JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0042
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 144-153
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC SỞ V MỘT SỐ YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI GÂY HẤN TRƯỜNG HỌC
Phạm Thị Thanh Thúy
Khoa Công tác hội, Trường Đại học phạm Nội
Tóm tắt. Bài viết tập trung giới thiệu phân tích kết quả khảo sát thực trạng nhận thức
của học sinh trung học sở v một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi y hấn của các em
tại môi trường học đường. Thông qua việc tìm hiểu thực trạng này cho thấy nhận thức của
các em về tác động của các yếu tố chủ quan khách quan lên hành vi y hấn của học
sinh nhiều góc độ khác nhau đó những ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực. T
việc xem xét các yếu tố ảnh hưởng y sở rất quan trọng cho việc giải thích nguyên
nhân hành vi y hấn định hướng giải pháp cho những người làm công tác trợ giúp học
sinh i chung, học sinh hành vi gây hấn nói riêng trong trường học.
T khóa: Nhận thức, hành vi y hấn, yếu tố ảnh hưởng, học sinh trung học sở.
1. Mở đầu
nước ta, trong nh vực giáo dục, môi trường học đường nói chung và trường học trung
học sở THCS nói riêng đã và đang phải đối diện cũng n chịu nhiều thách thức trong việc giải
quyết các vấn nạn học đường như bạo lực, bỏ học, tự tử, áp lực học tập, nghiện ngập. . . trong
đó hiện tượng gây hấn trong trường học đã và đang hiện hữu, vẫn vấn đề đáng lo ngại không chỉ
đối với ngành giáo dục, với gia đình học sinh cả toàn hội nói chung.
Trên thế giới, nghiên cứu liên quan đến hiện tượng y cả về mặt luận và thực tiễn đã
những công trình tiêu biểu các tác giả tiếp cận dưới những góc độ khác nhau như: Tonja Nansel
(năm 2001) và đồng nghiệp nghiên cứu v nh trạng bắt nạt trẻ em tại trường học, nghiên cứu
thực hiện 15.000 học sinh lớp 6 đến lớp 10 Mỹ; Nghiên cứu của nhà Tâm học người Na Uy
Roland (2002) luận giải được động cơ gây hấn của trẻ em xuất phát từ cảm giác chán nản, thất
vọng; Anh, những nghiên cứu mới nhất được thực hiện liên quan đến nh vi y hấn (HVGH)
diễn ra nghiêm trọng trong lớp học. Tại Châu Á, theo một nghiên cứu của chính phủ Nhật Bản o
năm 2003, nạn gây hấn giữa học sinh với nhau trong các trường học Nhật Bản đã tăng hơn 5% so
với năm trước đó. Tại Hàn Quốc, theo một cuộc khảo sát của Bộ giáo dục nước y, năm 2007
khẳng định tình trạng GHHĐ đã gia ng nước y. So với năm 2003, tỉ lệ học sinh bị bạn học
đe dọa, trấn lột hoặc bắt nạt đều cao gấp từ 2 đến 3 lần [dẫn lại 1].
Ngày nhận bài: 15/5/2015. Ngày nhận đăng: 10/8/2015.
Tác giả liên lạc: Phạm Thị Thanh Thúy, địa chỉ e-mail: thanhthuyuno8909@gmail.com
144
Nhận thức của học sinh trung học sở v một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn trường học
Hiện nay, Việt Nam, rất ít nghiên cứu chuyên sâu v thuyết HVGH nói chung và gây
hấn học đường nói riêng. Đến năm 2011, mới một cuốn sách chuyên khảo Hành vi gây hấn
phân tích từ góc độ tâm học hội của tác giả Trần Thị Minh Đức. Trong cuốn sách y, tác giả
đã đề cập tương đối hệ thống sở luận và thực tiễn v HVGH được phân tích dưới góc độ
Tâm học hội.
Những nghiên cứu cụ thể v thực trạng HVGH hầu như rất ít. Chủ yếu các đề tài, bài báo
tập trung o việc nghiên cứu v hành vi lệch chuẩn của học sinh, cụ thể như: Bạo hành đối với
trẻ em gái trong môi trường học đường (Nguyễn Phương Thảo và cộng sự, 2005); Hành vi sai lệch
chuẩn mực của học sinh tại một số trường phổ thông Nội (Tạp c Phát triển giáo dục - Hoàng
Gia Trang, 2005); Ảnh hưởng của nhóm bạn không chính thức đến hành vi phạm pháp của trẻ vị
thành niên (Mã Ngọc Thể, 2004); Cách thức cha mẹ quan hệ với con cái và hành vi lệch chuẩn của
trẻ (Lưu Song Hà, 2008),. . .
Vào những năm gần đây, HVGH học đường mới được tập trung nghiên cứu một cách trực
tiếp. thể k đến một số đ tài nghiên cứu, bài báo khoa học liên quan đến HVGH trong
phạm vi trường học của học sinh n sau: y hấn học đường và nhận thức của học sinh v y
hấn (Trần Thị Minh Đức, 2010); Khác biệt giới trong hành vi gây hấn của học sinh trung học phổ
thông (Hoàng Xuân Dung, 2010); Hành vi y hấn của học sinh trung học ph thông (Trần Thị
Minh Đức, Hoàng Xuân Dung, 2008 - 2010); Hiện tượng gây hấn trong các trường phổ thông trung
học hiện nay (Trần Thị Minh Đức, 2010). Tuy nhiên các nghiên cứu y đều tập trung phân tích
HVGH chủ yếu góc độ tâm học hội và tập trung o khách thể học sinh lứa tuổi trung
học phổ thông.
Theo hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài y, chúng tôi muốn mở rộng góc nhìn v những
yếu tố ảnh hưởng đến HVGH đối với nhóm học sinh lứa tuổi THCS (từ lớp 6 đến lớp 9) - lứa tuổi
với nhiều biến động, những “khủng hoảng”v tâm sinh của quá trình chuyển tiếp từ tuổi vị thành
niên sang tuổi trưởng thành. Thêm vào đó, đề tài mong muốn tiếp cận và giải nguyên nhân của
thực trạng hiện tượng gây hấn trong trường học dưới nhiều góc đ khác nhau không ch mặt tâm
học, hội học, đặc biệt lăng kính của công tác hội, làm sở trong việc định hướng
việc trợ giúp cho học sinh liên quan đến vấn đề gây hấn tại trường học THCS.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến nh vi y hấn của học sinh
Những yếu tố chủ quan được xem xét ảnh hưởng đến HVGH của học sinh, đó là: kiểu
khí chất, đặc điểm tâm và s khác biệt v giới.
* Kiểu khí chất
Khi tìm hiểu v tính cách của người HVGH tới 84,7% cho rằng đó người nóng nảy,
mạnh mẽ, quyết liệt, dễ b kích động (k chất nóng nảy); 9,3% cho đó người nông nổi, vội
vàng (khí chất linh hoạt); và chỉ 1,6% cho đó những người nhận thức chậm và thiếu tự tin
(khí chất bình thản, điềm tĩnh). Trong thực tế đã diễn ra với bất một kiểu khí chất nào nêu trên
thì đều thể những HVGH nếu những điều kiện tác động tiêu cực từ bên ngoài. Tuy nhiên,
cũng thể nhận diện người khí chất nóng nảy chính kiểu khí chất điển hình có xu hướng
gây ra HVGH rệt nhất. Ngược lại, với những người kiểu k chất bình thản và điềm tĩnh thì
145
Phạm Th Thanh Thúy
họ xu hướng rụt rè, sợ sệt, ngại tiếp xúc với đám đông n giảm thiểu nguy gây hấn.
Với việc đánh giá cho điểm bản thân, 33,9% cho mình người hoạt bát nhanh nhẹn;
23,5% cho mình người chậm chạp; 18,6% nhận mình người nóng nảy, thiếu kiềm chế 24%
học sinh nhận mình người đa cảm, ưu tư. Tương tự với việc cho điểm bản thân, 3 mức 1
điểm - cho những em học sinh nhút nhát, không tự bảo v được mình; 5 điểm - cho học sinh
sự linh hoạt, cân bằng trong các tình huống 10 điểm - cho học sinh tính hung hăng, xu
hướng tấn ng, lấn át người khác. Theo số liệu thống kê, 9,3% học sinh cho mình điểm 1 tự
nhận mình nhút nhát, tự ti, không dám bảo v bản thân; 82,5% cho mình người biết cân bằng
và linh hoạt trong mọi tình huống với điểm 5; 8,2% số học sinh n lại cho mình điểm 10. Kết
quả y phản ánh được những em tự nhận mình người nóng nảy, hung hăng xu hướng tấn
công, lấn át người khác những em tính cách dễ bị kích động, không làm chủ được nh vi
bản thân, dễ bị chi phối bởi cảm xúc nhất thời. Trong giao tiếp với người khác, các em thường thể
hiện tính gay gắt, dễ nổi nóng, dễ bị kích thích và thường xuyên không kiềm chế được cảm c
và hành vi của mình. Các em ít năng lực đánh g hành vi ứng xử của người khác một cách
khách quan n dễ tạo ra xung đột trong tập thể. Trong một số tình huống, nếu bị khích bác, các
em khó thể kiềm chế cảm xúc và rất thể dẫn đến những HVGH.
* Đặc điểm tâm
Nhìn chung, học sinh HVGH thường thích tự khẳng định bản thân, thích mình trở nên
nổi bật. Các em thường hay đua đòi, chy theo vật chất, thích làm người lớn, làm anh hùng, hay bốc
đồng, thiếu sự cảm thông, muốn được làm trung tâm của sự chú ý. . . V thể chất, các em thường
thân hình to khỏe, nổi bật và những đặc điểm các bạn ng trang lứa ngưỡng mộ. Đối với
các các mối quan hệ trong trường, lớp, những em này thường không kết bạn và không thích gần
với những bạn thành tích học tập tốt, chăm ngoan thích giao du kết bạn với những người
giống như mình. Với các hoạt động chung của trường, lớp, c em hay thờ ơ, không hứng thú
tham gia, hoặc nếu phải tham gia thì tưởng chống đối.
Những học sinh nạn nhân của HVGH thông thường những em khá nhút nhát, tự ti.
Các em thường sống khép mình, cảm thấy thất vọng, độc, thấy bản thân thấp kém. Nếu thường
xuyên bị gây hấn các em tr nên càng thu mình, luôn trong trạng thái căng thẳng sợ i nguy
làm hại đến chính bản thân mình hoặc cũng thể phản ứng ngược lại, các em tr nên
lợm, bất cần và có xu hướng trả thù kẻ gây hấn với mình với những hành vi nguy hiểm mang tính
phi pháp [2].
* Sự khác biệt v giới
một khía cạnh khác, xét v yếu tố giới trong HVGH của học sinh qua khảo sát, kết qu
cho thấy 96,7% các học sinh cho rằng có sự khác biệt v giới trong HVGH. Đa phần các em
chỉ giải thích dựa trên sở nhìn nhận thực trạng các em thường thấy thì “tỉ lệ nam sinh gây
hấn nhiều n với những hình thức và mức độ nặng nề hơn do một phần quan trọng v mặt th
lực, tầm vóc hơn nữ nên luôn tỏ ra ưu thế hơn trong việc đảm nhận vị trí quan trọng của lớp
nếu như không được thì bị cho kém cỏi hơn con gái và như vy không xứng đàn ông” (Phan
Văn H. học sinh lớp 7C cho biết). T định kiến y mà nam sinh thường luôn muốn thể hiện mình,
thể hiện “quyền uy”, điều đó thể liên quan đến HVGH để đạt được mục đích. Tuy nhiên,
qua phỏng vấn sâu một số thầy cũng cho thấy hiện trạng “cả nam sinh và nữ sinh y gi đều
HVGH với mức độ và c biểu hiện gây hấn không nhiều khác biệt. Trên các phương tiện
146
Nhận thức của học sinh trung học sở v một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn trường học
thông tin đại chúng hiện nay, c trang báo mạng, những hình ảnh, clip nữ sinh đánh nhau, giật
tóc, lột quần áo. . . đầy đủ các hình thức bạo lực nhiều khi n kinh khủng hơn cả việc nam sinh
gây lộn đánh nhau. Khả ng xảy ra HVGH c nam sinh và nữ sinh theo i rất khó phân định
nhiều hay ít những vụ việc không được biết đến, không thể nào thống kê đầy đủ số vụ việc
học sinh gây ra. Vấn đề đây, theo tôi không phải so sánh hay đối chiếu nam gây hấn nhiều
hay ít hơn nữ quan trọng gây hấn mức độ nào và hậu quả ra sao để biện pháp x lí”
(Thầy Nguyễn Trọng D. cho biết).
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học và những tác giả của thuyết hành vi thể nhận
thấy rằng, sinh học cũng một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến việc phân hóa
HVGH và xu hướng xảy ra nam nhiều hơn nữ. Tuy nhiên trong thực tế, với sự tác động của
điều kiện hoàn cảnh của môi trường sống, q trình tập nhiễm xã hội ng những yếu tố tác
động đến hành vi của con người nên yếu tố sinh học sở nhưng không phải yếu tố quyết
định [3]. Trong bức tranh tổng thể v gây hấn học đường, nhìn từ góc độ giới thì đây không phải
hành vi chỉ xy ra nam sinh hiện nay, hành vi y nữ sinh xu hướng gia tăng cao v
cả số lượng và hình thức gây hấn. Những nội dung v HVGH của nữ sinh đánh nhau, gây hấn, bạo
lực trong thời gian vừa qua ngập tràn các kênh thông tin báo mạng, các hình ảnh nữ sinh còn mang
trên mình chiếc áo đồng phục của trường nhưng lại sẵn sàng những hành vi bạo lực với bạn
học một cách hung bạo. Điều đó không còn hiếm gặp hay xa lạ trong hội ngày nay vì phán
ảnh một thực trạng đáng buồn v những vấn nạn ngay chính trong trường học - i gắn liền với
sứ mệnh với việc cung cấp hiểu biết kiến thức, giáo dục nhân cách, tâm hồn với sự nghiệp “trồng
người” cao cả.
2.2. Yếu tố khách quan
* Ảnh hưởng của điều kiện sống (gia đình, nhà trường, cộng đồng xung quanh)
Ảnh hưởng từ môi trường giáo dục trong gia đình - cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng tâm hồn
nhân cách con người. Theo kết quả nghiên cứu, 6,6% học sinh hiện nay không sống cùng với
bố mẹ đẻ với một trong những nguyên nhân như bố mẹ đi làm ăn xa, li dị hoặc đã mất. Trên thực
tế, bản thân những em này thiếu thốn tình cảm và sự chăm c giáo dục từ bố mẹ nên rất cần s
quan tâm đúng mức của người lớn nhằm mục đích quan tâm đến giáo dục, học tập, phát triển nhân
cách toàn diện cho các em [4].
Xem xét trong mối quan hệ của học sinh THCS với gia đình, chúng tôi nhận thấy khi các
em mắc lỗi, b mẹ hoặc người chăm sóc trong gia đình những biểu hiện hành động đa dạng,
khác nhau y thuộc vào mức độ phạm lỗi của c em. Kết quả khảo được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1. Các biểu hiện hành động của cha mẹ/người chăm sóc khi con em họ mắc lỗi
Stt Hành động Tỉ lệ (%) Thứ bậc
1 Khuyên bảo 26,2 3
2 Chửi mắng 38 2
3 Đánh đập 17,5 4
4 Đưa ra các hình phạt 39,9 1
5 Coi như không 13,7 5
147
Phạm Th Thanh Thúy
Bảng 1 cho thấy, hành động cha mẹ hay người chăm sóc thường sử dụng nhiều nhất
đưa ra các hình phạt. Trong số 39,9% em hay bị xử phạt theo hình thức này thì tới 45,2% em
bị nhốt trong phòng, 93,2% em bị cấm không cho giao tiếp với bạn bè, 79,5% em b cấm đi chơi.
Điều đó nói n rằng, mặc những hình phạt các vị phụ huynh đưa ra tuy hơi phần nghiêm
khắc nhưng đã đem lại hiệu quả nhất định trong việc giáo dục, răn đe học sinh THCS. T hại hơn
nữa khi các em mắc lỗi 38% các em bị bố mẹ chửi mắng,17,5% bị đánh đập. Tỉ lệ y tuy
không cao nhưng cũng chiếm một phần không nh trong các biểu hiện hành động của người
lớn trước lỗi lầm của con trẻ. Việc chửa mắng hay đánh đập con cái, nhất khi các em đang lứa
tuổi vị thành niên một sai lầm không đáng những nh động y của người lớn không giúp
các em nhìn nhận được lỗi lầm của mình chỉ càng khiến cho các em những thái độ, hành vi
không đúng mực và những hành vi y càng ngày sẽ phát triển và xu hướng trở thành HVGH.
Tuy nhiên, cũng một số bậc phụ huynh nhận thức, hiểu biết hơn biết khuyên bảo khi con
em họ mắc lỗi (26,2%) đã giúp các em rất nhiều trong sự hình thành và phát triển nhân cách và
những lời khuyên bảo c nh, đúng lúc, đúng chỗ sẽ cẩm nang để các em mang theo trong suốt
cuộc đời. Mặt khác, chỉ 13,7% cha mẹ các em coi như không khi các em mắc lỗi. Đây
biểu hiện cụ thể của hành vi sao nhãng, không quan tâm, chú ý đến hành vi của con mình - sự
thờ ơ của các bậc phụ huynh cũng chính một hình thức m tổn thương tinh thần đối với con trẻ.
Các em cảm thấy đơn, lạc ng ngay trong chính gia đình mình. Trong khi đó, học sinh THCS
cho biết một số ý kiến khác như c em không chỉ chịu các hình phạt còn kèm theo những lời
mắng nhiếc, xỉ nhục thậm tệ từ chính những người thân của mình. Hậu quả của những hình thức
trừng phạt thân thể trừng phạt tinh thần nói trên dẫn đến việc các em trở nên nhút nhát, mặc
cảm hơn và không tin vào những giá trị của bản thân nên chúng khó điều kiện hòa nhập với môi
trường xung quanh một cách thuận lợi. Mặt khác, cũng th xảy ra việc các em chống đối người
lớn quyết liệt với thái độ hung hăng, ngỗ ngược để phản ứng lại những ứng xử thiếu tính tích cực
của cha mẹ các em. Cả hai xu hướng đó đều khiến các em những phát triển tâm không bình
thường biểu hiện bằng sự phát triển nhân cách lệch lạc.
Bảng 2. Bầu không khí tâm trong gia đình học sinh THCS
Stt Bầu không khí tâm Tỉ lệ (%) Thứ bậc
1 Quan tâm, gắn , yêu thương nhau 30,1 1
2 Lạnh nhạt, thờ ơ 12 4
3 Thỉnh thoảng cãi , xung đột 24,5 3
4 Căng thẳng, ngột ngạt 7,1 5
5 Thoải mái, dễ chịu 27,3 2
Bảng 2 chỉ ra rằng, 30,1% học sinh cho biết rằng bầu không khí tâm trong gia đình các
em quan tâm, gắn , yêu thương nhau và 27,3% được sống trong gia đình với bầu không khí
thoải mái, d chịu. Hai tiêu c y được học sinh THCS lựa chọn với tỉ lệ cao nhất đã minh chứng
một sự đổi mới v giáo dục đã đi sâu vào từng gia đình và được các bậc ph huynh nhận thức
rệt và thể hiện trong mối quan h với nhau và cách ứng xử với con cái. Ngược lại, chỉ một tỉ
lệ rất nhỏ học sinh THCS cảm thy căng thẳng, ngột ngạt với không khí gia đình hiện tại (7,1%)
và cảm nhận sự lạnh nhạt và thờ ơ, mối quan hệ giữa các thành viên lỏng lẻo (12%). Điều đó cho
thấy, trong gia đình những học sinh y mầm mống của sự bất hạnh từ cuộc sống hôn nhân của
148