a4
W7 74M4 đM
MỜI 7 1W f0,
W/ÊW 1/6,
77W
HOÀNG HỮU BÌNH”) - NGUYỄN XUÂN NAM†?
ên Phương là một xã nằm bên tả
MP Hồng thuộc huyện Yên Lạc,
tỉnh Vĩnh Phúc. Xã có 4 thôn: Dân Trù,
Phương Trù, Yên Thư và Lũng Hạ;
trong đó có hai thôn theo đạo Thiên
Chúa là Dân Trù và Phương Trù
(khoảng 1700 người). Xã có số dân gần
9000 người ( 2002), diện tích tự nhiên
là 436 ha; trong số đó, diện tích canh
tác là 370 ha trồng lúa là chủ yếu; chỉ
có một số ngành nghề phụ như làm
mộc, làm gạch, làm đậu v.v...
Nhìn chung, đời sống kinh tế của
nhân dân tương đối ổn định.
Yên Phương là xã có bề dày lịch sử,
văn hoá. Là mảnh đất nằm trong khu
vực văn hoá dân gian (folklore) Hai Bà
Trưng. Làng nào trong xã cũng có đình,
chùa thờ các vị anh hùng dân tộc: Đình
các làng Dân Trù, Phương Trù thờ
Phùng Hưng, đình Lũng Hạ thờ thánh
Tản Viên, đình Yên Thư thờ ÁẢ Là
Nương Đề. Mỗi làng đều có chùa nhất
là chùa Dân Trù có tháp Sứ xây dựng
từ thế kỉ thứ 14 là một hiện vật lịch sử
- văn hoá, đã được giới thiệu cho cả
nước và thế giới biết. Nhưng do chiến
tranh nên các ngôi đình chùa đều bị
(* #. _- =
T8, Viện Dân tộc học.
É” Sinh viên Đại học Văn hoá Hà Nội.
HOÀNG HỮU BÌNH - NGUYÊN XUÂN NAM
tàn phá đến nay đã được khôi phục lại
nhưng không được cổ kính như xưa. Hai
họ Đạo còn có 2 nhà thở xây dựng từ năm
1924 đến 1926 đến nay được tu sửa đẹp
đẽ khang trang. Nhà thờ Dân Trù lấy
Đức Mẹ Mân Côi làm quan thầy (Thành
Hoàng). Nhà thờ Phương Trù lấy thánh
Gioan Baotuxita làm quan thầy.
Yên Phương có nhiều tập tục, lễ hội,
tôn giáo: Lễ hội kính Thành Hoàng làng
vào tháng giêng, tháng hai hàng năm, lễ
mừng phật sinh, các lễ hội phục sinh của
người theo đạo Thiên Chúa v.v... và
nhiều trò chơi trong lễ hội như đánh cờ
người, đi cầu treo, chọi gà, bắt vịt v.v...
Thấm nhuần đạo lí uống nước nhớ
nguồn, ghi nhớ công cha sinh mẹ dưỡng
nên phong tục tang ma của người dân
Yên Phương, nhất là phong tục của
người theo đạo Thiên Chúa có nhiều
nét đặc sắc.
5
si
Đám tang của người Việt xã Yên Phương,
huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2O
Trong cuộc đời con người không ai
tránh khỏi cái chết. Sinh, lão, bệnh, tử
là quy luật của đời người Nếu như
người ta vui mừng bao nhiêu khi một
em bé ra đời thì người ta buồn thương
bấy nhiêu trước sự ra đi vĩnh viễn của
người thân. Con người ngày xưa không
lí giải được cái chết. Từ thời nguyên
thuỷ, người ta đã đặt ra biết bao nhiêu
là nghi lễ với người ra đi.
Thông thường, các nghi lễ tiến hành
một đám ma diễn ra theo trình tự sau:
Viết di chúc
Người già trước lúc nhắm mắt xuôi
tay nếu không nhắn nhủ, đặn đò con
cháu đôi lời, không để lại cho con cháu
cái gì thì cảm thấy không an tâm ra đi.
Vì thế có người viết di chúc, có người
dặn đò con cháu đôi lời trước khi chết.
Người ta viết di chúc trong lúc còn
minh mãn, họ sợ lúc sắp chết mới viết
hoặc nói sẽ không bộc lộ hết được tâm
nguyện của mình. Thông thường, người
ta viết di chúc về chính cuộc đời mình,
kể về công lao đức hạnh của mình đối
với ông bà, cha mẹ, con cháu. DI chúc
có thể nói những điều sâu kín nhất mà
khi sống không tiện nói, chẳng hạn như
nói về lỗi lầm của mình, về bí mật của
tổ tiên. Có loại di chúc đặn người sống
phải làm tiếp công việc mà người chết
chưa hoàn thành, về việc chia gia tài
cho con cái hoặc người thân v.v...
Nguyện vọng của người quá cố
Những người chuẩn bị sang thế giới
bên kia đôi khi có những nguyện vọng
bất thường như: Đòi ăn những thứ
bánh trái không có ở trên đời, trái mùa,
khó kiếm... Lại có những cụ theo con
cháu ra sống ở thành phố, thị xã, lúc
sắp chết cũng cứ nằng nặc đòi đưa về
quê cha đất tổ được nằm cạnh mồ mả tổ
tiên.
Cổ hậu sự
Cô hậu sự hay còn gọi là áo quan -
là một hòm dài được đóng bằng gỗ, gồm
sáu tấm và được sơn son thiếp vàng.
Nhà giàu thường sắm quan tài bằng các
loại gỗ tốt, bền đẹp; nhà nghèo sắm
quan tài bằng các loại gỗ vừa nhưng
cũng sơn son thiếp vàng. Tuy nhiên, ở
Yên Phương nhiều nhà có người già
thường đóng quan tài trước, nhưng
quan tài được tháo rời ra và gác lên xà
nhà hoặc đặt ngay trong phòng người
già. Những người không theo tôn giáo
hoặc theo đạo Phật, cỗ quan tài được
làm bình thường và hai đầu có khắc
chữ “Thọ” bằng chữ Hán. Những người
theo đạo Thiên Chúa, trên mặt quan
tài và đầu quan tài có khắc hình cây
thánh giá (một biểu tượng về cái chết
của chúa Kitô). Ngoài cỗ hậu sự ra,
những người theo đạo Thiên Chúa còn
chuẩn bị trước cho cái chết một số thứ
khác: May áo các phép (áo được linh mục
làm phép), dùng để mặc lúc qua đời.
Người theo đạo Phật may áo lục thù (có
nơi gọi là lục xù) có đóng dấu của nhà
Phật, khi qua đởi con cháu mặc cho.
Người già hoặc người bệnh trọng
thường được gia đình tìm mọi cách chạy
chữa. Những trường hợp ốm lâu và
không thể chữa trị được, người theo đạo
Phật mời nhà Sư và các phật tử đến
nhà cầu kinh niệm Phật mong cho
người ốm đón nhận cái chết một cách
thanh thân. Người trong công giáo mời
Linh mục đến làm phép giải tội, phép
26
HOÀNG HỮU BÌNH - NGUYỄN XUÂN NAM
thêm sức, phép mình thánh và dược
cộng đồng giáo dân đến cầu nguyện.
Nội dung lời kinh cầu là sám hối, thú
tội, xin được ơn chết lành. Đối với người
dân bình thường, họ chỉ mời thầy cúng
đến bày hương án, cầu cúng, hương
khói nghi ngút. Theo tâm niệm, sự có
mặt của người thân, của cộng đồng tín
đồ, của các chức sắc tôn giáo bên cạnh
người sắp qua đời chính là nguồn động
viên an ủi để họ có thể vượt qua các nấc
đau khổ cuối cùng về thể xác.
Tắm gội
Khi người già vừa qua đời, gia chủ
thường tiến hành tắm gội, lau mình cho
người quá cố. Người quá cố được tắm
bằng nước ngũ vị hương, khi tắm xong
người ta thường mặc quần áo mới cho
người chết. Những người theo đạo
Thiên Chúa thì được mặc áo các phép.
Áo được làm bằng một mét vải trắng có
cắt cổ tròn để mặc qua đầu. Áo có in
hình thánh giá ở trước ngực và được
Linh mục làm phép thánh ban ơn chết
lành, gìn giữ thể xác chờ ngày phục
sinh. Ở làng Yên Thư còn có tục lúc
tắm cho người chết người ta để sẵn một
con dao nhỏ, một vuông vải (khăn) một
cái lược, một cái thìa... để lau mặt, chùi
chân tay, cắt móng chân, cắt móng tay,
chải đầu. Móng tay, móng chân được
gói lại bằng vải để vào trong quan tài
dưới chân người chết. Còn lược, thìa,
muối đem chôn. Sau đó thi thể người
chết được rước đặt lên giường, ở tư thế
nằm ngửa, ngay ngắn, hai chân chụm
vào nhau, hai tay đặt trước bụng như
đang nằm ngủ. Mặt người chết được
phủ một tờ giấy bản. Nhiều gia đình
theo đạo Phật có tục lệ bỏ gạo và tiền
xu vào miệng để tránh tà ma, ác quỷ
đến cướp đoạt, để vong hồn được siêu
thoát. Người ta cho rằng đó là tiền đi
đò của người chết. Việc đó thường do
tang chủ tiến hành.
Người chết thường được gia đình cắt
cử con cháu thay nhau trông nom suốt
ngày suốt đêm kể cả khi chưa làm lễ
nhập quan. Vì họ sợ chó mèo nhảy qua
xác chết sẽ sinh ra hiện tượng quý
nhập tràng (tức là hiện tượng người
chết ngồi bật dậy rồi lại nằm xuống).
Họp mặt con cháu
Khi người quá cố nhắm mắt, con
cháu trong gia đình đã được tụ họp đông
đủ. Người đi làm xa khi hay tin bố mẹ,
người thân mất phải về chịu tang.
Những công việc chủ yếu khi có tang gia
là họp mặt gia đình, thông báo cho anh
em họ hàng biết để phân công nhau lo
việc tang ma, báo cáo cho chính quyền
địa phương và các tổ chức tôn giáo để
làm các thủ tục cần thiết cho người qua
đời: Bố trí phúng viếng, bố trí người đào
huyệt, chuẩn bị xe tang v.v...
Đối với người theo đạo Phật phải
thông báo cho nhà Phật chuẩn bị tới
làm lễ tụng kinh để người chết sớm
được siêu thoát. Người theo đạo Thiên
Chúa phải thông báo cho Ban hành
giáo để cùng gia đình tiến hành các
nghi thức tôn giáo. Nhà thờ sẽ kéo 9
tiếng chuông chia làm 3 lần để thông
báo chung cho giáo dân biết tỏ lòng
vĩnh biệt, sau đó đi mời cha sứ và giáo
dân đến đọc kinh cầu nguyện.
Sau đó gia đình tang chủ cắt cử
người đi mời phường kèn đến phục vụ,
nhiều gia đình khá giả còn mời cả đoàn
kèn tây về cho không khí thêm trang
nghiêm.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
7
Khâm liệm
Việc nhập quan thường phải căn cứ
vào ngày, giờ, tuổi tác của người chết.
Quan tài được chuẩn bị rất kĩ lưỡng:
Lất lã chuối khá, giấy bản, chẽ bứp:
khăn, áo, chăn ... là những thứ hút ẩm
và ngăn giữ khí hôi hám bốc mùi ra
ngoài. Khi đặt người chết vào quan tài,
theo đạo Thiên Chúa, người ta đặt đầu
theo hướng cây thánh giá khắc ở đầu áo
quan.
Trường hợp người chết bị eo rúm
hoặc bị dị tật không thể đưa vào quan
tài được, theo kinh nghiệm dân gian,
người nhà tiến hành hơ lửa rồi nắn dần
cho thẳng. Trường hợp người chết bị
còng lưng do đị tật từ khi còn trẻ, khi
chết rất khó đưa vào quan tài, do
không nắn được nên buộc phải kê nẹp
để có tư thế nằm ngửa ổn định.
Khi đặt thì hài vào quan tài, người
thân đứng xung quanh khóc lóc thảm
thiết, những người giúp việc lấy vải khô
liệm cho kín người chết, nhà giàu dùng
lụa, nhà nghèo dùng vải thô
thường. Ngày xưa người chết được đặt
gối đầu lên cái bát úp hoặc đoạn chuối
nhỏ, ngày nay họ cho gối đầu lên gối
vải
bông. Song việc khâm niệm, quan tài
được đặt ra chính giữa, hầu hết được
đặt song song với bàn thờ chứ ít nhà
đặt vuông góc với bàn thờ. Trước cỗ hậu
sự một bàn phúng viếng được lập, trên
bàn thờ đặt hương án, ảnh người chết,
hai cây nến hai bên và thánh giá đặt ở
giữa đối với người theo đạo Thiên Chúa,
hai bên của bàn thờ còn có các bức
trướng và vòng hoa. Ở chính giữa bàn
thờ, trên cao có hàng chữ “cầu cho linh
hồn ŒGiu se.V.V..."
Tang phục
Tang phục của người dân địa
phương được quy định tuỳ theo quan hệ
tông tộc đối với người chết. Trong lễ
tang của cha mẹ, con trai và con gái
mặc quần áo số gấu, áo sô, khăn sô,
thắt dây chuối. Làng Lũng Hạ, dân
theo đạo Phật còn giữ tục: Con trai
chống gậy tre đối với cha, gậy vông đối
với mẹ; đầu đội mũ rơm. Cháu đối với
ông bà đội khăn trắng. Chất đội khăn
đỏ, chút, chít đối với cụ, kị đội khăn
vàng.v.v...
Lễ phát tang
Đến giờ phát tang (vào lúc 13-14
giờ chiều, sau hiệu lệnh phát tang 3 hồi
9 tiếng trống, trống lệnh cùng phường
bát âm tấu nhạc thương, tang gia trong
trang phục tang lễ ra tập trung trước
bàn thờ linh cữu để làm lễ phát tang.
Một người có uy tín trong dòng họ, cao
tuổi tiến hành đọc điếu tang. Những
gia đình Công giáo còn phải đọc kinh
sau phút mặc niệm và không có thủ tục
vái lạy như bên Lương. Tuỳ theo điều
kiện mà có những gia đình tổ chức linh
đình, có những gia đình tổ chức rất đơn
giản. Trong lúc phát tang, con cháu có
thể đem tiền đến phường kèn “nhờ
bhóc” cho một vài bài thể hiện tấm lòng
thành kính với người chết. Còn tang
chủ thì đứng cạnh bàn thờ, mỗi khi có
đoàn đến phúng viếng thắp hương thì
lạy tạ tỏ lòng cảm ơn. Lễ viếng thường
diễn ra trong thời gian 9-3 giờ đồng hồ,
các đoàn thể xã hội, tôn giáo, các chị
họ, thân bằng cố hữu đều mang hương
hoa đến phúng viếng và chia buồn với
gia đình. Mỗi đoàn viếng đều có nhạc
bát âm tấu khi bắt đầu và kết thúc.
j8
HOÀNG HỮU BÌNH - NGUYÊN XUÂN NAM
Đêm đến, khi các đoàn phúng viếng
đã về thì các vị trong ban bát cống,
phường kèn tiến hành diễn các tiết mục
như chèo đò tiễn đưa người chết qua
sông sang thế giới bên kia được thuận
lợi Nhiều đám ma có mời các vãi tới
hát chèo đò, đọc kinh niệm Phật cho
linh hồn người chết chóng được siêu
thoát. Trước khi đưa người quá cố đến
nơi an nghỉ cuối cùng, người chấp sự
thường đọc điếu văn ca ngợi công đức
của người đã mất và chia sẻ nỗi đau
buồn với tang chủ.
Nói chung, lễ đưa ma sắp xếp theo
đội hình thứ tự: Cờ tang - Phước, Câu
đối - Vòng hoa - Phường bát âm - Kiệu,
Xe tang - Tang gia - Người đưa tiễn.
Người theo đạo Phật, đâm ma được
sắp xếp như sau: dẫn đầu là hai hàng cờ
phướn, tiếp theo là phước hoặc câu đối,
các vòng hoa. Kế thứ là hai hàng gồm
toàn các bà sãi tay níu vào một dải lụa
dài khoảng 50 - 60m tượng trưng cho
chiếc cầu bắc qua sông tiễn linh hồn
người chết bình an sang cõi Tây Phương
cực lạc. Tiếp theo là các nhà sư, phật tử
vừa đi vừa lần tràng hạt cầu kinh. Sau
các nhà sư là phường kèn vừa đi vừa thổi,
khi xe tang dừng lại họ múa sinh tiền
trên từng đoạn đường. Sau phường kèn là
xe tang, trên xe tang thưởng đặt một
bát cơm quả trứng, đôi đũa, ảnh người
chết do những người giúp việc đẩy đi.
Sau xe tang là gia quyến của người chết
xếp hàng theo thứ tự thân sơ, tang
phục và gia lễ. Họ thường khóc lóc
thảm thiết để tỏ lòng thương tiếc người
chết. Theo tập tục cha đưa, mẹ đón,
người con trai trưởng bao giờ cũng đi
sau quan tài của cha hoặc đi giật lùi
trước quan tài của mẹ. Cuối cùng là
những người thân quen đi đưa tiễn
người chết về nơi an nghỉ cuối cùng.
Đối uới người theo đạo Thiên Chúa:
Đi đầu là hàng thánh giá lên cao gồm
ba người: Một người có tuổi cầm cây
thánh giá và hai đứa trẻ nhỏ cầm hai lá
cờ tang đen đi hai bên. Kế đến là trong
họ giáo, mỗi người tay cầm một cây
thánh giá, mặc áo rước lễ; tiếp đến là cờ
đen, vòng hoa, phường trống trắc của
nghĩa binh (là những đứa trẻ được học
trống trắc theo bài bản). Sau phường
trống trắc là phường dâng hoa (là
những trẻ em gái dâng hoa trong nhà
thờ), đoàn mán côi (gồm các chị em
trung niên mặc áo dài trắng, quần
trắng, tay cầm tràng hạt mân côi),
đoàn Guse (gồm toàn các ông trung
niên đeo băng tang). Các bà dòng Ba đa
mình xếp hàng tiếp sau các đoàn thể
đều có cờ tang ghi hàng chữ: Cầu cho
linh hồn Giuse hoặc Anna... tùy theo
tên thánh của người chết. Tất cả vừa đi
vừa đọc kinh cho tới nghĩa địa. Bên
cạnh còn có phường bát âm, nhà khá
giả còn có đoàn kèn tây, sau đó đến
kiệu quan tài.
Khi đi thường cho chân thi hài đi
trước với ý nghĩa người ra đi vĩnh viễn
không quay trở lại. Trên quan tài còn
có nến thắp sáng ở bốn góc và cây
thánh giá đặt ở trên. Đi đầu kiệu xe
tang là người con trai trưởng, đi sau
kiệu là các con thứ. Họ mặc áo sô có
thắt dây chuối, đầu đội khăn sô nhưng
không chống gậy. Sau cùng là những
người thân trong gia đình, làng xóm xa
gần tới tiễn đưa phúng viếng. Tuy
nhiên, trong nghi lễ đưa tang, người
Công giáo còn tiến hành thánh lễ. Họ
khiêng thi hài người chết vào trong nhà
thở vào lúc chuông nhất (khoảng 4 giờ
sáng) để linh mục làm lễ an táng. Lễ
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
39
được cử hành bằng ca nhập lễ do đoàn
ca xướng gồm nội dung ca tâm niệm, ca
dâng lễ, làm phép mồ, bài ca từ biệt và
đọc kinh cầu. Nói chung là tiến hành
nghi lễ như một thánh lễ bình thường.
Rồi người chết được đưa thẳng từ nhà
thở ra bãi nghĩa địa. Tới nghĩa địa họ
tiến hành cầu nguyện trước khi hạ
huyệt bằng những bài kinh cầu, kinh
vực sâu, kinh ăn năn tội, kinh cầu cho
các linh hồn... mong muốn linh hồn
người quá cố sớm được về với Thiên
Chúa trên thiên đàng.
Hạ huyệt
Khi trong làng có người chết thì
việc đào huyệt do ban hộ táng của làng
làm vào buổi chiều hôm phát tang. Vị
trí đặt huyệt do gia chủ tự chọn. Hướng
huyệt của người theo đạo Thiên Chúa
thường đặt chân hướng về phía thánh
đường, vì họ quan niệm đến ngày phán
xét người chết phục sinh ngồi dậy sẽ
được nhìn thấy thánh đường, thấy
Chúa đầu tiên. Huyệt được đào thành
hai hoặc ba cấp; mỗi cấp sâu 30cm, cấp
dưới cùng sâu 1,2m đến 1,4m, nghĩa là
huyệt sâu cả thảy từ 1,8m đến 2m.
Người theo đạo Phật thường đào nông
hơn khoảng 1,5m để còn cải táng, đầu
đặt hướng Tây với quan niệm vong hồn
trở về Tây Trúc. Công cụ đào huyệt gồm
cuốc, xẻng, mai, thuống... Khi hạ huyệt
người ta dùng hai đòn tre chắc khoẻ
ngáng ngang qua huyệt và hai dây vải
trắng lớn xe lại đặt song song với hai
đòn tre rồi rời quan tài khỏi xe tang
đưa lên đó. Và khi đọc điếu văn xong
thì người ta từ từ rút hai đòn tre khỏi
quan tài và cầm hai dây thả quan tài
xuống huyệt. Con cháu đứng xung
quanh khóc lóc thương tiếc. Hạ huyệt
xong, người thân và người đưa tiễn đi
xung quanh mộ, mỗi người ném một
hòn đất xuống để giã từ người quá cố,
mong người quá cố được an nghỉ bình
yên. Đắp mộ xong người ta xác định
hướng đầu người chết đặt bát hương ở
hai phần ba phía trên mộ rồi con cháu
bắt đầu cắm hương và đặt vòng hoa lên
mộ. Những người dự buổi đưa tiễn ra về
còn người thân nán lại một lát rồi cũng
ra về. Nhiều nơi, sau khi đưa đám về,
người ta thường tổ chức ăn uống linh
đình nhưng có gia đình chỉ uống nước,
ăn trầu, hút thuốc rồi sau đó ai về nhà
đấy, chỉ có ít người thân trong gia đình
ở lại ăn cơm chia buồn với gia chủ.
Sau khi chôn cất, ở đạo Phật, người
ta tụng kinh gõ mõ hoặc cúng bái trong
ba ngày trước bàn thờ của người chết
(gọi là lễ tam ngu). Sau đó, họ làm lễ
tốt khốc (lễ cúng cơm 100 ngày) nhưng
hiện nay họ chỉ tiến hành trong 49
ngày. Sau 49 ngày, họ mời anh em họ
hàng thân thuộc đến dự bữa cơm thân
mật. Người theo nghi lễ 49 ngày giải
thích rằng theo thuyết nhà Phật: vong
hồn phải qua bảy lần phán xét, mỗi lần
bảy ngày sau đó mới được siêu thoát.
Trong thời gian 49 ngày, hằng ngày
đến bữa cơm tang chủ phải dâng lên
bàn thờ một bát cơm úp, một ít thức ăn,
có thể thêm một chén rượu (nếu người
chết là đàn ông) thắp hương, dựng đôi
đũa vào giữa bát cơm để cúng. Đối với
người theo đạo Thiên Chúa sau lễ mai
táng trong ba ngày họ tổ chức cầu
nguyện vào buổi tối với những nghỉ
thức như thắp hương, chuẩn bị hai lọ
hoa, một đĩa hoa quả, đặt lên bàn thờ
ảnh người chết, đốt nến và mời mọi
người tới cầu nguyện. Trong các buổi
cầu nguyện này có chủ tế đọc các đoạn
40
HOÀNG HỮU BÌNH - NGUYÊN XUÂN NAM
kinh thánh và có cả đoàn hát xướng ở
cuối buổi cầu nguyện tối thứ ba, gia chủ
tỏ lời cảm ơn ban thành giáo các hội
đoàn và giáo dân đã nhiệt tâm giúp đỡ
cầu nguyện tiễn đưa linh hồn người quá
cố về với Thiên Chúa. Sau ba ngày đó
gia đình tự cầu nguyện vào các buổi tối
cho linh hồn người chết sớm được lên
thiên đàng.
Người theo đạo Phật sau lễ đại
trường 3 tháng là lễ từ bỏ tang phục.
Người ta chọn ngày tốt để tiến hành cất
khăn tang, hương đót, các thứ thuộc
phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ
chính, bỏ bàn thờ tang, thu cất các bức
trướng, câu đối, linh vị phải được phủ
bằng vải đó, băng đen phủ khung ảnh
và văn tế.. Nhiều gia đình còn tiến
hành đốt vàng mã.
Việc cải táng
Bên lương, người ta tiến hành cải
táng do quan niệm mồ mà có liên quan
đến sức khoẻ, hạnh phúc, làm ăn của
con cháu. Trước hết phải chọn ngày, giờ
tốt. Trước hôm cải táng, người ta thịt
gà, thổi xôi, thắp hương cáo yết tổ tiên.
Đêm hôm cải táng, người ta làm lễ
khấn thổ công ở mả mới táng. Thông
thường thời gian cải táng là sau ba
năm. Việc cải táng tiến hành trước lúc
mặt trời mọc, xương cốt được nhặt lên
xếp vào tiểu sành đậy kín không cho
ánh sáng mặt trời lọt vào.
Khi cải táng nếu có những biểu
hiện như: thấy có con rắn sống trong
mả hay khí vật gì, thấy tơ hồng quấn
quýt ở áo quan, thấy nước trong quan
tài như hơi ấm, hoặc có khí như sương
mù, hoặc trong mã khô ráo không có
nước thì không nên cải táng vì đó là
điểm lành má phát tốt.
Ở bên Giáo người ta không tiến hành
cải táng mà chôn cất sau một năm là tiến
hành xây mộ gạch vì người ta quan niệm
rằng: “xác là cát bụi nó sẽ trở về với cát
bụi, chỉ có linh hồn là tồn tại vĩnh viễn
trên thiên đàng”.
Những ngày giô
Người theo đạo Thiên Chúa, ngày
giỗ đầu sau một năm và giỗ hết sau ba
năm được tổ chức như sau: người con
trưởng họp mặt các em trước ngày giỗ
một ngày để bàn việc làm giỗ; về nghỉ
thức tôn giáo xin cha sứ làm lễ tại nhà
thờ. Buổi tối mời ban hành giáo và giáo
dân đến cầu nguyện. Bàn thờ được
trang trí hương hoa, nến trịnh trọng,
trong khi cầu nguyện có đọc thánh thư
và hát thánh ca cầu xin Thiên Chúa
cho linh hồn người quá cố được hưởng
phúc thiên đàng. Để họp mặt gia đình
người con trai trưởng cho mời ông, bà,
chú, bác và những người thân tình đến
dùng bữa cơm thân mật, cùng nhau ôn
lại những kỉ niệm về người đã khuất.
Các ngày giỗ khác thì cầu nguyện ở nhà
thờ. Hằng năm vào ngày mồng 3 tháng
11 thường có lễ viếng mộ, những người
công giáo tới nghĩa địa dọn dẹp mộ
người thân và thắp hương, đọc kinh.
Người bên lương tổ chức lễ cúng giỗ
đúng vào ngày mất.
Trên đây là một số nét đặc trưng cơ
bản của tập tục ma chay ở xã Yên
Phương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc. Trong lễ tang, mỗi tôn giáo đều
có nghi lễ tiễn đưa khác nhau song đều
có chung một mong muốn là linh hồn
người chết sớm được siêu thoát. Theo
chúng tôi, đây là nét văn hoá tỉnh thần
cần gìn giữ.
H.H.B-N.X.N