.

17. Nguyễn Cƣờng Hiền (1997), “Đặc điểm tâm lý khách du lịch một số

nƣớc”, Du lịch Việt Nam (số 55) (11/1997), tr 26.

18. Kishi Asako (2004), “Tính văn hoá trong món ăn Nhật”, Tạp chí Nipponia

(số 12), tr 28.

19. Trần Văn Kinh (1998), “Tìm hiểu về đặc điểm của văn hoá Nhật Bản”,

Nghiên cứu Nhật Bản (số 3)(15)-1998, tr 37 - 42.

20. Nguyễn Văn Lê, “Tâm lý học du lịch”, NXB Trẻ, 208 tr.

21. Phan Ngọc Liên, Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc Bảo, Đỗ Thanh Bình, Trần

Thị Vinh (1997), “Lịch sử Nhật Bản”, NXB Văn hoá- Thông tin, Hà Nội,

224 tr.

22. Bích Loan (200)), “Doanh nghiệp du lịch Nhật Bản nghĩ gì về du lịch Việt

Nam”, Báo Du lịch (số 59) (15/12/2000), tr 4.

23. Hoàng Long (2000), “Thu hút khách du lịch Nhật Bản bằng cách nào?”,

Báo Du lịch (số 54) (10/11/2000), tr 6.

24. Phạm Công Luận, Asako Kato (1998), “Những sắc màu Nhật Bản”, NXB

Trẻ, 1998, 135 tr.

25. Naoto Katsumata (1998), “Những xu hƣớng chính tác động tới thị trƣờng

khách Nhật đi du lịch nƣớc ngoài”, Du lịch Việt Nam (số 4), tr 26 - 27.

26. Nguyễn Mạnh (1998), “Giao tiếp và phục vụ khách du lịch Nhật Bản”,

Báo Tuần Du lịch (số 50), tr 12.

27. Nguyễn Mạnh (1998), “Khái quát về đất nƣớc và con ngƣời Nhật Bản”,

Báo Tuần Du lịch (số 48), tr 12 & 14.

28. Nguyễn Mạnh (2002), “Những điều cần biết của nhân viên phục vụ khách

Nhật Bản”, Báo Tuần Du lịch (số 51), tr 12.

29. Nguyễn Mạnh (2002), “Những sở thích và thói quen của ngƣời Nhật “,

Báo Tuần Du lịch (số 49), tr 12.

30. Lê Văn Minh (2001), “Lựa chọn thị trƣờng nào cho du lịch Việt Nam phát

triển bền vững”, Du lịch Việt Nam (số 3), tr 14.

31. Các Ngọc (2005), “Ngƣời Nhật rất chuộng hàng thủ công mỹ nghệ Việt

Nam”, Báo Thương mại (số 27), tr 4.

32. Hữu Ngọc (1993), “Chân dung văn hoá đất nƣớc mặt trời mọc”, NXB

Thế giới, Hà Nội, 273 tr.

33. “Nƣớc Nhật và ngƣời Nhật”, The Association for Overseas Technical

Scholarship (AOTS), 39 tr.

34. Đào Minh Ngọc (2005), “Đặc tính và xu hƣớng thị trƣờng khách du lịch

Nhật Bản tại Việt Nam”, Văn hoá đời sống (số 8), tr 58.

35. Nobu Okada, “Hƣớng dẫn khách du lịch Nhật Bản nhƣ thế nào?”, Du lịch

Việt Nam (số10)/2001, tr 33 - 34 và (số 11)/2002, tr 29.

36. Ngô Thị Thanh Phƣơng (2005), “Vài nét về giao lƣu văn hoá Nhật Bản-

Việt Nam trong những năm gần đây”, Nghiên cứu Nhật Bản (số 4), tr 51-52.

37. Sanada Kuniko (2005), “Văn hoá quán cà phê”, Tạp chí Nipponia (số 20),

tr 24 - 25.

38. Sanada Kuniko (2005), “Ở Nhật ngƣời ta ăn rất nhiều hải sản”, Tạp chí

Nipponia (số 21), tr 14 - 15.

39. Sở Du lịch Hà Nội (2005), “Báo cáo tổng kết nhiệm vụ 5 năm 2001 –

2005 và phương hướng 2006 – 2010” (số 131/ SDL – KHTH).

40. Trần Đức Thanh, “Nhập môn khoa học du lịch”, NXB ĐHQG Hà Nội,

216 tr.

41. Phƣơng Thảo (2000), “Nƣớc Nhật và tính cách ngƣời Nhật Bản”, Báo

Tuần Du lịch (số 57) (1/12/2000), tr 5.

42. Đức Trung (2000), “Tuần Việt Nam” và thị trƣờng Nhật Bản”, Du lịch

Việt Nam (số 11), tr 4.

43. Lê Anh Tuấn (2000), “Thực trạng của khách du lịch Nhật Bản đến Việt

Nam và đôi điều suy nghĩ”, Nghiên cứu Nhật Bản (số 1)(25), tr 42-45.

44. Lê Anh Tuấn (2001), “Tiềm năng và đặc điểm của thị trƣờng khách du

lịch Nhật Bản”, Nghiên cứu Nhật Bản (số 4)(22) (8/2001), tr 49-53.

45. “Triển vọng hợp tác Việt - Nhật về đầu tƣ và du lịch”, Báo Kinh tế và đô

thị (số 474) (9/4/2005), tr 4.

46. V.A Pronnikov, I.D Ladanov (1989), “Ngƣời Nhật”, NXB Tổng hợp Hậu

Giang, Quyển 1), 297 tr.

B/ Tiếng nƣớc ngoài

47. Enjoy Japan - Japan Travel Bureau. Inc.

48. Hello Japan 2004- 2005

49. Japan National Tourist Organization - Your guide to Japan.

C/ Địa chỉ mạng

50. Bí quyết làm ăn với ngƣời Nhật

www.vietnamnet.vn/kinhte/kinhdoanh/2006/02/541122

51. Năm 2007, Việt Nam sẽ đón 500.000 lƣợt du khách Nhật Bản

http://www.webdulich.com/index.php?act=normal_link&act2=article_detail&

category_sub_id=67&article_id=27967 (theo nguồn VietNamNet –

11/11/2006)

52. Việt Nam sẽ đón 3,2 triệu lƣợt khách du lịch năm 2005

http://www.mofa.gov.vn/tt_baochi/nr041126171753

53. Xuân Hoà - Khách Nhật: Du lịch đến Việt Nam đang là mốt

http://www.nld.com.vn/tintuc/loi-song/du-lich/105100.asp (19/11/2004)

54. Trên 88% du khách Nhật mê món ăn Việt Nam

http://www.nld.com.vn/tintuc/loi-song/du-lich/104869.asp (17/11/2004)

55. Việt Nam: Điểm đến an toàn và hấp dẫn du khách Nhật Bản

http://www.mofa.gov.vn/quocte/viet_nhat/vn%20vanhoa.htm

56. Trƣơng Hiệu - Du khách Nhật càng tăng, thách thức càng lớn

http:// www.vnn.vn/kinhte/2004/07/177261/ (18/7/2004)

57. http://www.vietnamtourism.gov.vn/

http://210.245.5.189/gov/index.php?option=com_content&task=category&sec

tionid=21&id=157&Itemid=127

58. http://www.vietnamtourism.gov.vn/

http://210.245.5.189/gov/index.php?option=com_content&task=view&id=13

28&Itemid=127 – Tổng cục du lịch (9/03/2006)

59. http://www.vietnamtourism.gov.vn/

http://210.245.5.189/gov/index.php?option=com_content&task=view&id=13

35&Itemid=127 - Tổng cục du lịch (9/03/2006)

60. http://www.vietnamtourism.gov.vn/

http://210.245.5.189/gov/index.php?option=com_content&task=view&id=29

12&Itemid=127 - Tổng cục du lịch (6/11/2006)

61. http://www.vietnamtourism.gov.vn/

http://210.245.5.189/gov/index.php?option=com_content&task=view&id=16

23&Itemid=127 - Tổng cục du lịch (22/05/2006)

62. http://www.hanoitourism.gov.vn/

http://www.hanoitourism.gov.vn/webplus/viewer.asp?pgid=2&aid=917

63. Thúc đẩy hợp tác du lịch Việt Nam – Nhật Bản

http://www.vietnamtourism.gov.vn/

http://210.245.5.189/gov/index.php?option=com_content&task=view&id=28

64&Itemid=145 (23/10/2006)

64. Phát triển du lịch gắn với làng nghề (27/11/2006)

http://www.vietnamtourism-info.com/tindulich/tinvan/article_12686.shtml

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Phụ lục 1.1: Cơ cấu khách quốc tế đến Hà Nội 2001 - 2005

theo quốc tịch [39]

(Đơn vị: ngƣời)

Thị trƣờng S

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

TT

2001

2002

2003

2004

2005

Số

%

%

Số lƣợng

%

Số

%

Số

Số

%

lƣợng

lƣợng

lƣợng

lƣợng

Tổng số

700.000

100

931.000

100

850.000

100%

950.000

100

1.109.635

100

Trung Quốc 1

257.211

36,74

355.934

38,23

286.441

33,69

246.917

25,99

186.254

16,78

1

2

Nhật

64.106

9,15

93.925

10,08

76.621

83.754

8,81

100.119

9,02

9,01

3

Pháp

83.478

11,92

96.152

10,32

78.513

68.709

7,23

92.979

8,37

9,23

4

Hàn Quốc

3.673

0,52

18.255

1,96

32.204

61.677

6,49

136.519

12,30

3,78

5

Mỹ

38.280

5,46

47.664

5,11

40.804

53.587

5,64

64.859

5,84

4,80

6

Úc

29.918

4,34

40.507

4,35

39.646

52.881

5,56

59.433

5,35

4,66

7

Anh

26.365

3,76

33.103

3,55

34.956

36.446

3,83

45.290

4,08

4,11

8

Đức

22.068

3,15

28.516

3,06

29.227

30.484

3,20

38.925

3,50

3,43

9

19.242

2,74

20.378

2,18

25.854

28.695

3,02

33.661

3,03

3,04

Đài Loan

10

1,23

15.159

1,62

18.125

17.109

1,80

17.732

1,59

2,13

Tây Ban Nha

8.670

11

0,22

Quốc tịch

146.989

20,99

181.407

19,48

187.609

269.741

28,39

333.864

30,08

khác

Phụ lục 1.2: Tình hình ngƣời Nhật Bản đi ra nƣớc ngoài phân loại

theo lứa tuổi và giới tính năm 2004 [49, 36]

Đơn vị: %

0 - 9 10 - 19 20 - 29 30 - 39 40 - 49 50 - 59 Trên Lứa tuổi Tổng

tuổi tuổi tuổi tuổi tuổi tuổi 60 tuổi Giới tính số

1,4 2,3 10,1 11,7 11,9 9,9 7,0 Nam 54,4

1,3 3,0 16,8 7,4 5,4 6,3 5,4 Nữ 45,6

Phụ lục 1.3: Mục đích đi du lịch của khách Nhật ở một số vùng

(2004) [47]

Đơn vị: %

Mục đích đi du lịch Đông Á T.Quốc Đ.N.Á Châu Âu Mỹ

Du lịch thuần tuý 66,1 46,4 60,6 62,7 42,4

0,4 2,4 2,8 0,4 1,2 Nghỉ tuần trăng mật

3,4 6,0 13,4 3,6 6,0 Thăm thân

15,7 18,2 9,3 14,7 31,3 Du lịch kết hợp kinh doanh

3,9 6,0 8,0 10,7 4,3 Du lịch tìm hiểu thị trƣờng

1,2 3,7 4,8 1,0 1,7 Đi dự hội nghị, hội thảo

0,8 4,7 5,5 2,2 0,5 Tham gia các khoá học ở n.ngoài

6,5 3,8 4,5 3,1 5,5 Mục đích khác

Phụ lục 1.4: Hình ảnh và ấn tƣợng Nhật Bản trong con mắt khách

du lịch quốc tế sau khi du lịch [48]

%

Con ngƣời thân thiện, hoà hợp 92,4

Một đất nƣớc công nghiệp hiện đại 91,4

Một dân tộc siêng năng, cần cù và đầy nghị lực 91,4

An toàn và sạch sẽ 90,7

Một đất nƣớc với truyền thống văn hoá độc đáo 86,0

Hoạt động hiệu quả, năng suất 84,3

Thiên nhiên tƣơi đẹp 82,1

Mức sống và học vấn cao 76,1

Phụ lục 1.5: Khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam (2001- 2005)

[57]

Đơn vị: lƣợt khách

2001 2002 2003 2004 2005

Theo thị trƣờng

Đài Loan 199.600 211.100 208.100 256.906 286.324

Nhật Bản 205.100 279.800 209.600 267.210 320.605

Pháp 99.700 111.500 86.800 104.025 126.402

Mỹ 230.400 259.900 218.800 272.473 333.566

Anh 64.700 69.700 63.300 71.016 80.884

Thái Lan 31.600 41.000 40.100 84.100

Trung Quốc 675.800 723.400 693.000 778.431 752.576

Theo mục đích

Du lịch 1.222.100 1.462.000 1.238.500 1.583.985 2.041.529

Thăm thân nhân

Công việc 401.100 445.900 468.400 521.666 493.335

390.400 425.400 392.200 467.404 505.327

Mục đích khác 317.200 294.900 330.500 354.821 427.566

Theo phƣơng tiện

Đƣờng hàng 1.294.500 1.540.300 1.394.800 1.821.595

không

Đƣờng biển 284.700 309.100 241.500 263.362

Đƣờng bộ 751.600 778.800 793.300 842.919

Phụ lục 1.6: Cơ cấu chi tiêu trung bình một ngày tại Việt Nam của

khách Nhật trong tổng thể khách du lịch nƣớc ngoài [42]

Đơn vị tính: USD

Quốc tịch Chi một Lƣu trú Ăn uống Đi lại Vui chơi Mua sắm

ngày giải trí khác

Singapore 156,03 72,87 21,48 17,27 18,31 35,10

Nhật Bản 158,39 77,16 32,15 14,09 18,66 16,34

Hàn Quốc 138,24 70,07 14,52 9,35 33,71 10,59

Hồng Kông 116,68 49,02 19,92 10,89 17,23 19,62

Đức 112,53 44,10 20,68 5,93 9,74 15,82

Đài Loan 111,23 42,06 21,53 15,49 10,98 21,16

Pháp 101,56 35,83 16,91 16,94 6,11 25,77

Mỹ 98,96 45,16 `9,66 5,47 7,45 17,22

Anh 85,12 44,13 14,79 10,71 7,88 7,60

Autralia 80,88 30,51 16,93 3,34 7,78 12,13

Phụ lục 1.7: So sánh thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản và khách

du lịch quốc tế vào Việt Nam (2000 - 2005) [57]

Đơn vị: 1000 ngƣời

Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Tổng số khách du 2.130 2.330 2.628 2.429 2.927 3.468 lịch quốc tế

Tổng số khách du 142.9 205.1 279.8 209.6 276.2 320.6

lịch Nhật Bản

Tỷ lệ %/tổng số 6.71% 8.80% 10.6% 8.63% 9.43% 9.24%

Phụ lục 1.8: Số lƣợng các chuyến đi ra nƣớc ngoài hàng tháng

từ 2003 – 2005 [49, 33]

2003 2004 % thay đổi 2005 % thay đổi

2003/2004 2005/2004

1,301 1,347 3,5 1,196 -11,2 Jan

Feb 1,311 1,386 4,3 1,266 -7,5

Mar 1,503 1,549 3,1 1,366 -11,8

Apr 1,177 1,233 4,8 1,132 -8,2

May 1,215 1,265 4,1 1,220 -3,6

Jun 1,339 1,340 0,1 1,249 -6,8

Jul 1,470 1,512 2,9 1,460 -3,4

Aug 1,661 1,672 0,7 1,460 -2,6

Sep 1,552 1,546 -0,4 1,501 -2,9

Oct 1,364 1,345 -1,4 1,234 -8,3

Nov 1,317 1,311 -0,5 1,265 -3,5

Dec 1,485 1,315 -11,4 1,289 -2,0

Tổng 16,695 16,803 0,6 15,807 -5,9

Phụ lục 1.9: Thời gian nghỉ lại trung bình của mỗi khách du lịch

Nhật Bản ở nƣớc ngoài , từ năm 2000 – 2005 [49, 34]

2002 2001 2003 2004 2005

7,9 Số ngày 8,0 7,9 7,9 7,8

Phụ lục 1.10: So sánh độ dài chuyến du lịch ở một số khu vực

(2004) [47]

Đơn vị: %

Độ dài chuyến 1 - 4 5 - 7 8 - 14 >15 Không

Điểm du lịch ngày ngày ngày ngày rõ

Mức chung cho các địa điểm

19,9 36,9 32,9 8,8 1,5

69,5 23,2 5,3 0,9 1,1 Đông Á 21,4 45,1 25 4,9 3,6 Trung Quốc 12,3 55,6 21,4 8,4 2,2 Đông Nam Á 0,4 12,4 69,6 16,4 1,2 Châu Âu 1,5 37 44,2 15,5 0,9 Mỹ 2,2 68,8 24,3 3,9 0,8 Quần đảo Hawaii 59,3 36,3 2,0 0,6 1,7 Quần đảo Guam 9,8 78,4 11,8 - - Trung Đông

Phụ lục 1.11: Sự biến đổi trong nhu cầu đi du lịch nƣớc ngoài của

Nhu cầu

Có kế

Không có kế

Sẽ đi

Không

Hoàn toàn

Không biết

Số lƣợng

hoạch đi du

hoạch nhƣng

nếu có

muốn đi

không

hoặc không

chọn mẫu

Năm

lịch trong

có thể đi

cơ hội

lắm

muốn đi

trả lời

(ngƣời)

năm

5,2

2001

15,7

39,7

23,7

4,2

11,5

1376

6,9

2002

20,7

39,7

21,9

3,7

7,0

1427

6,4

2003

18,7

38,9

22,5

5,2

8,4

1260

6,7

2004

20,6

40,1

20,7

4,8

7,2

1352

7,4

2005

17,6

40,2

22,7

5,4

6,7

1230

ngƣời Nhật Bản [47]

Phụ lục 1.12: Các ngày lễ nghỉ và những sự việc đáng ghi nhớ trong

Tháng Ngày

Ngày lễ nghỉ

Ngày Những việc đáng ghi nhớ trong năm

Lễ tựu trƣờng, lễ gia nhập hãng

năm [35]

Ngắm hoa

Tranh đấu lao động

Ngày kỷ niệm Hiến pháp

1

Ngày Quốc tế Lao động

4 29 Ngày bảo vệ thiên nhiên

Ngày nghỉ của toàn dân

Tuần lễ vàng

5 3

Ngày nhi đồng

5

Tiết Đoan ngọ

4

Mùa mƣa

5

Trồng lúa

Phát tiền thƣởng

Nghỉ hè

7

Ngƣu lang Chức nữ

6

Trung nguyên

6&9

Ngày kỷ niệm bom nguyên tử

7

13-15

Lễ O - Bon (Vu Lan)

15

Ngày kỷ niệm chiến tranh chấm dứt

8

Ngày kính lão

Bão, ngắm trăng

Ngày Thu phân

Higan (tiết cân phân)

9 15

Ngày thể dục

Gặt lúa

23

Aki - Matsuri “Lễ mùa thu”

Ngày văn hoá

Lá úa màu (vàng, đỏ)

10 10

Ngày tạ ơn lao động

15

Nghi thức “7 - 5 - 3”

11 3

Ngày sinh nhật Nhật

Phát tiền thƣởng

23

hoàng

Tiệc cất niên

Nghỉ Đông

Giáng sinh

25

Tặng quà tết

Giao thừa

31

Mồng 1 tết Dƣơng lịch

Đi lễ đầu năm

12 23

Ngày thành niên

Lì xì

1 1

Ngày kỷ niệm lập quốc

Thi vào trƣờng

15

Tiết phân

3

Ngày Xuân phân

Ngày lễ của bé gái

3

2 11

Lễ ra trƣờng

Higan (Tiết cân phân)

Thay đổi nhiệm sở

Nghỉ Xuân

3 20

Phụ lục 1.13: Bảng tính điểm 8 khía cạnh để xếp hạng chất lƣợng

sống ở Nhật Bản (so sánh với Mỹ, Anh, Pháp và Đức) [35]

Nƣớc Nhà ở Chi tiêu Việc làm, thu Nuôi dạy con

nhập

Điểm Xếp Điểm Xếp Điểm Xếp Điểm Xếp

hạng hạng hạng hạng

Nhật 43,57 5 56,59 45,58 1 3 5 48,10

Mỹ 52,69 1 49,91 49,59 3 2 4 54,47

Anh 51,33 3 43,22 51,65 5 5 2 43,57

Pháp 51,60 2 48,61 51,11 4 1 3 57,90

Đức 51,04 4 51,67 52,22 2 4 1 45,96

Nƣớc Chăm sóc y tế Vui chơi giải Điều kiện học Giao lƣu xã

trí tập hội

Điểm Xếp Điểm Xếp Điểm Xếp Điểm Xếp

hạng hạng hạng hạng

Nhật 56,83 1 42,72 45,53 5 3 5 45,90

Mỹ 38,66 5 56,71 49,01 1 1 3 62,08

Anh 50,23 4 51,00 54,46 2 2 1 49,30

Pháp 52,53 2 48,68 53,13 4 4 2 45,88

Đức 51,95 3 50,90 47,90 3 5 4 45,80

Nƣớc Tính toàn cục

Điểm Xếp hạng

Nhật 48,10 5

Mỹ 51,64 1

Anh 49,35 4

Pháp 51,18 2

Đức 49,68 3

Phụ lục 1.14: Kết quả điều tra cụ thể

Tổng số phiếu: 42

Nội dung Số phiếu %

1. Theo mục đích chuyến đi

Tham quan du lịch 18 42.9

Kinh doanh thƣơng mại 7 16.7

Thăm thân 0 0

Mục đích khác 17 40.4

2. Theo số lần đến

Lần thứ nhất 27 64.3

Lần thứ hai 10 23.8

Lần thứ ba 5 11.9

Lần thứ tƣ 0 0

3. Theo độ tuổi

Dƣới 17 0 0

Từ 18 - 25 25 59.5

Từ 26 - 35 11 26.2

Từ 36 - 45 4 9.5

Từ 46 - 55 1 2.4

Trên 60 1 2.4

4. Theo giới tính

Nam 08 19

Nữ 34 81

Phụ lục 1.15: Mẫu phiếu điều tra

KONNICHIWA!

My name is Ha Thuy Linh from University of Socials Sciences and

Humanities. I am studying at Department of Tourism. I have an essay about

“Japanese tourist in Hanoi”. So I would like to ask you some questions

about this matter.

1. Do you like travelling alone or with a group?

Alone  Group 

2. Which transportations do you like to travel in Hanoi?

By car  By cyclo 

By bicycle  On foot 

Others..................................................................................................................

3. Which hotels do you like to stay?

1- star  2- star  5- star 

3- star  4- star 

4. Where do you like to eat?

Hotel’s restaurant  Vietnamese restaurant 

Japanese restaurant  Fastfood restaurant 

Others .................................................................................................................

4. Do you like to go out in the evening?

Yes  No 

5. Which entertainment centers in Hanoi do you like best?

Internet cafe  Water puppet 

Bars  Shopping 

Theatre and music  Circus 

Others..................................................................................................................

6. How many times do you visit Hanoi?

The first time  The second time 

The third time  The fourth time 

7. According to you, a tour guide is the person who can :

speaking Japanese  speaking English 

9. In some beautiful spots below, which ones do you like to travel best?

Temple of Litrerature  Area of West lake 

Ho Chi Minh Mausoleum and One-Pillar Pagoda 

Hoan Kiem lake and Ngoc Son temple  Area of ancient streets 

Others..................................................................................................................

10. Do you like to buy Vietnamese souvernirs before leaving Hanoi?

Yes  No 

Please tell me some information about yourself !

Name:..................................................................................................................

Male  Female 

Occupation:…………………………………………………………………….

.

Age:....................................................................................................................

ARIGATO!

Phụ lục 3.8: Du khách tại quán cà phê

Mediterraneo