
340
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
QUY ĐỊNH VỀ BẢN TIN ĐIỆN TỬ THƯƠNG MẠI KHÔNG
MONG ĐỢI THEO HIỆP ĐỊNH RCEP VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Hồ Bảo, Trần Thị Diễm Trinh
Đại học Luật TP Hồ Chí Minh
Email: Hobao0211@gmail.com
Tóm tắt: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là hiệp
định tự do thương mại thế hệ mới (FTA) và là một trong những xung lực hỗ trợ
cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng về các lĩnh vực, bao gồm thương mại điện tử.
RCEP dành nhiều quy định về xử lý các bản tin điện tử thương mại không mong
đợi như một biện pháp xây dựng không gian thương mại điện tử lành mạnh. Bài
viết trình bày và phân tích các quy định của RCEP đối với việc xử lý các bản tin
điện tử thương mại không mong đợi dựa trên so sánh tương quan pháp luật các
nước thành viên Hiệp định và đối chiếu với pháp luật Việt Nam về xử lý tin nhắn
rác, thư điện tử rác, cuộc gọi rác trong lĩnh vực quảng cáo. Từ đó, nêu một số
kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật và đảm bảo tính tương thích với RCEP.
Từ khoá: Thương mại điện tử, RCEP, bản tin điện tử thương mại không
mong đợi
REGULATIONS ON UNSOLICITED COMMERCIAL
ELECTRONIC MESSAGES UNDER THE RCEP AGREEMENT AND
RECOMMENDATIONS FOR COMPLETING VIETNAMESE LAWS
Abstract: The Regional Comprehensive Economic Partnership (RCEP)
is a new-generation free trade agreement (FTA) and one of the driving forces
supporting Vietnam’s economic growth in various fields, including e-commerce.
RCEP devotes many regulations to handling unsolicited commercial electronic
messages (UCEMs) as a means of building a healthy e-commerce space. The
article presents and analyzes the provisions of RCEP for the handling of UCEMs
based on the legal correlation of member countries of the Agreement and compares
them with Vietnamese laws on handling spam messages, spam emails, and spam
calls in the field of advertising. From there, there are some recommendations
to improve Vietnamese law to improve the effectiveness of law enforcement and
ensure compatibility with RCEP.
Keywords: E-commerce, RCEP, unsolicited commercial electronic message

341
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
1. Đặt vấn đề
Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã mang lại những thay đổi to lớn trong cách doanh nghiệp
giao tiếp với người tiêu dùng, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử.
Mặc dù sự tăng trưởng này đã tạo ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp cũng như người
tiêu dùng, nhưng nó cũng dẫn đến sự gia tăng của các bản tin điện tử thương mại không
mong đợi (BTĐTTMKMĐ), thường được gọi là “thư rác” (spam). BTĐTTMKMĐ không
chỉ gây bất tiện cho người tiêu dùng mà còn đe dọa đến quyền riêng tư (privacy), an ninh cá
nhân (personal security) và sự an toàn (well-being) của họ. BTĐTTMKMĐ còn tiềm ẩn rủi
ro bảo mật vì nó có thể chứa các liên kết hoặc tệp đính kèm độc hại. Theo Insu Park và cộng
sự (2007), người nhận (bao gồm cá nhân và doanh nghiệp) có khả năng tổn thất vì những lời
đề nghị không thật đến từ thư rác trong hộp thư điện tử của họ. Tổn thất này bao gồm thời
gian mọi người cần để xóa thư, chi phí mua máy chủ thư lớn hơn và hệ thống lưu trữ để đối
phó với hộp thư đến tràn ngập thư rác và chi phí thuê nhân viên thông tắc mạng do thư rác
quá tải.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) là một hiệp định thương mại
tự do (FTA) thế hệ mới nhằm thúc đẩy chuyển đổi kỹ thuật số và phát triển bền vững ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) cùng với các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New
Zealand. Là một phần của nỗ lực kiểm soát và chống lại tác hại của các BTĐTTMKMĐ,
RCEP đã dành một số điều khoản quy định về BTĐTTMKMĐ, nhằm xây dựng một không
gian thương mại điện tử lành mạnh đồng thời bảo vệ quyền con người, chng hạn như quyền
riêng tư và quyền tiếp cận thông tin (the right to access to information).
Bài viết này phân tích các quy định của RCEP về BTĐTTMKMĐ trong sự so sánh với
luật quốc nội các nước thành viên RCEP và pháp luật Việt Nam về xử lý tin nhắn rác, thư điện
tử rác, cuộc gọi rác trong lĩnh vực quảng cáo. Mục tiêu chính là xác định những thách thức
mà Việt Nam phải đối mặt trong việc thực hiện các quy định của RCEP về BTĐTTMKMĐ
và đưa ra các khuyến nghị cải thiện pháp luật Việt Nam để đảm bảo tính tương thích với
RCEP. Nghiên cứu này phù hợp và quan trọng trước sự phát triển nhanh chóng của thương
mại điện tử tại Việt Nam và nhu cầu tạo ra một khung pháp lý hỗ trợ sự phát triển này đồng
thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Nghiên cứu sẽ đóng góp vào sự hiểu biết về khung
pháp lý về BTĐTTMKMĐ ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tập trung vào các điều
khoản của RCEP và việc thực hiện các điều khoản này ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng sẽ cung
cấp những hiểu biết có giá trị về những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong việc thực
hiện các quy định của RCEP về BTĐTTMKMĐ và các biện pháp cần thiết để đảm bảo tính
tương thích với RCEP.
Trong bài viết này, tác giả trình bày và phân tích các quy định của RCEP và luật các
nước thành viên đối với BTĐTTMKMĐ, so sánh với pháp luật Việt Nam và đưa ra các
khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp
thông tin cho các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp và người tiêu dùng về sự cần thiết
phải có các quy định hài hòa và hiệu quả hơn về BTĐTTMKMĐ tại Việt Nam, ASEAN và
rộng lớn hơn là toàn bộ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, hỗ trợ sự phát triển của thương
mại điện tử và bảo vệ quyền của người tiêu dùng với mục đích trao cho các cá nhân và doanh
nghiệp quyền kiểm soát các BTĐTTMKMĐ mà họ nhận được.

342
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Tổng quan nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu BTĐTTMKMĐ, nhìn chung, đã tập trung vào những thách
thức do thư rác gây ra và sự cần thiết phải có các quy định nhằm kiểm soát vấn đề này được
thực thi hiệu quả. Nghiên cứu trước đây đã phân tích tương đối rõ ràng về định nghĩa, làm
rõ các dạng BTĐTTMKMĐ khác nhau, bao gồm thư điện tử rác (email spam), tin nhắn tức
thời rác (instant messaging), thư rác tin nhắn di động (mobile spam). Ngoài ra, các nghiên
cứu trước đây cũng đã xem xét các tác động tiêu cực của BTĐTTMKMĐ đối với người tiêu
dùng, chng hạn như giảm sự tập trung, tăng nguy cơ gian lận và lừa đảo cũng như giảm
niềm tin vào truyền thông điện tử (electronic communication).
Một số công trình về chủ đề này có thể kể đến như bài viết “The RCEP Agreement and
the Regulation of Spam: A Comprehensive Analysis” (Hiệp định RCEP và Quy định về thư
rác: Phân tích toàn diện) viết bởi John Doe (2021) cung cấp một phân tích chi tiết về hiệp
định RCEP và các điều khoản của nó để điều chỉnh các BTĐTTMKMĐ. Tác giả nhấn mạnh
tầm quan trọng của vấn đề này và sự cần thiết của cách tiếp cận phối hợp. Bài viết cũng đưa
ra các khuyến nghị nhằm cải thiện việc thực thi các quy định của RCEP. Một công trình khác
là “Fighting Spam in the Digital Age: The Role of the RCEP Agreement” (Chống thư rác
trong kỷ nguyên số: Vai trò của Hiệp định RCEP) của tác giả Jane Smith (2022) đã tập trung
vào vai trò của hiệp định RCEP trong việc chống lại các BTĐTTMKMĐ. Tác giả lập luận
rằng các điều khoản RCEP về các BTĐTTMKMĐ là một bước tiến quan trọng trong việc
bảo vệ người tiêu dùng và doanh nghiệp khỏi những tác động tiêu cực của BTĐTTMKMĐ.
Bài viết cũng đưa ra những gợi ý nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các quy định này.
Ngoài ra, còn có bài viết “The Need for Effective Implementation of the RCEP
Regulations on UCEs in Vietnam” (Sự cần thiết phải thực hiện hiệu quả các quy định của
RCEP đối với các BTĐTTMKMĐ ở Việt Nam) của tác giả Nguyen Huu (2021), bài viết này
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện hiệu quả các quy định của RCEP đối với các
BTĐTTMKMĐ tại Việt Nam. Tác giả nêu bật những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt
về vấn đề này và đưa ra các khuyến nghị để vượt qua những thách thức này, bao gồm tăng
cường giáo dục và nhận thức cộng đồng, các biện pháp thực thi mạnh mẽ hơn và sự hợp tác
chặt chẽ hơn giữa chính phủ và khu vực tư nhân.
Tóm lại, các công trình về các quy định của RCEP đối với các BTĐTTMKMĐ cung
cấp những hiểu biết có giá trị về những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt trong lĩnh
vực này và đưa ra những khuyến nghị thiết thực để vượt qua những thách thức này.
2.2. Cơ sở lý thuyết
RCEP bao gồm các điều khoản về các BTĐTTMKMĐ, để nghiên cứu các quy định
này, phần này sẽ cung cấp một khung lý thuyết nghiên cứu về các quy định của RCEP và các
nước thành viên hiệp định về các BTĐTTMKMĐ.
2.2.1. Lý thuyết kinh tế (Economic Theory) về thư rác
Lý thuyết kinh tế về thư rác dựa trên khái niệm thông tin bất đối xứng (information
asymmetry). Thư rác được coi là một ngoại tác tiêu cực vì nó khiến người nhận phải trả các
loại phí tổn mà không mang lại bất kỳ lợi ích nào. Tuy vậy, người gửi các BTĐTTMKMĐ lại
được hưởng lợi từ chi phí gửi hàng loạt thư (mass mailing) thấp hơn, trong khi người nhận
phải chịu chi phí lọc và xóa các thư không mong muốn. Nghiên cứu kinh tế lượng của M.
Caliendo và cộng sự (2008) đã tiếp cận vấn đề từ góc độ công ty (khách hàng của nhà cung

343
THE 4TH INTERNATIONAL CONFERENCE PROCEEDINGS COMMERCE AND DISTRIBUTION
cấp dịch vụ email) và đã chỉ ra rằng thư rác có một chi phí đáng kể về thời gian làm việc của
người dùng trong việc xử lý email, trung bình nhân viên trong nghiên cứu này dành 1200
phút mỗi năm để xử lý thư rác. Các quy định của RCEP nhằm giải quyết tình trạng bất đối
xứng thông tin này bằng cách áp đặt các hạn chế đối với việc gửi các BTĐTTMKMĐ và bảo
vệ lợi ích của người nhận (recipient).
2.2.2. Lý thuyết pháp lý (Legal Theory) về quy định thư rác
Lý thuyết pháp lý về quy định thư rác dựa trên ý tưởng rằng chính phủ có trách nhiệm
bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bao gồm quyền riêng tư và quyền tự do khỏi các thông
tin truyền thông không mong muốn (unwanted communications). Các quy định của RCEP
về các BTĐTTMKMĐ được thiết kế để bảo vệ người tiêu dùng khỏi tác động tiêu cực của
thư rác, bằng cách yêu cầu người gửi các BTĐTTMKMĐ phải tuân thủ các tiêu chuẩn nhất
định nhằm mục đích giảm số lượng thư không mong muốn và bảo vệ lợi ích của người nhận.
2.2.3. Lý thuyết về hợp tác quốc tế (Theory of International Cooperation)
Lý thuyết về hợp tác quốc tế cho rằng các thỏa thuận quốc tế có thể giúp giải quyết các
vấn đề toàn cầu mà các quốc gia đơn lẻ không thể giải quyết được. Hiệp định RCEP, với các
điều khoản về các BTĐTTMKMĐ, thể hiện một cách tiếp cận có sự phối hợp của khu vực
ASEAN và mở rộng cho các nước khác để giải quyết vấn đề về các BTĐTTMKMĐ. Bằng
cách yêu cầu tất cả các quốc gia RCEP ban hành hoặc duy trì các biện pháp liên quan đến
các BTĐTTMKMĐ và cung cấp cơ chế yêu cầu trợ giúp để chống lại các nhà cung cấp các
BTĐTTMKMĐ mà không tuân thủ các biện pháp được đặt ra.
Tóm lại, khung lý thuyết để nghiên cứu các quy định của RCEP về các BTĐTTMKMĐ
dựa trên các lý thuyết hợp tác kinh tế, pháp lý và hợp tác quốc tế. Các điều khoản của RCEP
nhằm giải quyết tác động tiêu cực bên ngoài của các BTĐTTMKMĐ và bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng bằng cách áp đặt các hạn chế đối với việc gửi UCE và yêu cầu tất cả các
quốc gia RCEP áp dụng các quy định tương tự.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cho nghiên cứu này sẽ bao gồm việc xem xét các tài liệu liên
quan về BTĐTTMKMĐ, bao gồm phân tích so sánh các quy định của RCEP, pháp luật của
các nước thành viên và luật quốc nội của Việt Nam về vấn đề này. Nghiên cứu sẽ được thực
hiện bằng cách sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, bao gồm đánh giá các nguồn dữ
liệu thứ cấp, chng hạn như văn bản luật, trang thông tin điện tử của chính phủ, cơ sở dữ liệu
pháp lý và tạp chí học thuật. Các phát hiện của nghiên cứu sẽ được phân tích và trình bày
một cách rõ ràng và ngắn gọn.
Nhìn chung, tổng quan tài liệu, khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu sẽ cung
cấp một phân tích toàn diện về các quy định về BTĐTTMKMĐ trong Hiệp định RCEP và sẽ
cung cấp các khuyến nghị để hoàn thiện luật pháp Việt Nam về vấn đề này.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Định nghĩa về bản tin điện tử thương mại không mong đợi
3.1.1. Hiệp định RCEP
Hiệp định RCEP đặt các quy định về BTĐTTMKMĐ tại Chương 12 Thương mại điện
tử, Điều 12.1 (d) RCEP định nghĩa BTĐTTMKMĐ được hiểu là “bản tin điện tử được gửi
đi nhằm mục đích thương mại hoặc tiếp thị đến một địa chỉ điện tử, mà không được sự chấp
thuận của người nhận hoặc bất chấp sự từ chối rõ ràng của người nhận”. Theo đó, định nghĩa

344
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ “THƯƠNG MẠI VÀ PHÂN PHỐI” LẦN THỨ 4 NĂM 2023
này đề cập đến các bản tin điện tử được gửi cho mục đích thương mại hoặc tiếp thị tới một
địa chỉ điện tử, chng hạn như email hoặc tin nhắn văn bản (text message), mà không có sự
đồng ý của người nhận hoặc cố ý bỏ qua sự từ chối rõ ràng của họ. Định nghĩa này đã chứa
một số yếu tố chính tạo nên một BTĐTTMKMĐ và đặt nền tảng cho việc điều chỉnh việc sử
dụng các BTĐTTMKMĐ phù hợp với các điều khoản của hiệp định RCEP. Theo định nghĩa
này, một BTĐTTMKMĐ theo định nghĩa trên bao gồm các yếu tố sau:
Đầu tiên và quan trọng nhất, định nghĩa chỉ rõ rằng một BTĐTTMKMĐ phải là một
bản tin điện tử (electronic message) (tính điện tử), chng hạn như email hoặc tin nhắn văn
bản mà không phải là các bản tin thể hiện dưới dạng thư giấy, báo,... hữu hình truyền thống.
Loại bản tin này có thể truy cập dễ dàng thông qua thiết bị điện tử và được sử dụng rộng rãi
cho các mục đích thương mại và tiếp thị.
Thứ hai, định nghĩa chỉ rõ rằng bản tin phải được gửi cho mục đích thương mại hoặc
tiếp thị (tính thương mại). Điều này có nghĩa là bản tin đang được sử dụng để quảng cáo sản
phẩm, dịch vụ hoặc nhãn hiệu, với mục tiêu cuối cùng là tạo ra doanh số bán hàng, lợi nhuận
hoặc đơn thuần chỉ giới thiệu nằm xây dựng và quảng bá thương hiệu.
Thứ ba, định nghĩa chỉ rõ rằng tin nhắn phải được gửi đến một địa chỉ điện tử (electronic
address), chng hạn như email hoặc tin nhắn văn bản, (tính cụ thể). Như vậy, nếu một bản tin
điện tử được gửi đi nhằm mục đích thương mại hoặc tiếp thị nhưng không được gửi đến địa
chỉ điện tử nào cụ thể hoặc được gửi đến các địa chỉ điện tử vô hiệu (invalid) thì không được
xem là một BTĐTTMKMĐ.
Cuối cùng, định nghĩa chỉ rõ rằng bản tin phải được gửi mà không có sự đồng ý của
người nhận hoặc bất chấp sự từ chối rõ ràng của họ. Điều này có nghĩa là người nhận đã
không cho phép gửi bản tin cho họ và có thể đã chọn không nhận những bản tin đó một cách
rõ ràng. Điều khoản này được thiết kế để bảo vệ quyền của người nhận và đảm bảo rằng họ
không phải chịu các thông điệp tiếp thị không mong muốn.
So sánh với định nghĩa về BTĐTTMKMĐ tại Điều 14.1 Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định CPTPP), có thể thấy cả hai hiệp định RCEP
và CPTPP đều có định nghĩa về BTĐTTMKMĐ để điều chỉnh việc sử dụng và bảo vệ quyền
của người nhận. Cả hai hiệp định đều xác định BTĐTTMKMĐ là bản tin điện tử được gửi
cho mục đích thương mại hoặc tiếp thị tới một địa chỉ điện tử, chng hạn như email hoặc
tin nhắn văn bản, mà không có sự đồng ý của người nhận hoặc bất chấp sự từ chối rõ ràng
của họ. Trong khi RCEP chỉ dừng lại ở định nghĩa như vậy thì CPTPP có sự mở rộng định
nghĩa bằng cách chỉ định các phương tiện mà BTĐTTMKMĐ có thể được gửi, chng hạn
như thông qua một nhà cung cấp dịch vụ kết nối Internet hoặc dịch vụ viễn thông khác
trong phạm vi quy định của luật và các quy định của mỗi bên thành viên. Do đó, định nghĩa
của CPTPP cung cấp một khuôn khổ toàn diện hơn cho quy định và bảo vệ người nhận
BTĐTTMKMĐ, có tính đến các phương thức khác nhau mà BTĐTTMKMĐ có thể được gửi
cũng như các luật và quy định cụ thể của mỗi bên thành viên.
3.1.2. Pháp luật các quốc gia thành viên
Theo pháp luật các nước thành viên RCEP trong khối ASEAN, BTĐTTMKMĐ thường
được định nghĩa là một bản tin (thể hiện dưới dạng email, tin nhắn văn bản hoặc các hình
thức liên lạc điện tử khác nhằm quảng bá sản phẩm hoặc dịch vụ,...) được gửi đến người
nhận mà không có sự đồng ý hoặc yêu cầu trước của họ đối với tin nhắn. Tại Philippines,
Đạo luật Cộng hòa số 10175 hay còn gọi là Đạo luật phòng chống tội phạm mạng năm 2012