
1449
PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC STEINER VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG
TẠI CÁC TRƯỜNG MẦM NON TỈNH NAM ĐỊNH
Bùi Thị Thanh Thủy, Phạm Thanh Thủy
Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định
TÓM TẮT
Phương pháp giáo dục Steiner là một phương pháp giáo dục tiên tiến với
mục tiêu phát triển con người khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, tự do trong
suy nghĩ, có khả năng tự quyết định và làm chủ cuộc đời mình trong một tinh
thần trách nhiệm cao với xã hội. Bằng phương pháp nghiên cứu lý luận, tìm hiểu
thực tiễn vận dụng tại Việt Nam, bài viết phân tích các giá trị của phương pháp
giáo dục Steiner trong lĩnh vực giáo dục mầm non, chỉ ra những lợi ích của
phương pháp này đối với sự phát triển của trẻ em, từ đó đề xuất định hướng vận
dụng phù hợp với bối cảnh địa phương. Với tinh thần khẳng định mạnh mẽ hơn
quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm của Chương trình Giáo dục mầm
non Việt Nam, Steiner là một trong những phương pháp giáo dục tiên tiến rất
đáng được quan tâm nhằm mang lại những môi trường giáo dục mầm non thực
sự hạnh phúc - như con đường mà giáo dục Việt Nam đang hướng tới.
Từ khóa: Phương pháp giáo dục Steiner; giáo dục mầm non; khả năng
vận dụng
1. Mở đầu
Phương pháp giáo dục Steiner được ra đời từ những năm đầu thế kỉ XX.
Với hơn 100 năm xây dựng và phát triển, phương pháp giáo dục Steiner đã khẳng
định được chỗ đứng trên toàn thế giới. Trong khoảng một thập kỷ gần đây,
phương pháp giáo dục Steiner đã đến với Việt Nam, chủ yếu dành cho trẻ mầm
non và đang có những bước đầu cho trẻ tiểu học ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội và Đà Nẵng. Bài viết này giới thiệu về phương pháp giáo dục Steiner, phân
tích những nét đặc trưng cơ bản, từ đó mong muốn giúp người đọc nhận thấy
những ưu thế vượt trội của phương pháp giáo dục Steiner cho trẻ mầm non và
những lợi ích đối với giáo viên mầm non khi vận dụng phương pháp này. Trên
cơ sở đó, nhóm tác giả trình bày những nghiên cứu ban đầu về khả năng vận
dụng tại các trường mầm non trên địa bàn của tỉnh Nam Định.

1450
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Vài nét giới thiệu về Rudolf Steiner, Anthroposophy và phương pháp giáo
dục Steiner
Ở hai thập niên cuối thế kỉ XIX, Rudolf Steiner là học giả nổi tiếng với
nhiều công trình nổi tiếng về khoa học, văn học và triết học. Bước sang thế kỉ
XX, ông bắt đầu phát triển các nguyên tắc triết học trước đây của mình thành
một phương pháp tiếp cận để nghiên cứu các hiện tượng tâm lý và tâm linh. Tài
năng của ông đã dẫn đến các phương pháp tiếp cận sáng tạo và toàn diện trong y
học, khoa học, giáo dục, triết học, tôn giáo, nông nghiệp theo phương pháp bio-
dynamic (ông được coi là người đặt nền móng cho nền nông nghiệp hữu cơ hiện
đại), kiến trúc, kịch, eurythmy (nghệ thuật chuyển động), ngôn ngữ và các lĩnh
vực khác. Năm 1924, ông thành lập Tổng Hiệp hội Nhân linh học
(Anthroposophy), có chi nhánh trên toàn thế giới.
Anthroposophy là một triết lý tâm linh được phát triển bởi Rudolf Steiner
(Anthroposophy được dịch giả Lê Thanh Cherry dịch là: Kiến thức về bản chất
thực sự của con người). Đó là triết lý tâm linh hướng về con người và vũ trụ
(nhấn mạnh về phần kiến thức chứ không phải về lòng tin), phản ánh và giải
quyết những vấn đề liên quan đến đời sống tâm linh cơ bản, những nhu cầu nghệ
thuật thiết yếu của con người, nhu cầu kết nối với thế giới bên ngoài bằng thái
độ có tính khoa học và nhu cầu phát triển một mối quan hệ hoàn toàn tự do với
thế giới, dựa trên những phán đoán và quyết định hoàn toàn mang tính cá nhân.
Anthroposophy nỗ lực kết nối 3 lĩnh vực thiết yếu của nhân loại, bao gồm các
môn khoa học, các loại hình nghệ thuật và những tôn giáo của con người.
Anthroposophy là một động lực để nuôi dưỡng đời sống tâm hồn của mỗi cá
nhân và trong toàn xã hội loài người. Đây là một con đường đòi hỏi sự liên hệ
mật thiết giữa trái tim, bàn tay, và nhất là khả năng suy nghĩ của con người. Nó
dẫn chúng ta đi, như lời Steiner nói, “từ tâm linh con người tới tâm linh vũ trụ”
và nhân loại mang trong mình một sự thông thái bẩm sinh để có thể tự chuyển
hoá con người mình và thay đổi thế giới. (Patterson & Bradley, 2021; Lê Thanh
Cherry, 2022).
Không những là một triết lý, Anthroposophy còn được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực của đời sống thực tế như giáo dục, y tế, nông nghiệp…
Trong giáo dục, việc giáo dục con người dưới ánh sáng của Anthroposophy,
người ta gọi là giáo dục Steiner, còn được gọi là giáo dục Waldorf hay giáo dục
Steiner - Waldorf. Vào đầu thập niên 1900, Steiner mong muốn tạo nên một hình
thức giáo dục mới giúp học sinh đạt được tư duy rõ ràng, cảm xúc tinh tế và ý

1451
chí mạnh mẽ. Sau buổi diễn thuyết của ông, thính giả đã thỉnh cầu ông mở trường
học cho con họ, và vào năm 1919, trường học Waldorf đầu tiên được thành lập
cho con em những người công nhân làm việc trong nhà máy thuốc lá Waldorf -
Astoria ở Stuttgart (Đức). Trường này sau đó trở thành hình mẫu cho phong trào
Waldorf, dẫn đến việc xây dựng và phát triển của khoảng hơn 3000 trường mầm
non trường phổ thông trên toàn thế giới và có cả những chương trình dành cho
người lớn.
2.2. Phương pháp giáo dục Steiner dành cho trẻ mầm non
2.2.1. Khái quát chung về phương pháp
Theo Steiner, nền tảng đúng đắn của giáo dục và giảng dạy chính là nằm
ở kiến thức về những quy luật phát triển của bản chất con người. Như vậy, tất cả
những giáo viên thực hành phương pháp giáo dục Steiner đều cần thấu hiểu về
bản chất con người nói chung và những giai đoạn phát triển của đối tượng mà
mình giáo dục. Theo Steiner, bản chất con người gồm 3 phần chính: cơ thể vật
chất, phần tâm hồn và phần tâm linh hay “cái tôi”. Cơ thể vật chất là phần con
người mà mà ta có thể quan sát qua 5 giác quan thông thường: thị giác, thính
giác, khứu giác, xúc giác, vị giác. Tuy nhiên, khi nói đến cơ thể vật chất ta còn
đề cập đến một khía cạnh vô hình khác. Đó là cơ thể sức sống của con người. Cơ
thể sức sống gồm những sinh lực tiềm tàng lan toả trong khắp cơ thể. Cơ thể vật
chất sẽ trở thành một xác chết khi cơ thể sức sống không còn hoạt động trong nó
nữa. Sức sống này là một bản thể tâm linh vô hình, tuy nhiên ta có thể quan sát
thấy những phát hiện của sức sống qua những hiện tượng vật chất. Ví dụ, một
đứa trẻ khoẻ mạnh đầy sức sống sẽ có da mặt hồng hào tươi tỉnh thay vì một làn
da nhợt nhạt khi đau ốm. Phần thứ hai của bản chất con người là phần tâm hồn.
Phần tâm hồn bao gồm ba khả năng chủ yếu: khả năng tư duy, khả năng tình
cảm/cảm xúc và tình cảm xã hội và ý chí. Khả năng tư duy thuộc về hệ thần kinh
và não bộ; khả năng tình cảm/cảm xúc thuộc về lĩnh vực của tim, phổi với hệ
thống hô hấp và lưu thông máu và với cơ quan nhịp điệu. Còn tứ chi thì liên quan
mật thiết tới những hoạt động ý chí của con người, những cử động của cơ thể và
hoạt động bên ngoài. Phần thứ ba là “cái tôi”, gọi nôm na là cá tính, bản ngã hay
“phần tâm linh cá nhân”, là yếu tố phát triển cao nhất ở con người. Cái tôi điều
khiển và tổ chức các bộ phận cũng như chức năng của từng phần. “Cái tôi” là
năng lực quyết định mọi chuyện: “tôi” đứng; “tôi” đi; “tôi” muốn; “tôi”
thích/không thích người này; “tôi” suy nghĩ; … “Cái tôi” không những điều
khiển và tham gia vào mọi khía cạnh đời sống mà còn phát hiện cá tính độc đáo
của cá nhân đó trong từng hoạt động: “tôi” đứng thẳng; “tôi” đi nhanh; “tôi”

1452
muốn khám phá thiên nhiên; “tôi” suy nghĩ kỹ càng; … Cuối cùng, “cái tôi” làm
chủ cho đời sống đạo đức của mỗi người: Bạn có phải là một người tốt không?
Bạn có thành thực không? …
Với sự hiểu biết bản chất thật sự con người gồm ba phần như vậy, phương
pháp giáo dục Steiner hướng tới phát triển mười hai giác quan con người. Tại
thời điểm mà Steiner đang quan sát về giác quan và đang tìm cách phân loại các
khả năng giác quan của con người, chưa có ai tự hỏi tại sao chỉ có năm giác quan
mà thôi. Ở thời đại đó, số lượng giác quan của con người thường được phân loại
khác nhau tuỳ thuộc người đưa ra vấn đề thảo luận, và những con số phổ biến
nhất là năm, sáu, bảy, mười và mười một. Steiner bắt đầu chương trình nghiên
cứu của ông bằng cách phân loại mười giác quan vật lý và ba giác quan siêu cảm.
Sau đó ông xác định là, xem con người như có mười hai giác quan tích hợp tất
cả các khả năng cơ thể, tâm hồn và tinh thần, sẽ cho ta một phương pháp giáo
dục chính xác, hiệu quả và hữu ích hơn. Steiner chia mười hai giác quan thành
ba nhóm: Giác quan ý chí, giác quan cảm xúc và giác quan nhận thức. Các giác
quan ý chí hay giác quan vật lý, phát hiện chủ yếu trên cơ thể con người, là xúc
giác, giác quan đời sống, giác quan vận động và cân bằng. Các giác quan cảm
xúc, chủ yếu dùng đề thiết lập mối quan hệ con người với thế giới bên ngoài, bao
gồm khứu giác, vị giác, thị giác và giác quan hơi ấm (đồng thời là giác quan về
sự ấm áp tinh thần). Các giác quan nhận thức hướng con người đến trải nghiệm
bên trong chính bản thân mình cũng như bản thân người khác, đó chính là thính
giác, giác quan ngôn ngữ, giác quan nhận thức ý nghĩ của người khác và giác
quan nhận thức cái “tôi” của người khác. Một khi đã thấu hiểu được mười hai
giác quan này, ta sẽ hiểu được tầm quan trọng của việc bảo vệ và nuôi dưỡng
giác quan, nhất là trong những năm đầu đời của trẻ (Steiner, 2021).
Từ định hướng chung nói trên, triết lý của phương pháp giáo dục Steiner
được cụ thể như sau:
- Đánh giá học sinh không nhìn vào thành tích: Mục tiêu của phương pháp
này là tạo nên những công dân tự do, không sợ hãi và luôn sống vui vẻ, hòa đồng.
Trong môi trường giáo dục Steiner, thầy cô tuyệt đối không được quyền áp đặt
lên học sinh. Giáo viên sẽ đóng vai trò là người dẫn đường cho các em học tập
bằng sự yêu mến và bao dung.
- Không áp đặt uy quyền, không thưởng hay phạt: Các trường học áp dụng
phương pháp Steiner sẽ không có cạnh tranh, thi đua và không thưởng, không
phạt. Học sinh đến trường sẽ cảm nhận tình yêu thương, tấm lòng ấm áp từ thầy
cô, lớp học.

1453
- Không phán xét và được nuôi nấng trí tưởng tượng: Với phương pháp
học tập thông qua tự nhiên, học sinh sẽ được tiếp thu kiến thức, trải nghiệm thực
tế và vun đắp tình yêu thiên nhiên qua các trò chơi. Từ đó, học sinh sẽ được nuôi
dưỡng ý chí, năng lực và ước muốn về tương lai qua từng giai đoạn phát triển.
2.2.2. Đặc trưng của phương pháp giáo dục Steiner cho trẻ mầm non
Phương pháp giáo dục Steiner chú trọng vào toàn bộ đứa trẻ, cân bằng
mọi sự phát triển trong con người chứ không chỉ riêng phần trí não với mục tiêu
tạo ra một người trưởng thành có đầy đủ những kỹ năng, kiến thức, và giá trị nội
tâm mạnh mẽ, một con người hài hòa và cân bằng trong cảm xúc để được tự do
lựa chọn tương lai, tự tin và bền bỉ theo đuổi đến cùng những gì đã lựa chọn. Sự
kết hợp “vừa học - vừa chơi” trong giáo dục bằng phương pháp Steiner sẽ giúp
trẻ tiếp thu kiến thức nhanh hơn, thỏa mãn đam mê sáng tạo và làm tăng trí tưởng
tượng cho trẻ. Dưới đây là một số đặc điểm đặc trưng của phương pháp này trong
giáo dục trẻ mầm non.
a. Giáo viên là người hướng dẫn cho trẻ
Trong quá trình học tập, trẻ sẽ được làm quen và học hỏi thông qua quan
sát hành động mẫu của giáo viên. Từ đây, trẻ sẽ học được cách làm và tự thực
hiện tương tự theo những hoạt động đó. Trong phương pháp giáo dục Steiner,
giáo viên sẽ là tấm gương cho trẻ noi theo. Vì vậy, giáo viên phải luôn giữ bình
tĩnh để giải quyết vấn đề một cách thấu đáo và tinh tế. Hay nói một cách đơn
giản, giáo viên phải luôn thể hiện để trở thành “hình mẫu xứng đáng” để trẻ bắt
chước.
b. Trẻ sẽ được vui chơi hoàn toàn
Steiner đã nghiên cứu và thấy rằng, vào những năm đầu phát triển của trẻ,
cha mẹ trẻ nên để các em được vui chơi thay vì phải học tập thường xuyên. Đây
là khoảng thời gian thích hợp cho bé khám phá thế giới và khai phá khả năng
tiềm ẩn của bản thân. Trong khi chơi, trẻ học được vô số thứ, từ khả năng ngôn
ngữ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết tình huống đến sự cảm thông, nhường
nhịn, lắng nghe, kỹ năng hành xử, khả năng kiểm soát bản thân và hợp tác với
bạn bè. Bên cạnh đó, trẻ có cơ hội lành mạnh để phát triển sức tưởng tượng, sáng
tạo và rèn luyện ý chí của mình. Quan trọng hơn là những điều này thấm vào cả
con người trẻ một cách tự nhiên, trong thế giới riêng của trẻ, và trẻ thực sự thỏa
mãn.
c. Các hoạt động lặp lại nhiều lần
Các chương trình hoạt động của giáo dục mầm non theo phương pháp
Steiner như: các trò chơi ngoài trời, vẽ tranh, làm đồ chơi, múa hát, tưới cây, làm

