intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Soi lại mình qua tấm gương sáng của người phụ nữ Việt Nam - Cao Vũ Minh

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

140
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Soi lại mình qua tấm gương sáng của người phụ nữ Việt Nam" của Cao Vũ Minh phân tích về các nữ anh hùng dân tộc Việt Nam như nữ tướng Bùi Thị Xuân, Nguyên phi Ỷ Lan, Võ Thị Sáu, từ đó lấy làm tấm gương, bài học cho thế hệ trẻ nay và mai sau, đặc biệt là phụ nữ Việt Nam. Mời bạn đọc tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Soi lại mình qua tấm gương sáng của người phụ nữ Việt Nam - Cao Vũ Minh

  1. SOI LẠI MÌNH QUA TẤM GƯƠNG SÁNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM Cao Vũ Minh∗ Đại thi hào Nguyễn Du trong suốt cuộc đời của mình đã phải hai lần thốt lên lời cảm thông sâu sắc đến thân phận người phụ nữ. “Đau đớn thay phận đàn bà” 1, lời than vãn, cảm thông ấy dường như là để dành riêng cho họ - những người phụ nữ đã phải chịu quá nhiều nỗi bất công và khổ đau trong một xã hội mà tư tưởng trọng nam khinh nữ đã từng hiện diện hàng ngàn năm như ở nước ta. Thông thường trong xã hội thì một người bị người khác khinh thường vì rất nhiều lý do: không thông minh, không có tài, không có sắc đẹp, nhìn chung là thua sút người khác về mọi mặt. Thế nhưng người phụ nữ Việt Nam không thuộc dạng người kém cỏi hơn phái mạnh. Tuy nhiên họ vẫn không được coi trọng. Trải qua “đêm trường thế kỷ” của chiến tranh, của chế độ phong kiến bất công, hủ hóa, hình ảnh những người mẹ, người chị của dân tộc Việt Nam ngày càng trở nên sáng ngời rạng rỡ. Họ đã khẳng định được phẩm chất của mình trong từng thời kỳ xã hội. Đến ngày hôm nay, không ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của phụ nữ trên nhiều lĩnh vực. Để ghi nhận những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam, ngày 8/3/1965 Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã phong tặng phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Và ngày hôm nay - 8/3/2011 là một cơ hội tốt để mỗi người chúng ta đánh giá lại những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Trong 8 chữ vàng thì “Anh hùng” được đặt ở vị trí đầu tiên. Để dễ bàn luận, chúng ta cần hiểu nghĩa căn bản của hai chữ anh hùng. Anh hùng là gì? Theo Từ điển tiếng Việt thì “Anh hùng” là người có tài năng xuất chúng, công to, đức cả khiến mọi người đều kính phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ  ThS Luật học, Công đoàn viên tổ Công đoàn khoa Hành chính – Nhà nước. 1 Trong hai tác phẩm văn chương nổi tiếng của mình Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều) “Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” (Văn tế thập loại chúng sinh) 1
  2. Việt Nam, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” 2. Đó là lời tổng kết và ghi nhận những công lao to lớn của phụ nữ Việt Nam qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ngược dòng lịch sử, hình ảnh những người phụ nữ Việt Nam hiện lên như những ngọn lửa sáng, cháy hết mình cho những chiến công hiển hách của dân tộc. Có lẽ ai cũng biết cuộc kháng chiến đầu tiên của dân tộc ta chống lại quân xâm lược Trung Quốc do ai lãnh đạo. Chắc chắn đó không thể là ai khác ngoài Hai Bà Trưng – người đã khởi binh chống lại quân Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh (năm 40 - 43 sau công nguyên). Có lẽ chúng ta cũng không quên câu nói đầy khí phách của Bà Triệu: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Thời xưa có Hai Bà Trưng, Bà Triệu, thời nay thì có anh hùng Ngô Thị Tuyển với kỳ tích “tải đạn”, Võ Thị Thắng với nụ cười vượt thời gian. Trong Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ I (năm 1952) tại chiến khu Việt Bắc có 7 người vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng. Trong 7 anh hùng thì có một người là phụ nữ. Đó là nữ du kích Nguyễn Thị Chiên. Với thành tích “tay không bắt giặc”, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng khi mới 22 tuổi3. Nối tiếp truyền thống cách mạng anh hùng đó, phụ nữ Việt Nam đã không ngừng lập những chiến công hiển hách. Cả đất nước sẽ không bao giờ quên những nữ chiến sĩ anh hùng bất khuất trong ngục tù; hàng triệu người mẹ, người vợ chịu hy sinh gian khổ, chu toàn việc nhà, động viên chồng, con lên đường chiến đấu và bản thân cũng trực tiếp tham gia kháng chiến và hy sinh, tiêu biểu như nữ anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Thị Bưởi, Lê Thị Hồng Gấm, mẹ Suốt, đội quân tóc dài của tỉnh Bến Tre, đội nữ du kích Củ Chi… Có thể họ - những người phụ nữ Việt Nam, không phải là những tài năng xuất chúng nhưng với những cống hiến quên mình cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Họ xứng đáng được tôn vinh là anh hùng. Sẽ thật thiếu sót nếu nói rằng anh hùng mà không có được tinh thần bất khuất. Bất khuất và anh hùng gắn bó mật thiết với nhau như hai mặt của một bàn tay. Khó có thể nói 2 Bức thư của Hồ Chủ Tịch gởi phụ nữ Việt Nam nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3/1952. 3 Tập thể tác giả, Lịch sử Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, năm 2005. 2
  3. anh hùng mà lại không bất khuất và ngược lại. Bất khuất, đó là tình thế của con người khi đối diện với “giàu sang không thay đổi, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”. Những năm cuối thế kỷ XVIII, nữ tướng Bùi Thị Xuân đã kiên cường khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn Ánh. Tinh thần bất khuất của Bùi Thị Xuân đã được nhân dân Việt Nam truyền kể cho nhau nghe như một huyền thoại, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Bùi Thị Xuân là một đô đốc tài ba, chuyên huấn luyện voi chiến cho Tây Sơn, nhiều lần đội quân voi chiến này đánh tan quân của nhà Thanh lẫn quân của Nguyễn Ánh. Sau khi lật đổ nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh cho tứ mã phân thây vua Cảnh Thịnh (con của vua Quang Trung). Còn nữ tướng Bùi Thị Xuân – người nhiều phen làm cho Nguyễn Ánh khốn đốn nên Nguyễn Ánh rất căm hận. Khi nghe bà bị bắt, Nguyễn Ánh sai người đem đến trước mặt hỏi giọng đắc chí: - Ta và Nguyễn Huệ ai hơn? Bà trả lời: - Chúa công ta; tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với Chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Nguyễn Ánh gằn giọng: - Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh? Bà ung dung đáp: - Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc hà…4 Nhắm không thể khuất phục bà nên Nguyễn Ánh ra lệnh hành quyết. Nguyễn Ánh bắt chính con voi mà Bùi Thị Xuân cưỡi phải giẫm chết bà. Bọn lính bắt bà phải quỳ xuống để cho voi giẫm nhưng bà không chịu quỳ mà tiến thẳng về phía con voi. Con voi lùi dần nhưng vì bị xích nên con voi không lùi được nữa. Con voi thương chủ, chảy nước mắt nên dùng vòi quấn quanh người Bùi Thị Xuân đưa lên cao rồi quật một cái thật mạnh 4 Nguyễn Trọng Trì, Tây Sơn lương tướng ngoại truyện, Viện Đại học Vạn hạnh xuất bản, năm 1970. 3
  4. xuống đất để bà chết ngay. Sau đó, con voi phá tung dây xích chạy thẳng vào rừng. Từ đó không ai còn nhìn thấy con voi này nữa5. Thế kỷ XIX, XX cũng in đậm dấu ấn của những nữ chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất. Đó là chị Võ Thị Sáu (1935 - 1952) - người nữ anh hùng mới tròn 15 tuổi đã giác ngộ lý tưởng, hoạt động cách mạng, bị tù đày khổ ải và bị tuyên án tử hình nhưng lòng không hề nao núng, vẫn hô to “Hồ Chủ tịch muôn năm” trước tiếng súng của kẻ thù. Trong mùa hè rực lửa năm 1972, Thạch Hãn (Quảng Trị) đã trở thành dòng sông oanh liệt, ôm vào lòng hàng ngàn người con ưu tú của tổ quốc, khi họ dũng cảm vượt sông dưới làn đạn địch, theo tiếng gọi của chiến trường. Máu đỏ hòa vào nước. Thịt xương tan vào đất. Họ mãi mãi nằm xuống cho khát vọng tự do. Trong chúng ta, nếu đã có dịp một lần ghé thăm dòng Thạch Hãn thì sẽ không bao giờ quên những câu thơ trầm hùng bi tráng của nhà thơ Lê Bá Dương: “Đò qua Thạch Hãn Xin chèo nhẹ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm Có tuổi hai mươi thành sóng vỗ Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm” (Đò qua Thạch Hãn __ Lê Bá Dương) Và nếu có dịp thì cũng nên một lần trở lại ngã ba Đồng Lộc để thắp một nén hương tưởng nhớ mười cô gái thanh niên xung phong đã hy sinh nơi đây. Bom đạn đã cướp đi sự sống, xương máu của các chị đã hòa vào lòng đất mẹ góp phần làm nên màu xanh cho Đồng Lộc hôm nay. Các chị ra đi vào độ tuổi đôi mươi - cái tuổi đang độ xuân thì, đẹp nhất của đời người. Chắc hẳn trước lúc ra đi, các chị cũng mang trong mình những ước mơ hoài bão, những dự định cho mai sau... Nhưng các chị đã hy sinh cả quảng đời thanh xuân của mình, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc với một ước mơ thật giản dị: Mười bát nhang, hương cắm thế đủ rồi Còn hương nữa, dành phần cho đất Chúng tôi chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu Ngày bom vùi tóc tai bết đất 5 Cao Ngọc Lân, Sự ra đời và suy vong của các triều đại Việt Nam, Nxb. Lao Động, năm 2011. 4
  5. Nằm trong mộ rồi mái đầu chưa gội được Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang Cho mọc dậy vài cây Bồ kết Hương chia đều trong hư ảo khói nhang (Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc__ Vương Trọng) Tinh thần bất khuất kiên trung của các chị mãi mãi là gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo. Là một đất nước luôn đối diện với nạn ngoại xâm, lại là một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp, nên người phụ nữ Việt Nam có bản sắc và phong cách riêng: vừa là người chiến sĩ chống ngoại xâm anh hùng, bất khuất vừa là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh, đồng thời là người chủ gia đình đảm đang. Có thể nói, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất. Trong cuộc sống thường nhật, phụ nữ Việt Nam lại rất trung hậu, đảm đang. Nguyên phi Ỷ Lan và thứ phi Nguyễn Thị Bích Châu là hai tấm gương sáng về sự trung hậu, đảm đang đó. Nguyên phi Ỷ Lan vốn là vợ vua Lý Thánh Tông. Mặc dù được sánh duyên cùng vua nhưng Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc để mong được tình yêu của vua mà quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Ỷ Lan khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách nên chỉ một thời gian ngắn mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan. Thời nguyên phi Ỷ Lan nhiếp chính thay vua trị vì đất nước, Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt nhiều lần đem quân đánh Chiêm Thành nhưng đánh mãi không thắng phải rút quân về. Đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa, hòa hợp, trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi bà là Quan Âm. Vua nói: “Nguyên phi là đàn bà mà còn làm được như thế, là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?”. Sau đó, vua bèn quay lại đánh Chiêm Thành và cuối cùng giành được thắng lợi. Nguyên phi Ỷ Lan thay Lý Thánh Tông trị vì đất nước trong nhiều năm và làm cho triều Lý ngày càng thịnh vượng. Bà đã lấy tiền để chuộc các cô gái phải bán đi ở đợ 5
  6. và đem gả cho những người đàn ông không vợ. Bà đã cho xây trên 150 cái tháp và hàng trăm chùa trên khắp đất nước. Nhân dân yêu quý gọi Ỷ Lan là Bà Tấm xứ Bắc6. Đến thời nhà Trần, nước ta lại xuất hiện một “Ỷ Lan thứ hai”. Đó là Nguyễn Thị Bích Châu - vợ vua Trần Duệ Tông. Bà có nhan sắc xinh đẹp, hơn nữa lại văn hay chữ tốt, trong cung đình nhà vua khó có phi tần nào sánh kịp. Trong nước lúc bấy giờ chính sự đổ nát, bà thảo một bản điều trần với nhan đề “Kê minh Thập sách” để dâng lên vua. Trong đó nêu lên mười điều vua nên làm. Vua xem qua có khen nhưng lại không áp dụng nên chính sự vẫn rối ren. Năm Đinh Tỵ (1377), Duệ Tông cất 12 vạn binh đi đánh Chiêm Thành. Bà Bích Châu dâng biểu can ngăn, phân tích lợi hại rất rành mạch. Vua vẫn không nghe mà vẫn chuẩn bị đội ngũ để tự mình “thân chinh”. Thấy vậy, bà Bích Châu lại viết một bài biểu lời lẽ tha thiết, khuyên chồng nên nghĩ lại. Nhưng bài biểu của bà cuối cùng cũng bị xếp vào một xó. Thấy chồng quyết tâm kéo quân đi, Bích Châu rất buồn, nhưng rồi bà cũng xin phép chồng cho mình đi theo và luôn sát cánh bên chồng. Khi bà mất được sắc phong “Chế Thắng linh thần” và được lập đền thờ tại Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Đến thời Lê, vua Lê Thánh Tông đích thân làm một bài thơ điếu bà Bích Châu như sau: Bản thị Hy Lăng cung lý nhân Lâm nguy vị quốc độc vong thân Yên phong nhất trận đào hao lãng Xuân dạ tam canh độ nhược tân Hàn thủy vô đoan mai Sở phụ Hương hồn hà xứ điếu Tương quân? Ta hồ, bách vạn hùng binh lữ Bất tận thư sinh nhất hịch văn! Dịch thơ Nôm: Nàng xưa cung nữ của Hy Lăng (Miếu hiệu của vua Trần Duệ Tông) 6 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thanh Hóa, tập 3, năm 1998. 6
  7. Vì nước lâm nguy, quyết xả thân Một trận gió yêu gây sóng cả Hồn nương bến bãi suốt đêm xuân Bông dưng sông lạnh vùi thân gái Biết chốn nào đây viếng nữ thần? Chán nhỉ, vạn ngàn quân tướng mạnh Chẳng bằng tờ hịch gã thư sinh! Bài thơ thật cảm động. Sáu câu đầu vua ca tụng đức xả thân cứu nước của bà Bích Châu. Hai câu kết có ngụ ý chê vua Duệ Tông và tự đề cao mình. Có lẽ hương linh bà Bích Châu không vui, vì chạm vào tình cảm kính trọng chồng. Cho nên khi vua Lê Thánh Tông thắng trận, lúc khải hoàn qua đây, bà lại báo mộng cho vua, tạ ơn và van xin vua: - Bài thơ nhà vua đề ở Đền lời ý đều hay, duy hai câu kết có ý phẩm bình chuyện cũ, khiến lòng thiếp không được yên! Nhà vua sực tỉnh, sửa ngay hai câu kết thành: Cương thường vạn cổ ưng vô quý Từ hạ thư cưu hý thủy văn (Vạn cổ cương thường lòng chẳng thẹn Thư cưu giỡn sóng dưới chân đền)7 Một cung phi lúc sống đã tỏ lòng trung can nghĩa khí, lúc mất đi vẫn hiển linh để giữ trọn đạo trung hiếu như bà Nguyễn Thị Bích Châu, thật là một tấm gương sáng của giới nữ lưu, đáng cho hậu thế soi chung. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày càng diễn ra ác liệt trong phạm vi cả nước. Hàng vạn nam giới hăng hái lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc, ngày 19/3/1965, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động phong trào phụ nữ ba đảm nhiệm: Đảm nhiệm sản xuất, công tác thay người đi chiến đấu; đảm nhiệm gia đình để chồng con yên tâm chiến đấu; đảm nhiệm phục vụ chiến đấu và chiến đấu. Để động viên các chiến sỹ ngoài mặt trận, Hội phụ nữ nhiều tỉnh đã phát động hội viên viết thư giao ước thi đua với tiền tuyến “Chiến trường anh quyết lập công, hậu phương em quyết một lòng thi 7 Cao Ngọc Lân, Cổ tích Việt Nam – Lịch sử và huyền thoại, Nxb. Lao Động, năm 2010. 7
  8. đua”. Hiện thực hóa tinh thần này, hàng chục ngàn nữ thanh niên tình nguyện tham gia bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên khắp các mặt trận, lập nên những chiến công vẻ vang. Tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” không chỉ là sự khích lệ, động viên mà còn là sự thừa nhận và đánh giá cao vai trò của phụ nữ Việt Nam: “Vừa hiền, vừa dịu lại vừa tươi Mà lúc xông pha mạnh tuyệt vời Đánh giặc, lo nhà, xây dựng nước Đảm đang lừng lẫy bốn phương trời” Hẳn sẽ còn rất nhiều tấm gương về phụ nữ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại mà việc luận bàn không đơn thuần chỉ gói gọn trong vài trang giấy nhưng ngần ấy cũng đủ để ta tự hào về người mẹ, người chị, người phụ nữ Việt Nam. Tự hào với truyền thống là thế nhưng cũng không khỏi chạnh lòng khi hiện nay một bộ phận không nhỏ giới nữ trẻ Việt Nam đang thực hiện tám chữ vàng đó với những biểu hiện tiêu cực. Hàng loạt các vụ đánh nhau trong trường học nhằm thể hiện sự anh hùng. Sự suy đồi về nhân cách, sống vội, sống gấp để rồi trượt dài trên con đường tội lỗi đã và đang gióng lên một hồi chuông cảnh báo cho toàn xã hội. Những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam được trui rèn trong chiến đấu và chiến thắng phải chăng đang bị cuộc sống quá đầy đủ và phẳng lặng bào mòn? Giới trẻ hôm này, đất nước ngày mai. Trách nhiệm để giới nữ trẻ Việt Nam phát triển lành mạnh, sống xứng đáng với truyền thống cha anh trước hết thuộc về chúng ta mà những cuộc thi tìm hiểu về tấm gương của người phụ nữ Việt Nam mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Có thể ít nhưng đó cũng là cơ hội rất tốt để giới trẻ soi thấy mình trong những tấm gương anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam. 8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1