NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
I- Trên 7ạp chí Văn hoá dân gian, số 1
- 1996, tác giả Nguyễn Xuân Lạc trong bài
"Cảnh đẹp Hồ Tây - ca dao hay thơ?" đã đặt
vấn đề bài này là ca dao hay là thơ. Theo
tác gia cho biết, lâu nay bài này vân được
xem là ea dao, và các cuốn Tục ngữ ca dao
dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, (in lần
thứ 8, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978),
Ca dao Việt Nam do Đình Gia Khánh chủ
biên (Nxb Văn học, Hà Nội, 1988) v.v... đều
có ghi bài này. Cũng theo tác gia, sách giáo
khoa Văn 6, tập lÏ (cũ) và sách Văn 7, tập
II (sách chỉnh lí năm 1995) đều tuyển bài
này trong phần Ca dao. Thế nhưng sau đó,
đã có ý kiến nghi vấn về bài ea dao này liệu
nó có phải là ca đao không, hay là thơ? Ý
kiến nghi vấn do căn cứ theo hai điểm: Một
là, hình thức tiểu đối trong bài khá chặt
chẽ, tức là đối chọi đúng quy tắc trường ốc:
Tiếng chuông Trấn Vũ lcanh gò
Thọ Xương
Nhịp Chày Yên Thúij/ mặt gương
Tây Hồ
Hai là, câu chữ trong bài khá trau
chuốt, trang nghiêm. Và do hai điểm đó mà
người ta đi tới nhận định rằng, đây là sáng
tác của văn học viết, là thơ bác học chứ
không phải ca dao. Để giải quyết vấn đề
này, tác giả Nguyễn Xuân Lạc cho rằng cần
xem xét trên hai phương diện: /£h¡ pháp và
Uuăn bưứn. Về thì pháp, phải trả lời được câu
hỏi: ca đao có hình thức tiểu đối hay không,
có kiến trúc 3 - 3 và 4 - 4 trong câu thơ lục
bát hay không? Về văn bản, phải tìm ra
VỀ VẤN ĐỀ NGUỒN @C VĂN H0
@UA HỘT SÕ BÀI GA DA0 NGƯỜI VIỆT
KIỂU THU HOẠCH?)
được văn bản của tác giả nào chứng tỏ đây
là sáng tác thơ của văn học viết.
Về phương diện thi pháp, tác giả
Nguyễn Xuân Lạc nêu lên hai loại ý kiến
trái ngược nhau. Phan Ngọc trong bài "Tìm
hiểu sự đối xứng trong văn học" (Tạp chí
Văn học, số 1, 1983) viết: "Trong lục bát
của ca đao, dân ca, vè, không có tiểu đối".
Về sau, trong bài "Suy nghĩ về thể loại thở
song thất lục bát" (Tạp chí Sông Hương. số
9, 1984), Phan Ngọc lại viết: "Nói chung lục
bát dân gian không biết đến kiến trúc 3 - 3
và 4 - 4. Trong toàn bộ ca dao, dân ca phải
hàng ngàn câu mới có một câu như thế".
Nhưng đến công trình Tìm hiểu phong cách
Nguyễn Du trong Truyện Kiều (Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 205) thì Phan
Ngọc lại ước lượng ở mức thấp hơn: "Phải
hàng trăm câu mới gặp một câu có cấu trúc
3 - 8 hay 4 - 4 đối nhau", song vẫn khẳng
định: "Đó là một loại kiến trúc không có
trong thơ ca dân gian". Còn Hoàng Trinh
trong sách Đổi thoại uăn học (Nxb Hà Nội,
1986, tr. 1329) thì lại cho rằng: "Về hình
thức thơ, đối ngẫu là hình thức phổ biến
trong ca dao dưới mọi thể loại: đối ngẫu từ
ngữ, đối ngẫu ngữ pháp, đối ngâu ngữ
nghĩa, đối ngẫu hai chiều, đối ngẫu đối lập
và phân đề...".
Sau khi nêu hai ý kiến đối nghịch về
vấn đề đối ngẫu trong ca đao, nhưng nhận
thấy đó chỉ là những ý kiến suy đoán thiếu
căn cứ, tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã dựa
theo Nguyễn Xuân Kính trong công trình
°'QS. TS, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
4
KIỀU THU HOẠCH
Thị pháp ca dao (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1999, tr. 132 - 133) để đi tìm những cứ
liệu cụ thể mà tác giả Thỉ pháp ca dao đã
rút ra từ phương pháp thống kê, so sánh
hàng ngàn câu ca đao, qua khảo sát ba
cuốn Ca dao Việt Nam, Ca dao Nghệ Tĩnh,
Phương ngôn tục ngữ ca dao (sưu tâm ở
Nam Hà - Ninh Bình). Trên cơ sở đó, tác
giả Nguyễn Xuân Lạc đã bác bỏ ý kiến có
tính chất cực đoan của hai ông Phan Ngọc,
Hoàng Trinh khi một người thì cho hình
thức tiểu đối trong ca dao là hông có, một
người lại cho là phổ biến. Và, đến lượt
mình, tác giả Nguyễn Xuân Lạc đã đưa ra
một nhận xét có về chiết trung hơn, cho
rằng: "Ca dao có hình thức tiểu đối, nhưng
tiểu đối ở ca đao (...) so với tiểu đối ở thơ (...)
có mức độ nhạt, đậm khác nhau". Tuy
nhiên, khi nhận xét cụ thể về bài "Cảnh
đẹp Hồ Tây", thì tác giả Nguyễn Xuân Lạc
dường như vẫn còn tỏ ra băn khoăn, chưa
khẳng định được đó là văn học hay văn học
dân gian. Chính vì vậy, tác giả Nguyễn
Xuân Lạc lại phải tìm đến phương diện văn
bản để "xác định nó là ea dao hay thơ", và
nhấn mạnh "bởi vì chỉ có văn bản mới chứng
tỏ nó là sáng tác của văn học.viết - là thơ
chứ không phải ca dao". Tiếp đó, tác giả giới
thiệu tập Văn học uà tuổi trẻ, tập 6, (Nxb
Giáo dục, 1995), trong đó có bài "Bài thơ
được ea đao hoá đấy chăng?" của Hải Đăng,
cho biết bài "Cảnh đẹp Hồ Tây" chính là bài
thơ "Hà thành tức cảnh" của Dương Khuê
(1839 - 1902), được chép trong cuốn gia phả
họ Dương ở Vân Đình, Ứng Hoà, Hà Tây.
Bài "Hà thành tức cảnh" được chép như sau:
Phất phơ cành trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù bhói toa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Sau khi thông báo văn bản này, tác giả
Nguyễn Xuân Lạc kết luận: "Thế là rõ. Bài
ca dao này ban đầu là một bài thơ thuộc
văn học viết (...), sau đó được lưu truyền
trong dân gian và được ca dao hoá". Rồi tác
giả phân tích thêm: "Phần cải biên là ở câu
đầu: Phất phơ cành trúc trăng tà đã được
chuyển hoá thành Gió đưa cành trúc la đà.
Đúng là câu trên mang tính bác học rõ hơn,
còn câu dưới lại đậm đà phong vị dân gian”.
Nhân đó, tác giả bài báo còn cho biết thêm
hiện tượng "thơ được ca dao hoá" không chỉ
có ở bài này mà còn gặp ở một số trường
hợp khác. Đó là câu ea dao:
Hơi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng uàng đổ đi
tương truyền do Bàng Bá Lân sáng tác. Đó
là bài ca dao:
Anh đi anh nhúó quê nhà
Nhó canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhó at tát nước bên đường hôm nao.
Bài này đã được tuyển chọn vào sách
Văn học 7, tập II (sách chỉnh lí năm 1995),
nhưng chính là thơ làm theo lối phong dao
của Á Nam Trần Tuấn Khải, vốn được in
trong tập Bút quan hoài (1937). Phần cuối
bài báo, tác giả Nguyễn Xuân Lạc còn kể
thêm một số bài "thơ được ca đao hoá" của
những nhà thơ ở thời kì sau Cách mạng
tháng Tám 1945, mà trong đó tiêu biểu là
bài:
Thúp Mười đẹp nhất bông sen
Nước Nam đẹp nhất có tên cụ Hồ.
Đây vốn là hai câu trong bài thơ của
Bảo Định Giang. Cuối cùng, tác giả đặt vấn
đề "Hiện tượng £hơ được ca dao hoá là một
vấn đề lí thú" và không đơn giản, cần được
nghiên cứu sâu sắc và lí giải thoả đáng".
TII- Chúng tôi đã lược thuật nội dung cơ
bản của bài báo "Cảnh đẹp Hồ Tây - ca dao
hay thơ?" Vấn để đặt ra quả là lí thú! Và
người viết bài này vốn cũng là người thích
thú chuyện tìm kiếm này trong nhiều năm
qua.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
5
—==——=EỄEEEEE========ễ=ễỄễỄễễễỄEE
Tuy nhiên, trước khi đi vào khảo sát, lí
giải từng trường hợp cụ thể, chúng tôi cũng
nghĩ như Nguyễn Xuân Lạc, rằng vấn đề
"không đơn giản", rằng vấn đề "cần được
nghiên cứu sâu sắc và lí giải thoả đáng".
Như thế, vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là
đi tìm nguồn gốc văn học của bài ca dao.
Mà điều quan trọng hơn, còn là ở chỗ, phải
tìm hiểu, nghiên cứu xem từ một bài thơ nó
đã được ea dao hoá như thế nào? Về mặt lí
luận, đây cũng chính là vấn để văn học dân
gian hoá - một vấn đề không phải chỉ riêng
của folklore Việt Nam, mà cũng là vấn để
có tính phổ quát của cả folklore thế giới.
Chẳng hạn, theo Viladimia Prôp, nhà
folklore học Nga nổi tiếng, trong bài "Đặc
trưng của folklore" (do Chu Xuân Diên
dịch), thì một bài hát rất phổ biến trong
nhân dân Nga như ÐĐubinuska, hay bài 7
sau cù lao ra khúc sông sâu, a1 cũng tưởng
là thơ ca dân gian thực sự, nhưng hoá ra lại
là tác phẩm của hai nhà thơ ít người biết
đến tên tuổi; bài đầu là của Trephôleva và
bài sau là của Xađônhicôp. Đó là những
trường hợp đã hiến nhiên được coi là
folklore thực sự, mà hoá ra lại là tác phẩm
của hai nhà thơ. Song cũng có những
trường hợp vốn là tác phẩm văn học đã biết
tên tác giả hẳn hoi, chẳng hạn như bài thơ
Cánh buồm của Lermôntôp, hoặc bài Chữn
hoạ mỉ của Denvi, lại được hát lên như dân
ca v.v... Prôp đã đặt câu hỏi: "Chúng ta sẽ
xếp những trường hợp như vậy vào lĩnh vực
nào? Đó là folklore hay văn học?" Đồng thời
ông đã trả lời rằng: "Những thí dụ như vậy
có thể dẫn ra nhiều, và việc nghiên cứu mối
quan hệ ấy giữa folklore và văn học, là một
trong những công việc hết sức hứng thú
của người nghiên cứu lịch sử văn học cũng
như người nghiên cứu folklore. Xét về mặt
phương diện rộng hơn thì đó là vấn đề về
những nguồn gốc thành văn của folklore
nói chung". Và từ góc độ nghiên cứu
folklore học, Vlađdimia Prôp đã gọi hiện
tượng này là những tác phẩm folklore có
nguồn gốc văn học, để phân biệt với những
tác phẩm folklore dích thực, nghĩa là
những sáng tác dân gian vô danh từ các
thời đại xa xưa lưu truyền lại. (Xem: Văn
học dân gian - những công trình nghiên
cứu, Bùi Mạnh Nhị chủ biên, Nxb Giáo
dục, 1999, tr. 23-24).
Nói văn học dân gian hoá (tức tác
phẩm văn học được folklore hoá), hay nói
tác phẩm folklore có nguồn gốc văn học,
thực ra chỉ là cách nói khác nhau về hai
tình huống của một vấn để. Như trường
hợp "Cảnh đẹp Hồ Tây" là trường hợp vẫn
được coi là folklore, rồi sau đó, mới phát
hiện ra nguồn gốc văn học. Còn trường hợp
"Pháp Mười đẹp nhất bông sen...) thì vốn là
tác phẩm văn học, rồi đần dần được folklore
hoá. Tuy nhiên, dẫu là tình huống nào thì
cũng vẫn nằm trong phạm trù mối quan hệ
giữa folklore và văn học, mà ở trường hợp
"Cảnh đẹp Hồ Tây" thì mấu chốt của vấn
đề chính là phải lí giải được vì sao một bài
thơ của Dương Khuê lại trở thành ea dao
đân gian?
Qua bài báo, cho thấy tác giả Nguyễn
Xuân Lạc đã tìm hiểu khá công phu về mặt
thi pháp cấu trúc bài ca dao; song phần tìm
hiểu có hiệu quả để biết rõ nguồn gốc văn
học của bài ca dao thì chủ yếu lại ở phần
tìm hiểu về mặt văn bản. Tuy nhiên, theo
kinh nghiệm bản thân trong nhiều năm
nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không mấy
tin vào bản gia phả họ Dương chép tay.
Thêm nữa, bài báo lại không cung cấp đầy
đủ thông tin như niên đại sao chép, chép
bằng Hán Nôm hay bằng chữ quốc ngữ, vì
vậy rất khó có căn cứ để xác định thời điểm
ra đời của bài thơ nguyên tác. Riêng chúng
tôi được biết, thì bài thơ của Dương Khuê
có tên "Hà Nội tức cảnh" (khác với cái tên
chép trong gia phả là Hà Thành tức canh).
Nguyên bài thơ được In trong sách Văn đàn
6
KIỂU THU HOẠCH
bảo giám của Trần Trung Viên, gồm 3 tập,
in từ 1926 đến 1938 mới trọn bộ. Tập sách
có lời Tựa của Dương Bá Trạc để năm 1927,
lời Tựa của Tản Đà đề năm 1934, và do Á
Nam Trần Tuấn Khải duyệt trước khi In;
do đó, về văn bản bài thơ "Hà Nội tức cảnh"
là đáng tin cậy. Nội dung bài thơ như sau:
Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ
Xương
Mỹ mù khói toa ngàn sương
Nhịp chày An Thái mặt gương Tây Hồ.
So với bài thơ chép trong gia phả thì có
sai biệt ở chữ "cành trúc". Kể theo biên
niên thì sách Tục ngữ uà dân ca Việt Nam
(1956) của Vũ Ngọc Phan có lẽ là sách sớm
nhất có in bài ca đao với bốn câu:
Gió đưa cành trúc ia đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà
Thọ Xương
Tuyệt mù khói tod ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
Đối chiếu với bài thơ gốc của Dương
Khuê, thì bản sưu tập của Vũ Ngọc Phan
khác hẳn câu đầu; hai chữ mỹ mờ ở câu
thứ 3 cũng bị đổi thành /uyệt mù: tỉ mỉ hơn
thì Trấn Võ được đọc Trấn Vũ, và An Thái
được đọc Yên Thái. Sau đó, các sách sưu
tập ca dao dân ca như T7 5¡ ca bình dân Việt
Nam (1969 - 1970), Ca dao ngạn ngữ Hà
Nội (1971 - 1973) đều có in bài này, giống
như bản Vũ Ngọc Phan, chỉ khác hai chữ
tuyệt mù lại được thay bằng mịt mù như
bài thơ gốc. Riêng sách Cœ dao ngạn ngữ
Hà Nội còn ghi hai trường hợp dị bản của
câu đầu là: Phất phơ ngọn trúc trăng tà, và
câu 2 là: Tiếng chuông Trấn Quốc canh gò
Thọ Xương. Sách Người uà caũnh Hà Nội
của Hoàng Đạo Thuý (Nxb Hà Nội, 1989)
cũng ghi: "chuông Trấn Quốc", và một số
chữ khác như: "màn sương", "mảnh gương"
(tr. 43).
Cũng bài ca đao này, ở vùng Thừa
Thiên - Huế, câu Tiếng chuông Trấn Võ...
lại được thay bằng câu: Tiếng chuông Thiên
Mụ - tên một ngôi chùa nổi tiếng ở Xứ Huế,
nằm trên bờ sông Hương (Hương hoa đất
nước, 1949; Dân ca Bình Trị Thiên, 1967;
Thị ca bình dân Việt Nam, 1969 - 1970).
Như vậy, qua khảo sát sơ bộ, bài "thơ được
ca đao hoá" này có khá nhiều đị bản. Sở đĩ
có dị bản chính là vì tác phẩm đã qua một
quá trình vận động, lưu truyền bằng
miệng, và sao đi chép lại nhiều lần của
người sưu tầm. V]ladimia Prốp từng nêu thí
dụ về trường hợp thơ của Puskin hoặc
Nhêcraxốp khi đem trình diễn; ông cho
rằng nếu vân hát đúng bài thơ, không làm
biến đổi nguyên bản chút nào thì chẳng có
vấn đề gì. "Nhưng khi những bài hát ấy
được thay đổi, được hát khác đi, tạo nên
những dị bản, thì chúng liền trở thành
folklore" (Sdd, tr. 23).
Thế là từ một sáng tác của nhà thơ,
qua quá trình vận động, tác phẩm được tạo
nên dị bản và trở thành folklore. Như thế,
vận động và tạo nên đị bản chính là hai
điều kiện/ hai tiêu chí quan trọng khiến cho
một bài thơ văn học trở thành một tác phẩm
folklore. Bài "Hà Nội tức cảnh" trong quá
trình vận động rõ ràng đã tạo nên một số đi
bưn, nên đã trở thành bài ca dao "Cảnh đẹp
Hồ Tây". Tuy nhiên, trong quá trình "ca đao
hoá", thì vai trò của câu mở đầu cũng là một
yếu tố rất quan trọng. Thống kê từ bộ Kho
tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân
Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (Nxb Văn
hoá, Hà Nội, 1995) chúng tôi đếm được hơn
60 bài ca dao có mẫu câu mở đầu "Gió đưa".
Có lẽ, do một mẫu câu hết sức quen thuộc
và có tính phổ biến cao như vậy, nên trong
quá trình lưu truyền bằng miệng. rất nhiều
khả năng hai từ "Gió đưa” quen tai, quen
miệng hơn đã được dân gian sử dụng như
một hấp lực tự nhiên, vô thức, thay cho hai
từ "Phất phơ" cùng với cä câu thơ mỡ đầu
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
mang đậm hình ảnh ước lệ, tượng trưng
của văn chương bác học.
Theo hướng tìm kiếm dị bản, với bài ca
dao "Anh đi anh nhớ quê nhà..." mà tác giả
Nguyễn Xuân Lạc cho biết vốn là sáng tác
của Á Nam Trần Tuấn Khải, chúng tôi
cũng bắt gặp một đị bản ở vùng Sơn Tây cũ.
Theo ghi chép của Phạm Xuân Độ về đặc
sản của Sơn Tây, trong sách Sơn Tây tỉnh
địa chí (1941), cùng với điều tra điền đã
của chúng tôi, thì trong dân gian vùng phủ
Quốc Oai cũ vẫn còn lưu truyền câu ca đao:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhó canh rau muống nhó cà Hoà Thôn.
"Hoà Thôn nay thuộc xã Tam Hiệp,
huyện Phúc Thọ có loại cà dày cùi, ít hạt,
sau khi muối lại ngâm vào tương, cho đến
khi quả cà thấm đó màu tương, ăn lại càng
giòn, càng ngọt, càng ngon, trở thành nỗi
nhớ của những người xa xứ" (Xem: X
Đoài, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000,
tr. 242). Như vậy, thật khó mà xác định bài
ca đao ở địa phương có trước, hay là bài
phong dao của Á Nam đã được địa phương
hoá. Điều chắc chắn biết được, đó là bài
phong đao ít ra có một đị bản; và đó chính
là dấu hiệu cho thấy tác phẩm đã được "ca
dao hoá" và trở thành folklore.
Ngoài hai trường hợp vừa khảo sát,
chúng tôi muốn nêu thêm một trường hợp
nữa để thêm rộng tầm nhìn. Đó là trường
hợp bài ca đao "Cày đồng đang buổi ban
trưa...". Có thể nói đây là một trường hợp
hết sức đặc biệt và cũng hết sức lí thú.
Nguyên đây vốn là bài thơ của Lí Thân
(780 - 846) đời Đường:
Sử hoà nhật đương ngọ
Hãn trích hoà hạ thổ
Thuỳ niệm bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ.
(Đường thi nhất bách thủ, Trung Hoa
thư cục, Thượng Hải, 1959 - Đường thị tam
bách thủ, Tân Cương - Thanh thiếu niên
xuất bản xã, 1996). Nhà thơ Khương Hữu
Dụng đã dịch sát từng câu, theo lối trực
dịch "mot à mot" như sau:
Xói lúa trời đứng bóng
Mồ hôi đổ xuống ruộng
Ai biết cơm trong mâm
Hạt hạt đều cay đồng.
(Thơ Đường, Nxb Văn hoá, Viện Văn
học, 1962). Một nhà Nho bình dân, hoặc
một Nho sĩ có tư tưởng "thân dân", đồng
cảm với nỗi khổ cực của người nông dân, đã
chuyển dịch bài thơ của Lí Thân theo thể
lục bát, một lối ca từ "Gái đệt trai cày nói
lời hợp điệu" (Phạm Đình Toái) vốn rất
quen thuộc như cơm ăn nước uống của
người bình dân. Nhờ thế, bài thơ dịch đã
được lưu truyền rộng rãi và trở thành bài
ca đao dân gian quen thuộc mà lẫu nay
nhiều người đã thuộc nằm lòng:
Còy đồng đang buổi ban trưa
Mô hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dỏo thơm một hột đắng cay muôn phần.
(Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn
Ngọc, 1928). Thực ra, bản sưu tập bài ca
dao này sớm hơn phải là Đại Nam quốc tuý,
sách biên soạn bằng chữ Nôm của Ngô
Giáp Đậu, năm Duy Tân thứ hai (1908), nội
dung được ghi như sau:
Làm đồng đang buổi ban trưa
Bồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dỏo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Bản ghi của Ngô Giáp Đậu có ba
trường hợp mà bản của Nguyễn Văn Ngọc
sau này ghi khác, đó là: "hàm đông", "Bồ
hôi", "Một hạ". Do ghi bằng chữ Nôm, nên
bản của Ngô Giáp Đậu ít giá trị phổ biến.
Trước năm 1945, bản của Nguyễn Văn
Ngọc có giá trị phổ biến rộng rãi hơn. Sau
năm 1945, Vũ Ngọc Phan trong sách Tục
8 KIỂU THU HOẠCH
=———————==—ễễễ=—
ngữ uà dân ca Việt Nam (Nxb Sử học, Hà
Nội, 1956) cũng có In bài ca đao này với nội
dung như bản Nguyễn Văn Ngọc. Sách Thi
ca bình dân Việt Nam (1969 - 1970) cùng
". đắng
cay một phần", - theo khảo dị của nhóm
Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật
(Sđd). Mặc dầu có một số đị bản, nói chung
lời bài ca đao đã phản ánh rất trung thực
lời bài thơ Đường nguyên tác. Tuy nhiên,
nó đã được Việt hoá hoàn toàn để trở thành
một bài ca dao dân gian ngươi Việt hay
tuyệt vời, và đặc biệt, hầu như không thấy
có dấu vết gì sống sượng về mặt ngôn từ
của một bản địch thơ chữ Hán, thơ Đường.
in bài này, nhưng câu cuối lại là:
Chúng tôi còn có thể dẫn thêm một số
trường hợp ca đao có nguồn gốc văn học -
kể cả văn học chữ Hán của Trung Hoa cũng
như văn học Hán - Nôm của Việt Nam. Tuy
nhiên, qua mấy trường hợp vừa nêu, cũng
cho phép chúng ta có thể rút ra mấy nhận
xét sơ bộ như sau:
1- Hiện tượng một phân số ca đao hoặc
thơ ca dân gian có nguồn gốc văn học là
hiện tượng có tính phổ quát trong folklore
của nhiều dẫn tộc trên thế giới.
2- Nói một tác phẩm thơ văn học được
ca dao hoá, có nghĩa là nói tác phẩm đó có
quá trình vận động qua không gian - thời
gian và có đị bản.
3- Khi thơ ca của một tác gia văn học
được ca dao hoá thì chủ yếu là do nội dung
của tác phẩm đã phản ánh được tâm tư,
tình cảm và tư tưởng thẩm mi của nhân
dân, được nhân dân chấp nhận coi như tài
sản nghệ thuật của mình.
4- Khi bài thơ văn học đã được ca đao
hoá, thì cái phần "ca dao hoá" ấy đã trở
thành ca dao dân gian, và đương nhiên, nó
là một thành phần của văn học dân gian.f
H.!.H4