
NGHIÊN
CỨU
ỨNG
DỤNG
Môì
QUAN
HỆ
GIỮA
NGÔN
NGỮ,
VĂN
HÓA
VÀ
VĂN
HỌC
TRONG
GIẢNG
DAY
VĂN
HỌC
HÀN
QUỐC
CHO
SINH
VIÊN
VIỆT
NAM
-
TRƯỜNG
HỢP
TÁC
PHẨM
"HOA
Đỗ
QUYÊN"CỦA
NHÀ
THƠ
KIM
SO-OUL
Nguyễn
Lệ
Thu
1
Tóm
tắt:
Nghiên
cứu
chỉ
ra
trường
hợp
ứng
dụng
mối
quan
hệ
giữa
ngôn
ngữ,
văn
hóa
và
văn
học
trong
giảng
dạy
văn
học
Hàn
Quốc
với
tác
phẩm
<Hoa
đỗ
quyên>
của
nhà
thơ
Kim
So-oul.
Trong
tình
hình
đào
tạo
tiếng
Hàn
trở
nên
phổ
biến
ở
Việt
Nam
và
cấn
đi
vào
chiều
sáu,
nâng
cao
chất
lượng
như
hiện
nay,
bài
toán
đặt
ra
với
các
cơ
sở
đào
tạo
tiếng
Hàn
chính
quy,
đó
là
tìm
ra
phương
pháp
giảng
dạy
hiệu
quả,
giúp
nâng
cao
nàng
lực
tiếng
Hàn
của
người
học
ở
một
trình
độ
mới.
Với
mong
muốn
thoát
khỏi
lối
mòn
giới
thiệu
vởn
hóa
một
cách
hời
hợt
hoặc
luôn
đặt
giáo
viên
ở
vị
trí
trung
tám,
nghiên
cứu
để
xuất
phương
pháp
tích
hợp
ngôn
ngữ,
vàn
hóa
và
vàn
học
trong
giảng
dạy
tiếng
Hàn
như
một
phương
pháp
mới.
Người
học
không
chỉ
được
cung
cấp
kiến
thức
mà
còn
chủ
động
trong
việc
đồng
cảm,
đánh
giá
tích
cực
đối
với
cảm
xúc,
tư
duy
của
người
Hàn
qua
tác
phẩm.
Phương
pháp
này
được
kì
vọng
sẽ
giúp
giảng
viên
và
sinh
viên
ngành
tiếng
Hàn
vốn
chỉ
chú
trọng
đến
các
giờ
thực
hành
tiếng
Hàn,
thấy
được
cái
hay,
cái
đẹp
của
ngôn
từ
vởn
học,
từ
đó,
tự
nâng
cao
náng
lực
ngoại
ngữ,
hiểu
biết
vẻ
vàn
hóa,
đất
nước,
con
người
Hàn
Quốc.
Từ
khóa:
Hoa
đỗ
quyên,
Kim
So-oul,
vởn
học
Hàn
Quốc,
phương
pháp
giảng
dạy
văn
học.
APPLYING
THE
RELATIONSHIp
AMONG
LANGUAGE,
CULTURE
AND
LITERATURE
TO
TEACHING
KOREAN
LITERATURE
TO
VIETNAMESE
STUDENTS:
THE
CASE
OF
THE
POEM
"AZALEAS"
BY
KIM
SO-OUL
Abstract:
The
study
shovvs
an
example
ofthe
relationship
between
language,
culture
and
literature
in
teaching
Korean
literature
with
the
work
<Azaleas>
by
poet
Kim
So-oul.
Now
that
Korean
language
learning
has
become
popular
in
Vietnam
and
it
is
necessary
to
improve
the
quality,
the
problem
posed
with
Korean
language
training
institutions
is
to
fìnd
a
method
to
teach
Korean
more
effectively,
helping
learners
to
improve
Korean
language
ability
to
a
higher
level.
With
the
desire
to
break
out
oíthe
rut
of
superhcially
introducing
culture
ofalways
putting
teachers
at
the
center,
the
study
suggests
a
method
of
integrating
language,
culture
and
literature
in
teaching
Korean.
Learners
are
not
only
provided
with
knowledge
but
also
take
the
initiative
in
empathizing
and
positively
evaluating
Korean
teelings
and
thoughts
through
the
work.
This
method
is
expected
to
help
lecturers
and
students
oíKorean
language
whose
only
tocus
is
on
Korean
language
to
see
the
beauty
and
the
diversity
of
literary
words,
thereby
improve
their
competence
and
understanding
about
Korea
along
with
it's
language,
culture
and
people.
Keyvvords:
Azaleas,
Kim
So-oul,
Korean
literature,
literature
teaching
methodetc.
1.
MỞ
ĐẦU
Ngôn
ngữ
và
văn
hóa
có
mối
quan
hệ
chặt
chẽ,
không
thể
tách
rời.
Ngôn
ngữ
là
phương
tiện
giao
tiếp,
chứa
đựng,
truyền
tải
và
phản
ánh
bản
sắc
văn
hóa
của
mỗi
dân
tộc.
Văn
hóa
là
kết
quả
của
sự
tương
tác
của
con
người,
được
biếu
hiện
thông
qua
thành
tố
cơ
ban
cua
ngôn
ngừ
đó
là
hành
vi
giao
tiếp.
Giữa
ngôn
ngừ
và
văn
hóa
tồn
tại
một
mối
quan
hệ
gắn
bó
hìru
cơ.
Là
một
thành
tố
cơ
bản
của
vãn
hóa,
vãn
học
có
vai
trò
vô
cùng
quan
trọng
trong
việc
phàn
ánh
nền
văn
hóa
của
một
dân
tộc
trên
nhiều
bình
diện
như
phong
tục
tập
quán,
tôn
giáo,
tín
ngường
Trường
Đại
học
Ngoại
ngừ
-
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội,
Email:
thunl
1981@gniail.com
.

KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cửu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌCTẠI
VIỆT
NAM
467
dân
gian,
tri
thức
dân
gian
v.v...
1
Văn
học
cũng
là
nghệ
thuật
ngôn
từ,
cho
nên
ngôn
ngữ
là
điều
kiện
tiên
quyết
của
văn
học.
Như
vậy,
giữa
ngôn
ngữ,
văn
hóa
và
vãn
học
có
một
mối
liên
quan
mật
thiết
và
một
sự
đồng
nhất
không
thể
phủ
nhận.
Do
đó,
việc
dạy
và
học
một
ngôn
ngữ
không
thể
tách
rời
với
dạy
và
học
văn
hóa,
văn
học
của
đất
nước
đó.
Một
người
sử
dụng
thành
thạo
một
ngoại
ngữ
là
một
người
có
phông
nền
văn
hóa
về
đất
nước
mà
mình
học
ngôn
ngữ
của
họ
và
ở
một
trình
độ
cao
hơn,
người
đó
có
thể
cảm
nhận
được
ngôn
ngữ
đó
thông
qua
văn
học.
Hiện
nay,
tiếng
Hàn
đã
trở
thành
một
ngoại
ngữ
phổ
biến
trong
các
trường
đại
học
và
các
cơ
sở
đào
tạo
ngoại
ngữ
ở
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
vẫn
tồn
tại
một
khoảng
cách
giữa
người
dạy
tiếng
Hàn
và
những
người
dạy
văn
hóa,
văn
học
Hàn
Quốc.
Người
dạy
có
chuyên
môn
ngôn
ngữ
học
tiếng
Hàn
vẫn
chưa
đóng
góp
nhiều
cho
việc
giải
mã
văn
hóa,
văn
học,
đồng
thời,
người
dạy
văn
học
Hàn
Quốc
cũng
chưa
quan
tâm
nhiều
đến
kiến
thức
ngôn
ngữ
học.
Tình
trạng
này
đã
làm
giảm
sút
hiệu
quả
dạy
và
học
tiếng
Hàn,
văn
học
Hàn
Quốc
cho
sinh
viên
ngành
tiếng
Hàn,
cũng
như
chưa
tạo
ra
được
sự
khác
biệt
về
chất
lượng
đầu
ra
ở
các
trường
đại
học
có
khoa
đào
tạo
tiếng
Hàn
với
nhau
và
với
các
trung
tâm
đào
tạo
tiếng
Hàn
ngoài
xã
hội.
Từ
nhận
thức
này,
bài
viết
đề
cập
đến
mối
quan
hệ
giữa
ngôn
ngữ,
văn
hóa
và
văn
học
dưới
góc
nhìn
ứng
dụng,
thông
qua
trường
hợp
cụ
thể
là
dạy
và
học
bài
thơ
“
Hoa
đỗ
quyên
”
của
nhà
thơ
Kim
So-oul.
Mục
đích
của
nghiên
cứu
này
là
thiết
lập
một
phương
pháp
kết
hợp
ngôn
ngữ,
vãn
hóa
và
văn
học
cho
người
học
tiếng
Hàn,
qua
đó,
cung
cấp
cho
người
dạy
tiếng
Hàn
và
văn
học
Hàn
Quốc
một
phương
pháp
mới
trong
lộ
trình
nâng
cao
chất
lượng
giảng
dạy
tiếng
Hàn
cho
sinh
viên
Khoa
Ngôn
ngữ
và
Văn
hóa
Hàn
Quốc,
Trường
Đại
học
Ngoại
ngữ,
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội.
2.
TÌNH
HÌNH
GIẢNG
DẠY
VẪN
HỌC
ở
CẮC
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
có
NGÀNH
TIẾNG
HÀN
ở
VIỆT
NAM
Năm
1993,
tiếng
Hàn
bắt
đầu
được
đưa
vào
giảng
dạy
chính
thức
ở
hai
trường
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội
và
Đại
học
Quốc
gia
Thành
phổ
Hồ
Chí
Minh.
Trải
qua
gần
ba
mươi
năm,
cùng
với
những
thành
tựu
vượt
bậc
của
mối
quan
hệ
ngoại
giao,
kinh
tế,
chính
trị
của
hai
nước,
hiện
nay
tiếng
Hàn
đã
trở
thành
một
ngoại
ngữ
phổ
biến,
không
còn
xa
lạ
với
người
Việt
Nam
và
mới
đây,
tiếng
Hàn
đã
trở
thành
ngoại
ngữ
được
lựa
chọn
giảng
dạy
ở
bậc
phổ
thông
của
Việt
Nam.
Đào
tạo
tiếng
Hàn
ở
Việt
Nam
có
thể
được
chia
thành
hai
nhóm
chính.
Một
là,
nhóm
đào
tạo
tiếng
Hàn
chính
quy,
đó
là
các
trường
đại
học,
cao
đẳng
có
khoa
đào
tạo
tiếng
Hàn
và
văn
hóa
Hàn
Quốc.
Hai
là,
đào
tạo
đại
trà,
diễn
ra
ở
các
cơ
sở
đào
tạo
ngoại
ngữ
phi
chính
quy
như
các
trung
tâm
ngoại
ngữ,
trung
tâm
Sejong
v.v...
Việc
cạnh
tranh
về
chất
lượng
đào
tạo
không
chỉ
diễn
ra
giữa
hai
nhóm
này,
mà
còn
ở
trong
nội
bộ
các
cơ
sở
đào
tạo.
Trong
đó,
các
trường
đại
học
có
khoa
đào
tạo
tiếng
Hàn
không
ngừng
cải
tiến
chương
trình,
củng
cố
đội
ngũ
giảng
viên,
đặc
biệt,
là
nâng
cao
chất
lượng
bài
giảng,
chất
lượng
của
môn
học,
chỉnh
sửa
tài
liệu
học
tập
của
các
môn
học
cũ
hay
mở
thêm
các
môn
học
mới
v.v...
Môn
Văn
học
cũng
dần
được
chú
trọng
và
được
coi
là
một
môn
học
có
thể
hỗ
trợ
người
học
nâng
cao
năng
lực
tiếng
Hàn
một
cách
hiệu
quả.
Trần
Hoài
Anh
(2020).

468
KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cứu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌCTẠI
VIỆT
NAM
Trong
số
9
cơ
sở
đào
tạo
tiếng
Hàn
lớn
trên
toàn
quốc,
môn
Văn
học
được
đưa
vào
giảng
dạy
như
môn
học
bắt
buộc
ở
hầu
hết
các
cơ
sở
đào
tạo.
Giảng
viên
phụ
trách
môn
học
đa
số
là
giảng
viên
tốt
nghiệp
thạc
sĩ,
tiến
sĩ
ngành
văn
học
Hàn
Quốc
hoặc
là
giảng
viên
người
Hàn
Quốc.
Đối
tượng
giảng
dạy
hầu
hết
là
sinh
viên
năm
3,4.
Nội
dung
giảng
dạy
thường
tập
trung
vào
tiến
trình
lịch
sử
văn
học
và
văn
học
hiện
đại.
1
1
Tham
khảo
Nguyễn
Thị
Hiền
(2016),
tr.424-425
.
Trong
khuôn
khổ
bài
viết,
chúng
tôi
đề
cập
đến
trường
hợp
giảng
dạy
văn
học
tại
Khoa
Ngôn
ngữ
và
Văn
hóa
Hàn
Quốc,
Trường
Đại
học
Ngoại
ngữ,
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội.
Là
một
khoa
trực
thuộc
trong
trường
đào
tạo
ngoại
ngữ
lâu
năm,
Khoa
Ngôn
ngữ
và
Văn
hóa
Hàn
Quốc
được
thừa
hưởng
những
thành
quả
về
đào
tạo
ngoại
ngữ
của
các
đơn
vị
đi
trước
trong
trường.
Thêm
vào
đó,
với
số
lượng
sinh
viên
đông
đảo,
là
một
cơ
sở
đào
tạo
tiếng
Hàn
quy
mô
lớn
so
với
nhiều
cơ
sở
khác
trên
cả
nước,
việc
nghiên
cứu
và
đề
xuất
một
phương
pháp
giảng
dạy
văn
học
Hàn
Quốc
là
một
việc
làm
cần
thiết
và
ý
nghĩa
trong
giai
đoạn
không
ngừng
phát
triển
mờ
rộng
về
quy
mô
và
đi
vào
chất
lượng,
chiều
sâu
như
hiện
nay.
Từ
năm
2017,
đáp
ứng
nhu
cầu
về
nguồn
nhân
lực
tiếng
Hàn
ngày
càng
lớn
của
xã
hội,
Trường
Đại
học
Ngoại
ngữ
-
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội
(ĐHNN
-
ĐHQGHN)
đã
tiến
hành
xây
dựng
Chương
trình
đào
tạo
Chất
lượng
cao
ngành
tiếng
Hàn
Quốc
theo
hướng
dẫn
trong
Thông
tư
23
của
Bộ
Giáo
dục
và
Đào
tạo.
Chương
trình
giảm
thiểu
và
tăng
cường
một
số
môn
học
thiên
về
kinh
tế,
thương
mại
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
thực
tiễn
và
với
môn
Văn
học,
chương
trình
vẫn
giữ
số
lượng
hai
môn
Văn
học
Hàn
Quốc
1,
2
(3
tín
chỉ/môn),
đây
được
coi
là
nhiều
hơn
so
với
một
số
cơ
sờ
đào
tạo
tiếng
Hàn
và
Hàn
Quốc
học
lâu
đời
ờ
Việt
Nam,
thể
hiện
nhận
thức
đúng
đắn
đối
với
chuyên
ngành
văn
học,
như
một
môn
học
cần
thiết,
cung
cấp
những
kiến
thức,
hiểu
biết
về
văn
hóa,
đất
nước
và
con
người
Hàn
Quốc
cho
sinh
viên.
3.
MỐI
QUAN
HỆ
GIỮA
NGÔN
NGỮ,
VẪN
HÓA,
VĂN
HỌC
TRONG
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ
Chúng
ta
đều
biết,
ngôn
ngữ
không
đơn
thuần
là
âm
thanh
hay
chữ
viết.
Ngôn
ngữ
là
những
âm
thanh
và
chữ
viết
có
ý
nghĩa.
Nhũng
ý
nghĩa
này
được
hiểu
trong
một
ngữ
cảnh,
tức
là
bối
cảnh
ngôn
ngữ
mà
ở
đó
người
nói
(người
viết)
sản
sinh
ra
lời
nói
còn
người
nghe
(người
đọc)
lĩnh
hội
đúng
và
đầy
đủ
lời
nói.
Ngữ
cảnh
này
hiểu
rộng
ra
chính
là
văn
hóa.
Văn
hóa
chính
là
toàn
bộ
những
sản
phẩm
vật
chất,
tinh
thần
do
con
người
tạo
nên
trong
quá
trình
hình
thành,
tồn
tại
và
phát
triển.
Do
vậy,
ngôn
ngữ
và
văn
hóa
có
mối
quan
hệ
hữu
cơ,
không
thể
tách
rời.
Văn
học
lại
là
một
thành
tố
cơ
bản
của
văn
hóa,
nó
phản
ánh
nền
văn
hóa
của
một
dân
tộc
trên
nhiều
bình
diện
như
đời
sống
xã
hội,
phong
tục
tập
quán,
tín
ngưỡng,
tôn
giáo
v.v...
bằng
ngôn
ngữ
được
chọn
lọc
qua
tư
duy,
vốn
sống,
cảm
hứng
sáng
tác...
của
nhà
văn,
nhà
thơ.
Ngôn
ngữ
không
chỉ
đơn
giản
là
lời
nói,
mà
còn
mang
tính
văn
hóa,
xã
hội,
vì
vậy,
học
ngôn
ngữ
thực
chất
là
học
văn
hóa.
Ngôn
ngữ
văn
chương
lại
là
nghệ
thuật
ngôn
từ,
do
vậy,
văn
học
chính
là
một
sự
giao
tiếp
với
những
ngôn
từ
văn
hóa,
cho
thấy
trình
độ
sử
dụng
một
ngôn
ngữ
của
người
học.
Việc
giảng
dạy
két
hợp
ngôn
ngữ,
văn
hóa
và
vãn
học
trong
các
giờ
dạy
tiếng
Hàn
là
cần
thiết
để
có
thể
phát
huy
hiệu
quả
tối
đa
của
đào
tạo
tiếng
Hàn,
văn
hóa
Hàn
Quốc
và
văn
học
Hàn
Quốc.
Bởi
văn
học
không
chỉ
là
một
công
cụ
để
giảng
dạy
ngôn
ngữ
mà
nó
còn
có
vai
trò

KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cửu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐC
TẾ
HỌC
TẠI
VIỆT
NAM
469
bổ
sung
cho
mối
quan
hệ
giữa
ngôn
ngữ
và
văn
hóa.
Giảng
dạy
văn
học
giúp
phát
triển
các
kỹ
năng
nghe,
nói,
đọc,
viết
của
người
học,
giúp
người
học
thoát
được
khuôn
mẫu
ngôn
ngữ
giáo
trình,
được
tiếp
xúc
với
ngôn
ngữ
thường
nhật.
Các
tài
liệu
văn
bản
văn
học
(tác
phẩm
văn
học)
còn
là
một
nguồn
tài
liệu
tốt
giúp
người
học
có
thể
tăng
cường
khả
năng
diễn
đạt,
đặc
biệt
là
các
thành
ngữ,
các
diễn
đạt
thông
tục
và
tiếp
xúc
với
ngôn
từ
có
tính
thẩm
mỹ
xuất
hiện
trong
tác
phẩm.
Đồng
thời,
người
học
cũng
có
được
cái
nhìn
tổng
thể
về
văn
hóa
thông
qua
suy
nghĩ,
cảm
xúc,
phong
tục
tập
quán,
quan
niệm,
giá
trị
và
thái
độ
của
nhân
vật.
Xuất
phát
từ
nhận
thức
về
mối
quan
hệ
hữu
cơ
của
ngôn
ngữ
và
văn
hóa
(văn
học)
như
trên,
nghiên
cứu
đề
xuất
một
phương
pháp
giảng
dạy
tích
hợp
giữa
học
ngôn
ngữ,
văn
hóa
và
văn
học
trong
giờ
dạy
vãn
học,
vốn
được
nhận
thức
là
giờ
giảng
văn
học
thuần
túy
và
khó
khơi
gợi
được
cảm
hứng
của
người
học.
Có
nhiều
nguyên
nhân
khiến
người
học
khó
tiếp
cận
tác
phẩm
văn
học,
song
có
thể
liệt
kê
ra
những
nguyên
nhân
chủ
yếu,
đó
là
độ
khó
về
ngôn
từ
và
cảm
thụ
tác
phẩm,
thái
độ
ngần
ngại
khi
tiếp
xúc
với
tác
phẩm
văn
học
của
người
học,
phương
pháp
giảng
dạy
của
giảng
viên.
Nghiên
cứu
đưa
ra
một
trường
họp
cụ
thể
là
bài
giảng
tác
phẩm
Hoa
đỗ
quyên
của
nhà
thơ
Kim
So-oul.
Có
rất
nhiều
tác
phẩm
có
thể
lựa
chọn
để
giảng
dạy
cho
sinh
viên.
Tuy
nhiên,
nghiên
cứu
lựa
chọn
Hoa
đỗ
quyên
bởi
đây
là
một
tác
phẩm
tiêu
biểu
của
văn
học
Hàn
Quốc,
xuất
hiện
trong
cả
các
giáo
trình
tiếng
Hàn
cấp
5,
6
và
khá
quen
thuộc
với
người
dạy
tiếng
Hàn,
vãn
học
Hàn
Quốc.
4.
GIẢNG
DẠY
VĂN
HỌC
HÀN
QUỐC
TỪ
GÓC
NHÌN
ỨNG
DỤNG
MỐI
QUAN
HỆ
GIỮA
NGÔN
NGỮ,
VĂN
HÓA
VÀ
VĂN
HỌC
-
TRƯỜNG
HỢP
TẤC
PHẨM
"HOA
Đỗ
QUYÊN"
CỦA
NHẢ
THƠ
KIM
SO-OUL
4.1.
Ý
nghĩa
của
tác
phẩm
Hoa
đỗ
quyên
trong
giảng
dạy
tiếng
Hàn
Đe
đạt
được
hiệu
quả
trong
việc
đưa
tác
phẩm
văn
học
vào
giảng
dạy
trong
các
lớp
học
đào
tạo
cử
nhân
ngoại
ngữ,
việc
lựa
chọn
tác
phẩm
văn
học
đóng
một
vai
trò
rất
quan
trọng.
Một
số
tiêu
chí
giúp
lựa
chọn
một
tác
phẩm
văn
học
đưa
vào
giảng
dạy
cho
sinh
viên
tiếng
Hàn
có
thể
kể
đến,
đó
là:
trình
độ
ngôn
ngữ
của
tác
phẩm
văn
học,
chủ
đề
của
tác
phẩm,
độ
dài
của
tác
phẩm,
tính
đại
diện
và
tầm
quan
trọng
của
tác
phẩm.
Tác
phẩm
Hoa
đỗ
quyên
của
Kim
So-oul
được
lựa
chọn
làm
đối
tượng
nghiên
cứu
trong
bài
viết
này
với
những
lý
do
sau:
Thứ
nhất,
bài
thơ
Hoa
đỗ
quyên
có
độ
dài
vừa
phải,
giúp
sinh
viên
dễ
nhớ
câu
và
trình
độ
ngôn
ngữ
của
bài
thơ
phù
hợp
với
sinh
viên
năm
3,
4
ngành
tiếng
Hàn
của
Trường
Đại
học
Ngoại
ngữ,
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội.
Bài
thơ
Hoa
đỗ
quyên
gồm
12
dòng,
được
sáng
tác
bằng
từ
vựng
đơn
giản,
không
có
nhiều
từ
gốc
Hán
(toàn
bài
thơ
chỉ
có
duy
nhất
2
địa
danh
bằng
từ
gốc
Hán),
ngữ
pháp
của
bài
thơ
cũng
thuộc
trình
độ
sơ,
trung
cấp.
Ngoài
ra,
bài
thơ
còn
được
phổ
nhạc
thành
bài
hát
hiện
đại,
có
thể
lấy
làm
tư
liệu
giảng
dạy,
khơi
gợi
hứng
thú
của
người
học.
Thứ
hai,
chủ
đề
của
bài
thơ
liên
quan
đến
cảm
xúc
yêu,
ghét,
hờn
giận,
chia
tay
là
cảm
xúc
cơ
bản
và
phổ
biến
của
con
người
ở
bất
kì
quốc
gia,
dân
tộc
nào,
do
vậy
người
học
có
thể
dễ
dàng
liên
tưởng,
cảm
nhận.
Tình
yêu
là
nhu
cầu
phổ
biến
của
con
người,
vì
vậy,
sự
cảm
nhận
về
tình
yêu
thường
có
không
có
ranh
giới
tuổi
tác,
quốc
tịch,
ngôn
ngữ,
văn
hóa...
Người
học
dễ
dàng
thấu
hiểu
cảm
xúc
hờn
giận,
chia
ly
và
thái
độ
của
chủ
thể
trữ
tình
trong
bài
thơ.

470
KỶ
YẾU
HỘI
THẢO
KHOA
HỌC
QUỐC
GIA
NGHIÊN
cửu
VÀ
GIẢNG
DẠY
NGOẠI
NGỮ,
NGÔN
NGỮ
VÀ
QUỐCTẾ
HỌCTẠI
VIỆT
NAM
Thứ
ba
là
thời
đại
sáng
tác
của
bài
thơ.
Bài
thơ
được
sáng
tác
vào
năm
1925,
đây
là
thời
kì
thơ
hiện
đại
Hàn
Quốc
định
hình
được
phong
cách
sáng
tác
và
thể
loại.
Sau
thất
bại
của
phong
trào
Mùng
1
Tháng
3,
lòng
yêu
nước,
niềm
tự
hào
dân
tộc
và
ý
thức
tự
chủ
của
người
dân
Hàn
Quốc
được
thức
tỉnh
trong
hoàn
cảnh
thuộc
địa.
Bởi
vậy,
nhiệm
vụ
của
văn
học
trở
nên
rõ
ràng
hơn
bao
giờ
hết,
đó
là
hướng
đến
mục
tiêu
gìn
giữ,
khẳng
định
các
giá
trị
thuộc
về
bản
sắc
dân
tộc,
ý
thức
tự
tôn
dân
tộc.
Một
khuynh
hướng
phổ
biến
trên
văn
đàn
thời
kì
đó,
chính
là
tim
về,
khôi
phục
những
giá
trị
thuộc
về
bản
sắc
dân
tộc,
không
còn
vọng
ngoại
như
thời
kì
trước
đó.
Bài
thơ
Hoa
đỗ
quyên
là
sự
kết
họp
của
dân
ca
Hàn
Quốc
và
thơ
hiện
đại
với
những
yếu
tố
lịch
sử,
văn
hóa
khá
gần
gũi
với
sinh
viên
Việt
Nam
bởi
đây
là
đối
tượng
người
trưởng
thành,
được
giáo
dục
cơ
bản
nên
đã
có
một
phông
nền
kiến
thức
về
lịch
sử
và
văn
hóa
nhất
định.
Vì
vậy,
không
có
gì
khó
khăn
trong
việc
tìm
hiểu
về
thời
đại
và
bối
cảnh
lịch
sử
của
bài
thơ.
Cuối
cùng
là
tính
đại
diện
và
tầm
quan
trọng
của
thơ
Kim
So-oul.
Kim
So-oul
được
mệnh
danh
là
nhà
thơ
dân
tộc
không
thể
không
nhắc
đến
khi
đề
cập
tới
các
tác
giả
tiêu
biểu
của
văn
học
Hàn
Quốc.
Thơ
Kim
So-oul
với
ngôn
từ
bình
dị,
gần
gũi,
đậm
chất
đời
thường,
và
lại
mang
âm
hưởng
dân
ca
của
Hàn
Quốc
nên
rất
dễ
nhớ,
dễ
thuộc
với
người
dân
Hàn
Quốc.
Thế
giới
thơ
Kim
So-uol
được
gói
gọn
trong
ba
chủ
đề
chính:
“
nim
”
(người
yêu,
người
thương),
“
ngôi
nhà
”
(mái
ấm,
gia
đình),
“
con
đường
”
(ước
vọng,
tương
lai)
là
những
phạm
trù
cơ
bản,
cần
thiết
đối
với
sự
tồn
tại
của
con
người.
Vì
vậy,
hầu
hết
người
Hàn
Quốc
đều
yêu
thích
và
học
thuộc
thơ
của
Kim
So-oul.
Thơ
Kim
So-oul
cũng
được
coi
là
sự
hoàn
thiện
về
phong
cách
và
thủ
pháp
sáng
tác
của
thơ
hiện
đại
Hàn
Quốc
so
với
thơ
ca
hiện
đại
trước
đó,
vì
vậy,
nó
có
ảnh
hưởng
lớn
đến
thơ
hiện
đại
và
thơ
trữ
tình
trong
lịch
sử
văn
học
Hàn
Quốc.
Với
những
yếu
tố
kể
trên,
sinh
viên
chuyên
ngành
ngôn
ngữ
và
văn
hóa
Hàn
Quốc
không
thể
không
biết
đến
thơ
của
Kim
So-oul
như
một
nhịp
cầu
giao
tiếp,
thấu
hiểu
tâm
tư,
tình
cảm,
văn
hóa
của
người
dần
Hàn
Quốc.
Hoa
đỗ
quyên
là
tác
phẩm
được
lấy
làm
tiêu
đề
của
tập
thơ
duy
nhất
của
Kim
So-oul,
lại
là
tác
phẩm
dễ
tiếp
cận
đối
với
sinh
viên
nước
ngoài.
Xét
trên
khía
cạnh
là
một
tác
phẩm
có
giá
trị,
cần
thiết
phải
biết
khi
học
tiếng
Hàn
và
tìm
hiểu
về
văn
hóa
Hàn
Quốc,
tác
phẩm
Hoa
đỗ
quyên
hội
tụ
đầy
đủ
các
yếu
tố
để
lựa
chọn.
Bài
thơ
với
ngôn
từ
dề
hiểu,
không
có
cảm
giác
nặng
nề
và
cảm
xúc
phổ
biến,
dễ
đồng
cảm
sẽ
khơi
gợi
được
hứng
thú
của
người
học
tiếng
Hàn,
xóa
bỏ
cảm
giác
ngần
ngại
vì
khó
hiểu
khi
tiếp
xúc
với
ngôn
ngữ
vãn
học
của
sinh
viên.
Nguyên
vãn
bài
thơ
như
sau: