N xấu là của c nn kinh tế
Thời gian qua, luậnhội có v hơi quá khắt khe và có phần phiến diện khi
đánh giá v hoạt động ngân hàng. Vấn đề n xấu cũng vậy,hội ch biết đổ lỗi
cho h thống ngân hàng. Như vậy là không khách quan và không chính xác. Mà
khi chưa có cái nhìn chính xác v bản chất, nguồn gốc n xấu, thì cũng khó có th
đưa ra được giải pháp đúng để x lý n xấu.
không lại tùy thuộc vào bên đi vay, đó là DN. Bản thân các DN cũng rất muốn s
dụng đồng vốn an toàn, hiệu quả; làm sao để đồng vốn có kh năng sinh lời cao.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan khó khăn, biến động bất thường
của kinh tế trong và ngoài nước, một s rủi ro v mặt chính sách vĩ khiến hoạt
động của DN không được như mong muốn. DN hoạt động không hiệu qun
không có tiền để tr n và lãi ngân hàng, t đó phát sinh n xấu cao nhiều hơn so
với thời điểm khác. Thực tế, ti nhiều quốc gia trên thế giới cũng vậy, khi nền
kinh tế rơi vào khó khăn, khủng hoảng, n xấu của h thống ngân hàng thường
xu hướng tăng cao và tăng nhanh.
Vì vậy, nói n xấu của h thống ngân hàng là chưa chính xác,đây chính là n
xấu của DN, của nền kinh tế, còn h thống ngân hàng chi hứng chịu, gi h
DN khối n xu đó.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩacác ngân hàng không có lỗi. Nếu các
ngân hàng tuân th nghiêm các quy định, quy trình cấp tín dụng, kiểm tra sát sao
việc s dụng vốn của khách hàng..., thì s hạn chế được nhiều n xấu.
Có ý kiến cho rằng, n xấu hiện nay là không quá đáng lo, khi theo NHNN,
các khoản n xấu đều được trích lập d phòng rủi ro đầy đủ. Hơn nữa, giá tr
tài sản đảm bảo của các khoản n xấu bằng 135% giá tr của các khoản n
xấu? Ý kiến của ông như thế nào?
Vthuyếtnhư vậy, nhưng trên thực tế cũng còn rất nhiều vấn đề.
Th nht, hiện con s n xấu theo công b của NHNN ln hơn rất nhiều (202.000
t đồng, chiếm 8,6% tổng nợ), gấp gần 2 lần con s thống kê của các t chức
tín dụng (117.000 t đồng, chiếm 4,47% tổng nợ). Điều đó cho thấy, không ít
t chức tín dụng (TCTD) không minh bạch, thậm chí c tình che giấu n xấu.
Khoảng 85.000 t đồng không được các TCTD đưa vào n xấu, cũng có nghĩa
chừng ấy n xấu chưa được trích lập d phòng rủi ro. Đóchưa k việc phân loại
n xấu của Việt Nam hiện nay còn cách khá xa so với chuẩn quốc tế, ch yếu dựa
vào các định lượng v s ngày quá hạn tr n đơn thuần, nên chưa chính xác.
Th hai, giá tr tài sản đảm bảo được tính tại thời điểm nào? Theo như tôi hiểu thì
các TCTD thường “áng chừng” tại thời điểm phát sinh món nợ, tức trước thi
điểm món n ấy chuyển thành n xấu một khoảng thi gian khá dài. Như vậy, đến
nay, giá tr tài sn đó có th đã không còn như tính toán ban đầu. Hơn thế, đa phần
tài sản đảm bảo là bất động sản, trong khi ch tính t đầu năm đến nay, giá nhiều
loại bất động sản đã giảm tới 30 - 40%.
Th ba, việc xtài sản đảm bảo để thu hồi n rất phức tp. Mặcpháp luật
cho phép ngân hàng được quyền trực tiếp nhận tài sản v hoặc bán tài sản cho bên
th ba hoặc nhận trực tiếp tài sản khấu tr n, nhưng trên thực tế, ngân hàng
không th trực tiếp m được điều đó, bởi pháp luật quy định là phải sang tên qua
th tục công chứng. Trong khi để công chứng được, theo quy định của B luật
Dân sự, hợp đồng mua bán tài sn phải là ch tài sản hoặc ch tài sản ủy quyền.
Song nhiều ch tài sản c tình gây khó khăn, không chịu bàn giao tài sản hoặc
không ủy quyền cho ngân hàng, thm chí h còn phản đối. Do vậy, bế tắc và cuối
cùng ngân hàng phải làm cái việc bất đắc dĩ đưa nhau ra tòa, mất rất nhiều thời
gian (có th vài m) và chi phí.
Vậy theo ông, cần giải pháp để xkhối n xấu này?
Là n xấu của c nền kinh tế nên cần có s chung tay của toàn b nền kinh tế, k
c Nhà nước, ch không th “phó mặc” cho c ngân hàng t lo. Trong bối cảnh
hiện nay, giải cứu DN chính là giải pháp tốt nhất để giải cứu n xấu.
Theo đó, v mặt chính sách vĩ mô, bên cạnh các giải pháp h tr trực tiếp cho DN
như các giải pháp giãn, giảm, miễn thuế vừa qua, Nhà nước cầngiải pháp tăng
sức cầu của nền kinh tế. Khi cầu đầu tư, tiêu dùng tăng s khơi thông được đầu ra
cho sản xuất - kinh doanh. Đặc biệt, cần xem xét miễn thuế thu nhậpnhân cho
cán bộ, công chức, người lao động trong một thời gian để kích thích sức mua.
V phía ngân hàng, có th lựa chọn các DN tốt để h tr với chế ưu đãi lãi suất
để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nhm kích thích sức mua. Với
những DN có th tồn tại, phát triển, thì ngân hàng nên kịp thời bơm vốn để thúc
đẩy sản xuất - kinh doanh.
V phía DN, cần cấu lại hoạt động của mình để tiết giảm chi phí, giảm giá
thành, tăng năng lực cnh tranh... Tuy nhiên, th trường thực s không cần s tồn
tại của những DN quá yếu. Do vậy, chế phá sản, giải th DN cần được mạnh
dạn áp dụng. đây, cần nhìn nhận việc phá sản của DN là một vấn đề bình thường
trong nền kinh tế th trường. S phá sn của một DN yếu s tạo điều kiện cho
những DN còn lại, cũng như những DN mới ra đời.
Ngoài ra, ngành tòa án nên chế phối hợp, h tr ngành ngân hàng trong việc
x lý tài sản thế chấp. Loại b những nhn thc xung đột v khía cạnh hình thức
của giao dịch bảo đảm trong thi gian qua để xbản cht giao dịch theo hướng
cho phép ngân hàng nhanh chóng xtài sản để thu hồi nợ.
Thời gian qua xuất hiện hiện tượng cho vay đảo nợ. Theo ông, liệu đây có phải
là giải pháp để cứu n xấu?
Cứu theo nghĩa làm sạch bng cân đối tài sản của các TCTD thìthể, ch x
dứt điểm n xấu thì không. Đó chưa k những rủi ro tiềm ẩn là rất lớn, do s
thiếu minh bạch v thông tin. Các t chức, DN quốc tế nhìn vào Việt Nam s khó
phân biệt được thực gi v tình trạng n xấu.
Ông có th phân tích rõ hơn vấn đề này?
Đảo n tứccho vay mới để tr n cũ. Như vậy, tổng n không thay đổi, song
thời điểm phát sinh khoản vay có thay đổi, kéo theo thi điểm tr n cũng thay
đổi. Do đó,những khoản n nếu để nguyên s phải xếp vào n quá hạn, n xấu;
nhưng vì cho vay đảo n nên thành n nhóm 1. Nghĩa là bng cân đối tài sản của
các TCTD s “sạch sẽ” n và các TCTD cũng không phải trích lập d phòng rủi
ro cho món n này, giúp cải thiện các con s v lợi nhuận.
Song việcm này tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Thời gian qua, có một s ngân hàng
tìm đến công ty luật, do h gặp phải những vn đề trong quá trình cho vay đảo nợ.
Thông thường, khi cho vay đảo n, ngân hàng lập h để tất toán khoản n cũ,
đồng thời lập h vay n mới. Thế nhưng, khi lập h tt toán xong n cũ thì
khách hàng không chịukhế ước để nhận n mới. Do đó, n cũ v danh nghĩa
đã hạch toán s sách xong, nhưng n mới thì chưa tính. Cuối cùng, ngân hàng lại
nh đến công ty luật.
Cũngtrường hợp ngân hàng đi đường vòng, không cho DN A vay để đảo n,
mà cho DN B vay; sau đó, DN A lấy khoản tin ấy để đảo n và ngân hàng hạch
toán khoản n xấu sang DN B. N vậy, khoản n xấu đã được chuyển cho khách
hàng mới, mặc dù tình trạng xấu không thay đổi. Tuy nhiên, trong quá trình đó
th phát sinh nhiều vấn đề, ví d suất liên quan đến tài sản bảo đảm. Trước đây,
n xấu thật nhưng tài sản bảo đảm lại có, nhưng khi chuyển sang người th ba thì
quá trình gán ghép tài sản bảo đảm vào các khoản n mới lại có vấn đề, dẫn đến
tranh chấp.