NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



I- Trên 7ạp chí Văn hoá dân gian, số 1 - 1996, tác giả Nguyễn Xuân Lạc trong bài "Cảnh đẹp Hồ Tây - ca dao hay thơ?" đã đặt vấn đề bài này là ca dao hay là thơ. Theo tác gia cho biết, lâu nay bài này vân được xem là ea dao, và các cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, (in lần thứ 8, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978), Ca dao Việt Nam do Đình Gia Khánh chủ biên (Nxb Văn học, Hà Nội, 1988) v.v... đều có ghi bài này. Cũng theo tác gia, sách giáo khoa Văn 6, tập lÏ (cũ) và sách Văn 7, tập II (sách chỉnh lí năm 1995) đều tuyển bài này trong phần Ca dao. Thế nhưng sau đó, đã có ý kiến nghi vấn về bài ea dao này liệu nó có phải là ca đao không, hay là thơ? Ý kiến nghi vấn do căn cứ theo hai điểm: Một là, hình thức tiểu đối trong bài khá chặt chẽ, tức là đối chọi đúng quy tắc trường ốc:
Tiếng chuông Trấn Vũ lcanh gò
Thọ Xương Nhịp Chày Yên Thúij/ mặt gương Tây Hồ
Hai là, câu chữ trong bài khá trau chuốt, trang nghiêm. Và do hai điểm đó mà người ta đi tới nhận định rằng, đây là sáng tác của văn học viết, là thơ bác học chứ không phải ca dao. Để giải quyết vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Lạc cho rằng cần xem xét trên hai phương diện: /£h¡ pháp và Uuăn bưứn. Về thì pháp, phải trả lời được câu hỏi: ca đao có hình thức tiểu đối hay không, có kiến trúc 3 - 3 và 4 - 4 trong câu thơ lục bát hay không? Về văn bản, phải tìm ra
VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN @C VĂN H0 @UA HỘT SÕ BÀI GA DA0 NGƯỜI VIỆT
KIỂU THU HOẠCH?)
được văn bản của tác giả nào chứng tỏ đây là sáng tác thơ của văn học viết.
Về phương diện thi pháp, tác giả Nguyễn Xuân Lạc nêu lên hai loại ý kiến trái ngược nhau. Phan Ngọc trong bài "Tìm hiểu sự đối xứng trong văn học" (Tạp chí Văn học, số 1, 1983) viết: "Trong lục bát của ca đao, dân ca, vè, không có tiểu đối". Về sau, trong bài "Suy nghĩ về thể loại thở song thất lục bát" (Tạp chí Sông Hương. số 9, 1984), Phan Ngọc lại viết: "Nói chung lục bát dân gian không biết đến kiến trúc 3 - 3 và 4 - 4. Trong toàn bộ ca dao, dân ca phải hàng ngàn câu mới có một câu như thế". Nhưng đến công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 205) thì Phan Ngọc lại ước lượng ở mức thấp hơn: "Phải hàng trăm câu mới gặp một câu có cấu trúc 3 - 8 hay 4 - 4 đối nhau", song vẫn khẳng định: "Đó là một loại kiến trúc không có trong thơ ca dân gian". Còn Hoàng Trinh trong sách Đổi thoại uăn học (Nxb Hà Nội, 1986, tr. 1329) thì lại cho rằng: "Về hình thức thơ, đối ngẫu là hình thức phổ biến trong ca dao dưới mọi thể loại: đối ngẫu từ ngữ, đối ngẫu ngữ pháp, đối ngâu ngữ nghĩa, đối ngẫu hai chiều, đối ngẫu đối lập và phân đề...".
Sau khi nêu hai ý kiến đối nghịch về vấn đề đối ngẫu trong ca đao, nhưng nhận thấy đó chỉ là những ý kiến suy đoán thiếu căn cứ, tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã dựa theo Nguyễn Xuân Kính trong công trình
°'QS. TS, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. 4
KIỀU THU HOẠCH


Thị pháp ca dao (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999, tr. 132 - 133) để đi tìm những cứ liệu cụ thể mà tác giả Thỉ pháp ca dao đã rút ra từ phương pháp thống kê, so sánh hàng ngàn câu ca đao, qua khảo sát ba cuốn Ca dao Việt Nam, Ca dao Nghệ Tĩnh, Phương ngôn tục ngữ ca dao (sưu tâm ở Nam Hà - Ninh Bình). Trên cơ sở đó, tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã bác bỏ ý kiến có tính chất cực đoan của hai ông Phan Ngọc, Hoàng Trinh khi một người thì cho hình thức tiểu đối trong ca dao là hông có, một người lại cho là phổ biến. Và, đến lượt mình, tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã đưa ra một nhận xét có về chiết trung hơn, cho rằng: "Ca dao có hình thức tiểu đối, nhưng tiểu đối ở ca đao (...) so với tiểu đối ở thơ (...) có mức độ nhạt, đậm khác nhau". Tuy nhiên, khi nhận xét cụ thể về bài "Cảnh đẹp Hồ Tây", thì tác giả Nguyễn Xuân Lạc dường như vẫn còn tỏ ra băn khoăn, chưa khẳng định được đó là văn học hay văn học dân gian. Chính vì vậy, tác giả Nguyễn Xuân Lạc lại phải tìm đến phương diện văn bản để "xác định nó là ea dao hay thơ", và nhấn mạnh "bởi vì chỉ có văn bản mới chứng tỏ nó là sáng tác của văn học.viết - là thơ chứ không phải ca dao". Tiếp đó, tác giả giới thiệu tập Văn học uà tuổi trẻ, tập 6, (Nxb Giáo dục, 1995), trong đó có bài "Bài thơ được ea đao hoá đấy chăng?" của Hải Đăng, cho biết bài "Cảnh đẹp Hồ Tây" chính là bài thơ "Hà thành tức cảnh" của Dương Khuê (1839 - 1902), được chép trong cuốn gia phả họ Dương ở Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Tây. Bài "Hà thành tức cảnh" được chép như sau:
Phất phơ cành trúc trăng tà Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương Mịt mù bhói toa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Sau khi thông báo văn bản này, tác giả Nguyễn Xuân Lạc kết luận: "Thế là rõ. Bài ca dao này ban đầu là một bài thơ thuộc
văn học viết (...), sau đó được lưu truyền trong dân gian và được ca dao hoá". Rồi tác giả phân tích thêm: "Phần cải biên là ở câu đầu: Phất phơ cành trúc trăng tà đã được chuyển hoá thành Gió đưa cành trúc la đà. Đúng là câu trên mang tính bác học rõ hơn, còn câu dưới lại đậm đà phong vị dân gian”. Nhân đó, tác giả bài báo còn cho biết thêm hiện tượng "thơ được ca dao hoá" không chỉ có ở bài này mà còn gặp ở một số trường hợp khác. Đó là câu ea dao: Hơi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng uàng đổ đi tương truyền do Bàng Bá Lân sáng tác. Đó là bài ca dao: Anh đi anh nhúó quê nhà Nhó canh rau muống nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhó at tát nước bên đường hôm nao.
Bài này đã được tuyển chọn vào sách Văn học 7, tập II (sách chỉnh lí năm 1995), nhưng chính là thơ làm theo lối phong dao của Á Nam Trần Tuấn Khải, vốn được in trong tập Bút quan hoài (1937). Phần cuối bài báo, tác giả Nguyễn Xuân Lạc còn kể thêm một số bài "thơ được ca đao hoá" của những nhà thơ ở thời kì sau Cách mạng tháng Tám 1945, mà trong đó tiêu biểu là bài:
Thúp Mười đẹp nhất bông sen
Nước Nam đẹp nhất có tên cụ Hồ.
Đây vốn là hai câu trong bài thơ của Bảo Định Giang. Cuối cùng, tác giả đặt vấn đề "Hiện tượng £hơ được ca dao hoá là một vấn đề lí thú" và không đơn giản, cần được nghiên cứu sâu sắc và lí giải thoả đáng".
TII- Chúng tôi đã lược thuật nội dung cơ bản của bài báo "Cảnh đẹp Hồ Tây - ca dao hay thơ?" Vấn để đặt ra quả là lí thú! Và người viết bài này vốn cũng là người thích thú chuyện tìm kiếm này trong nhiều năm qua. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
5
—==——=EỄEEEEE========ễ=ễỄễỄễễễỄEE
Tuy nhiên, trước khi đi vào khảo sát, lí giải từng trường hợp cụ thể, chúng tôi cũng nghĩ như Nguyễn Xuân Lạc, rằng vấn đề "không đơn giản", rằng vấn đề "cần được nghiên cứu sâu sắc và lí giải thoả đáng". Như thế, vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là đi tìm nguồn gốc văn học của bài ca dao. Mà điều quan trọng hơn, còn là ở chỗ, phải tìm hiểu, nghiên cứu xem từ một bài thơ nó đã được ea dao hoá như thế nào? Về mặt lí luận, đây cũng chính là vấn để văn học dân gian hoá - một vấn đề không phải chỉ riêng của folklore Việt Nam, mà cũng là vấn để có tính phổ quát của cả folklore thế giới. Chẳng hạn, theo Viladimia Prôp, nhà folklore học Nga nổi tiếng, trong bài "Đặc trưng của folklore" (do Chu Xuân Diên dịch), thì một bài hát rất phổ biến trong nhân dân Nga như ÐĐubinuska, hay bài 7 sau cù lao ra khúc sông sâu, a1 cũng tưởng là thơ ca dân gian thực sự, nhưng hoá ra lại là tác phẩm của hai nhà thơ ít người biết đến tên tuổi; bài đầu là của Trephôleva và bài sau là của Xađônhicôp. Đó là những trường hợp đã hiến nhiên được coi là folklore thực sự, mà hoá ra lại là tác phẩm của hai nhà thơ. Song cũng có những trường hợp vốn là tác phẩm văn học đã biết tên tác giả hẳn hoi, chẳng hạn như bài thơ Cánh buồm của Lermôntôp, hoặc bài Chữn hoạ mỉ của Denvi, lại được hát lên như dân ca v.v... Prôp đã đặt câu hỏi: "Chúng ta sẽ xếp những trường hợp như vậy vào lĩnh vực nào? Đó là folklore hay văn học?" Đồng thời ông đã trả lời rằng: "Những thí dụ như vậy có thể dẫn ra nhiều, và việc nghiên cứu mối quan hệ ấy giữa folklore và văn học, là một trong những công việc hết sức hứng thú của người nghiên cứu lịch sử văn học cũng như người nghiên cứu folklore. Xét về mặt phương diện rộng hơn thì đó là vấn đề về những nguồn gốc thành văn của folklore nói chung". Và từ góc độ nghiên cứu folklore học, Vlađdimia Prôp đã gọi hiện
tượng này là những tác phẩm folklore có nguồn gốc văn học, để phân biệt với những tác phẩm folklore dích thực, nghĩa là những sáng tác dân gian vô danh từ các thời đại xa xưa lưu truyền lại. (Xem: Văn học dân gian - những công trình nghiên cứu, Bùi Mạnh Nhị chủ biên, Nxb Giáo dục, 1999, tr. 23-24).
Nói văn học dân gian hoá (tức tác phẩm văn học được folklore hoá), hay nói tác phẩm folklore có nguồn gốc văn học, thực ra chỉ là cách nói khác nhau về hai tình huống của một vấn để. Như trường hợp "Cảnh đẹp Hồ Tây" là trường hợp vẫn được coi là folklore, rồi sau đó, mới phát hiện ra nguồn gốc văn học. Còn trường hợp "Pháp Mười đẹp nhất bông sen...) thì vốn là tác phẩm văn học, rồi đần dần được folklore hoá. Tuy nhiên, dẫu là tình huống nào thì cũng vẫn nằm trong phạm trù mối quan hệ giữa folklore và văn học, mà ở trường hợp "Cảnh đẹp Hồ Tây" thì mấu chốt của vấn đề chính là phải lí giải được vì sao một bài thơ của Dương Khuê lại trở thành ea dao đân gian?
Qua bài báo, cho thấy tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã tìm hiểu khá công phu về mặt thi pháp cấu trúc bài ca dao; song phần tìm hiểu có hiệu quả để biết rõ nguồn gốc văn học của bài ca dao thì chủ yếu lại ở phần tìm hiểu về mặt văn bản. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm bản thân trong nhiều năm nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không mấy tin vào bản gia phả họ Dương chép tay. Thêm nữa, bài báo lại không cung cấp đầy đủ thông tin như niên đại sao chép, chép bằng Hán Nôm hay bằng chữ quốc ngữ, vì vậy rất khó có căn cứ để xác định thời điểm ra đời của bài thơ nguyên tác. Riêng chúng tôi được biết, thì bài thơ của Dương Khuê có tên "Hà Nội tức cảnh" (khác với cái tên chép trong gia phả là Hà Thành tức canh). Nguyên bài thơ được In trong sách Văn đàn 6
KIỂU THU HOẠCH


bảo giám của Trần Trung Viên, gồm 3 tập, in từ 1926 đến 1938 mới trọn bộ. Tập sách có lời Tựa của Dương Bá Trạc để năm 1927, lời Tựa của Tản Đà đề năm 1934, và do Á Nam Trần Tuấn Khải duyệt trước khi In; do đó, về văn bản bài thơ "Hà Nội tức cảnh" là đáng tin cậy. Nội dung bài thơ như sau: Phất phơ ngọn trúc trăng tà Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương Mỹ mù khói toa ngàn sương Nhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ.
So với bài thơ chép trong gia phả thì có sai biệt ở chữ "cành trúc". Kể theo biên niên thì sách Tục ngữ uà dân ca Việt Nam (1956) của Vũ Ngọc Phan có lẽ là sách sớm nhất có in bài ca đao với bốn câu:
Gió đưa cành trúc ia đà Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương Tuyệt mù khói tod ngàn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Đối chiếu với bài thơ gốc của Dương Khuê, thì bản sưu tập của Vũ Ngọc Phan khác hẳn câu đầu; hai chữ mỹ mờ ở câu thứ 3 cũng bị đổi thành /uyệt mù: tỉ mỉ hơn thì Trấn Võ được đọc Trấn Vũ, và An Thái được đọc Yên Thái. Sau đó, các sách sưu tập ca dao dân ca như T7 5¡ ca bình dân Việt Nam (1969 - 1970), Ca dao ngạn ngữ Hà Nội (1971 - 1973) đều có in bài này, giống như bản Vũ Ngọc Phan, chỉ khác hai chữ tuyệt mù lại được thay bằng mịt mù như bài thơ gốc. Riêng sách Cœ dao ngạn ngữ Hà Nội còn ghi hai trường hợp dị bản của câu đầu là: Phất phơ ngọn trúc trăng tà, và câu 2 là: Tiếng chuông Trấn Quốc canh gò Thọ Xương. Sách Người uà caũnh Hà Nội của Hoàng Đạo Thuý (Nxb Hà Nội, 1989) cũng ghi: "chuông Trấn Quốc", và một số chữ khác như: "màn sương", "mảnh gương" (tr. 43).
Cũng bài ca đao này, ở vùng Thừa Thiên - Huế, câu Tiếng chuông Trấn Võ... lại được thay bằng câu: Tiếng chuông Thiên Mụ - tên một ngôi chùa nổi tiếng ở Xứ Huế, nằm trên bờ sông Hương (Hương hoa đất nước, 1949; Dân ca Bình Trị Thiên, 1967; Thị ca bình dân Việt Nam, 1969 - 1970). Như vậy, qua khảo sát sơ bộ, bài "thơ được ca đao hoá" này có khá nhiều đị bản. Sở đĩ có dị bản chính là vì tác phẩm đã qua một quá trình vận động, lưu truyền bằng miệng, và sao đi chép lại nhiều lần của người sưu tầm. V]ladimia Prốp từng nêu thí dụ về trường hợp thơ của Puskin hoặc Nhêcraxốp khi đem trình diễn; ông cho rằng nếu vân hát đúng bài thơ, không làm biến đổi nguyên bản chút nào thì chẳng có vấn đề gì. "Nhưng khi những bài hát ấy được thay đổi, được hát khác đi, tạo nên những dị bản, thì chúng liền trở thành folklore" (Sdd, tr. 23).
Thế là từ một sáng tác của nhà thơ, qua quá trình vận động, tác phẩm được tạo nên dị bản và trở thành folklore. Như thế, vận động và tạo nên đị bản chính là hai điều kiện/ hai tiêu chí quan trọng khiến cho một bài thơ văn học trở thành một tác phẩm folklore. Bài "Hà Nội tức cảnh" trong quá trình vận động rõ ràng đã tạo nên một số đi bưn, nên đã trở thành bài ca dao "Cảnh đẹp Hồ Tây". Tuy nhiên, trong quá trình "ca đao hoá", thì vai trò của câu mở đầu cũng là một yếu tố rất quan trọng. Thống kê từ bộ Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1995) chúng tôi đếm được hơn 60 bài ca dao có mẫu câu mở đầu "Gió đưa". Có lẽ, do một mẫu câu hết sức quen thuộc và có tính phổ biến cao như vậy, nên trong quá trình lưu truyền bằng miệng. rất nhiều khả năng hai từ "Gió đưa” quen tai, quen miệng hơn đã được dân gian sử dụng như một hấp lực tự nhiên, vô thức, thay cho hai từ "Phất phơ" cùng với cä câu thơ mỡ đầu NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI


mang đậm hình ảnh ước lệ, tượng trưng của văn chương bác học.
Theo hướng tìm kiếm dị bản, với bài ca dao "Anh đi anh nhớ quê nhà..." mà tác giả Nguyễn Xuân Lạc cho biết vốn là sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải, chúng tôi cũng bắt gặp một đị bản ở vùng Sơn Tây cũ. Theo ghi chép của Phạm Xuân Độ về đặc sản của Sơn Tây, trong sách Sơn Tây tỉnh địa chí (1941), cùng với điều tra điền đã của chúng tôi, thì trong dân gian vùng phủ Quốc Oai cũ vẫn còn lưu truyền câu ca đao:
Anh đi anh nhớ quê nhà Nhó canh rau muống nhó cà Hoà Thôn.
"Hoà Thôn nay thuộc xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ có loại cà dày cùi, ít hạt, sau khi muối lại ngâm vào tương, cho đến khi quả cà thấm đó màu tương, ăn lại càng giòn, càng ngọt, càng ngon, trở thành nỗi nhớ của những người xa xứ" (Xem: X Đoài, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000, tr. 242). Như vậy, thật khó mà xác định bài ca đao ở địa phương có trước, hay là bài phong dao của Á Nam đã được địa phương hoá. Điều chắc chắn biết được, đó là bài phong đao ít ra có một đị bản; và đó chính là dấu hiệu cho thấy tác phẩm đã được "ca dao hoá" và trở thành folklore.
Ngoài hai trường hợp vừa khảo sát, chúng tôi muốn nêu thêm một trường hợp nữa để thêm rộng tầm nhìn. Đó là trường hợp bài ca đao "Cày đồng đang buổi ban trưa...". Có thể nói đây là một trường hợp hết sức đặc biệt và cũng hết sức lí thú. Nguyên đây vốn là bài thơ của Lí Thân (780 - 846) đời Đường:
Sử hoà nhật đương ngọ
Hãn trích hoà hạ thổ
Thuỳ niệm bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ.
(Đường thi nhất bách thủ, Trung Hoa thư cục, Thượng Hải, 1959 - Đường thị tam
bách thủ, Tân Cương - Thanh thiếu niên xuất bản xã, 1996). Nhà thơ Khương Hữu Dụng đã dịch sát từng câu, theo lối trực dịch "mot à mot" như sau:
Xói lúa trời đứng bóng
Mồ hôi đổ xuống ruộng
Ai biết cơm trong mâm
Hạt hạt đều cay đồng.
(Thơ Đường, Nxb Văn hoá, Viện Văn học, 1962). Một nhà Nho bình dân, hoặc một Nho sĩ có tư tưởng "thân dân", đồng cảm với nỗi khổ cực của người nông dân, đã chuyển dịch bài thơ của Lí Thân theo thể lục bát, một lối ca từ "Gái đệt trai cày nói lời hợp điệu" (Phạm Đình Toái) vốn rất quen thuộc như cơm ăn nước uống của người bình dân. Nhờ thế, bài thơ dịch đã được lưu truyền rộng rãi và trở thành bài ca đao dân gian quen thuộc mà lẫu nay nhiều người đã thuộc nằm lòng:
Còy đồng đang buổi ban trưa
Mô hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dỏo thơm một hột đắng cay muôn phần.
(Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, 1928). Thực ra, bản sưu tập bài ca dao này sớm hơn phải là Đại Nam quốc tuý, sách biên soạn bằng chữ Nôm của Ngô Giáp Đậu, năm Duy Tân thứ hai (1908), nội dung được ghi như sau:
Làm đồng đang buổi ban trưa Bồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dỏo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Bản ghi của Ngô Giáp Đậu có ba trường hợp mà bản của Nguyễn Văn Ngọc sau này ghi khác, đó là: "hàm đông", "Bồ hôi", "Một hạ". Do ghi bằng chữ Nôm, nên bản của Ngô Giáp Đậu ít giá trị phổ biến. Trước năm 1945, bản của Nguyễn Văn Ngọc có giá trị phổ biến rộng rãi hơn. Sau năm 1945, Vũ Ngọc Phan trong sách Tục 8 KIỂU THU HOẠCH
=———————==—ễễễ=—
ngữ uà dân ca Việt Nam (Nxb Sử học, Hà Nội, 1956) cũng có In bài ca đao này với nội dung như bản Nguyễn Văn Ngọc. Sách Thi ca bình dân Việt Nam (1969 - 1970) cùng ". đắng cay một phần", - theo khảo dị của nhóm Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (Sđd). Mặc dầu có một số đị bản, nói chung lời bài ca đao đã phản ánh rất trung thực lời bài thơ Đường nguyên tác. Tuy nhiên, nó đã được Việt hoá hoàn toàn để trở thành một bài ca dao dân gian ngươi Việt hay tuyệt vời, và đặc biệt, hầu như không thấy có dấu vết gì sống sượng về mặt ngôn từ của một bản địch thơ chữ Hán, thơ Đường.
in bài này, nhưng câu cuối lại là:
Chúng tôi còn có thể dẫn thêm một số trường hợp ca đao có nguồn gốc văn học - kể cả văn học chữ Hán của Trung Hoa cũng như văn học Hán - Nôm của Việt Nam. Tuy nhiên, qua mấy trường hợp vừa nêu, cũng cho phép chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sơ bộ như sau:
1- Hiện tượng một phân số ca đao hoặc thơ ca dân gian có nguồn gốc văn học là hiện tượng có tính phổ quát trong folklore của nhiều dẫn tộc trên thế giới.
2- Nói một tác phẩm thơ văn học được ca dao hoá, có nghĩa là nói tác phẩm đó có quá trình vận động qua không gian - thời gian và có đị bản.
3- Khi thơ ca của một tác gia văn học được ca dao hoá thì chủ yếu là do nội dung của tác phẩm đã phản ánh được tâm tư, tình cảm và tư tưởng thẩm mi của nhân dân, được nhân dân chấp nhận coi như tài sản nghệ thuật của mình.
4- Khi bài thơ văn học đã được ca đao hoá, thì cái phần "ca dao hoá" ấy đã trở thành ca dao dân gian, và đương nhiên, nó là một thành phần của văn học dân gian.f
H.!.H4