Sáng tạo - Nỗi buồn kinh tế tri thức Việt Nam

Tri thức: Động lực tăng trưởng mới

Nhìn tổng thể, nền kinh tế VN vẫn chủ yếu dựa vào nguồn nhân công rẻ mạt,

ít được đào tạo và hiện đang làm ra các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp.

VN vẫn là nước có năng suất lao động ở mức quá thấp. Với thế giới, năng

suất lao động được đánh giá là thước đo của hệ thống chính sách, động lực

chính của sự tăng trưởng bền vững.

Có thể lấy ngành Dệt may là một ví dụ. Theo báo cáo của Tập đoàn Dệt

may, hiện có hơn 2 triệu lao động làm việc trong ngành này. Kim ngạch xuất

khẩu toàn ngành dệt may năm 2011 đạt 13,8 tỷ USD. Tuy nhiên, lợi nhuận

chỉ đạt 1.340 tỷ đồng, tương đương 60 triệu USD, xấp xỉ 0,44%.

Cùng với dệt may, là dày da, nông lâm thuỷ sản... trong những năm qua,

Việt Nam đều đạt mức tăng trưởng xấp xỉ 25%/năm, nhưng sự tăng trưởng

kim ngạch đều dựa vào giá trị gia công là chủ yếu, nên chỉ giải quyết được

vấn đề việc làm với mức thu nhập trung bình mà không tạo ra được những

tên tuổi thương hiệu vượt ra ngoài biên giới quốc gia, cũng không tạo ra

được sự liên kết giữa các nhóm ngành xuất khẩu.

Để chuẩn bị cho một giai đoạn tăng trưởng mới không thể chỉ dựa vào sức

sống bản năng và những yếu tố có sẵn. Bẫy thu nhập trung bình là khái niệm

chỉ tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu

nhập trung bình nhưng mất nhiều thập niên vẫn không trở thành quốc gia

phát triển.

Khi đang thực sự nghèo, quốc gia đó có thể biến chính cái nghèo thành lợi

thế. Nhân công giá rẻ làm cho một nền kinh tế có thu nhập thấp cạnh tranh

trong sản xuất sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, mô hình đó cuối cùng

không tăng trưởng được nữa.

Khi thu nhập tăng, chi phí tăng, các ngành công nghiệp sản xuất cũ kỹ, công

nghệ thấp mất khả năng cạnh tranh. Các quốc gia sau đó phải chuyển "chuỗi

giá trị" sang xuất khẩu các sản phẩm công nghệ tiên tiến hơn.

Nhưng ngay cả như thế cũng không đủ để tránh bẫy. Để trở thành nền kinh

tế có thu nhập cao, nền kinh tế cần đổi mới và sử dụng lao động cũng như

nguồn vốn hiệu quả hơn. Điều đó đòi hỏi một mô hình hoàn toàn khác trong

kinh doanh.

Thay vì chỉ lắp ráp các sản phẩm được thiết kế bởi những nước khác, với

công nghệ nhập khẩu, các công ty phải chủ động đầu tư mạnh vào nghiên

cứu và phát triển, sử dụng lao động có tay nghề cao để chuyển hóa những

khoản đầu tư thành sản phẩm mới và lợi nhuận cao hơn.

Mới đây, trong một lần ngồi với một người người Mỹ ở Hà Nội, nhìn ra

ngoài là những chiếc xe hơi sang trọng, biển số đẹp. Chỉ vào một chiếc

Lexus tôi bảo anh, nước Mỹ được coi là khởi phát của ngành công nghiệp ô

tô, nhưng lại phải nhập khẩu xe hơi của Nhật Bản, phải chăng, vì thế mà

kinh tế Mỹ lâm vào suy thoái? Đó cũng là biểu hiện của sự già cỗi?

Ông trả lời rằng, trong chiếc xe hơi đó, người Nhật thu lợi được bao nhiêu,

người Mỹ thu được bao nhiêu? Rồi anh giải thích: xe do người Nhật chế tạo,

nhưng, những công nghệ cơ bản vẫn là phát minh của người Mỹ.

Từ hệ thống máy cái đến các thiết bị định vị trên xe, công nghệ 3G, 4G trang

bị trên xe đều là của người Mỹ. Nhà sản xuất đang phải trả bản quyền cho

người Mỹ trong từng sản phẩm. Càng nhiều xe hơi ra đời, thu nhập chuyển

về Mỹ càng lớn!

Chưa bàn đến chuyện đúng sai, nhưng dẫu có suy thoái thì nước Mỹ vẫn

đang được đánh giá là nền kinh tế số 1 thế giới. Điều này cũng đồng nghĩa

với thứ hạng nằm trong top 10 các nước dẫn đầu về chỉ số sáng tạo toàn cầu

năm 2012.