Sức khỏe và quyền con người
Thế giới cần một người bảo vệ sức khỏe toàn cầu, một người giám sát
các giá trị, một người bảo vệ và giám hộ sức khỏe, trong đó có
quyền về sức khỏe.
- Tiến sĩ Margaret Chan, Tổng giám đốc TCYTTG
Thông tin chính
Hiến chương của TCYTTG (1946) là công cụ quốc tế đầu tiên bảo vệ sức khỏe, coi đó là “quyền cơ bản của mọi
người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội”. Hiến chương đó
được coi là đã thúc đẩy điều khoản về sức khỏe trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.
Quyền được hưởng tình trạng sức khoẻ tốt nhất có thể được về thể chất và tâm thần, hay quyền về sức khỏe, đến
nay đã được nhiều hiệp định quốc tế và khu vực về quyền con người phê chuẩn, cũng như được đưa vào Hiến
pháp và luật của nhiều quốc gia. Công ước khung về Kiểm soát thuốc lá của TCYTTG, Điều lệ Y tế Thế giới và
nhiều Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và của Ủy ban Khu vực Tây Thái Bình Dương cũng nhắc đến
các quyền con người.
Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều đã tham gia ít nhất là một công ước về quyền con người đề cập đến
các quyền liên quan tới sức khỏe, tức là quyền về sức khỏe cũng như các quyền khác liên quan đến các điều kiện
cần thiết để đảm bảo sức khỏe.
Quyền về sức khỏe có nghĩa là chính phủ các nước phải tạo điều kiện cho mọi người có được một đời sống khỏe
mạnh.
Hình 1: Ví dụ về mối liên hệ giữa sức khỏe và quyền con người
Nguồn: World Health Organization. 25 Questions & Answers on Health and Human Rights. Geneva,
World Health Organization, 2002
Mối liên hệ giữa sức khỏe và quyền
con người
Sức khỏe và quyền con người phụ thuộc lẫn
nhau, không thể tách biệt và có mối liên hệ qua
lại, gắn bó chặt chẽ: không thể đạt được việc
nâng cao và bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc nếu
không thúc đẩy, bảo vệ và thực hiện quyền con
người, và ngược lại. Thuyết trình về Sức khỏe
và quyền con người nói đến ba mối liên hệ
chồng chéo (xem Hình 1).
Ví dụ, quyền về lương thực bao gồm quyền có
đủ lương thực và thực phẩm có đủ dinh dưỡng
cẫn thiết để đảm bảo sống khỏe mạnh và năng
động. Quyền này đặc biệt có ý nghĩa trong Khu
vực Tây Thái Bình Dương, nơi mỗi năm có tới
187 000 ca tử vong do suy dinh dưỡng lẽ ra có
thể ngăn chặn được ở trẻ em dưới 5 tuổi, và
hơn 6,5 triệu trẻ dưới 5 tuổi bị béo phì.
Nghĩa vụ và cam kết của quốc gia đối với Quyền con
người
Bảng 1: Phê chuẩn các công ước quốc tế
Quốc gia
ICESCR CEDAW CRC
(1979) (1989) (1966)
Trong những năm gần đây Khu vực Tây Thái Bình Dương đã
chứng kiến những bước tiến lớn trong nỗ lực thúc đẩy quyền con
người của các quốc gia. Những nỗ lực đó được thể hiện dưới nhiều
hình thức, bao gồm các thỏa thuận quốc tế và khu vực cũng như
Hiến pháp và luật quốc gia.
√
√
√
√
√
Ngày nay tất cả các nước trong Khu vực đều
đã tham gia ít nhất là một Hiệp ước về Quyền
con người đề cập đến các quyền liên quan tới
sức khỏe.
√ √
√
√
√
√
√
√
√
√ √
√
√
√
√
√
√
√
√
Úc
Vương quốc Brunei
Căm-pu-chia
Trung Quốc
Quần đảo Cook
Fiji
Nhật Bản
Kiribati
CHDCND Lào
Ma-lai-xi-a
Liên bang Micronesia √
√ √
√
√
√
√ √
√
√
√
√
√
√
√
Các công cụ quốc tế
Đã có 9 Hiệp ước cốt lõi Quốc tế về Quyền con người; Quyền về
sức khỏe đã được bảo vệ trong một số Hiệp ước đó. Công ước
Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR), Công
ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) và Công ước về Quyền trẻ em (CRC) đặc biệt có ý
nghĩa đối với công việc của TCYTTG. Bảng 1 nêu tên các quốc gia
Khu vực Tây Thái Bình Dương đã phê chuẩn những công ước này.
Hiến pháp quốc gia
Quyền con người, nhất là Quyền về sức khỏe, ngày càng được công
nhận trong Hiến pháp của các quốc gia. Quyền về sức khỏe được
ghi rõ trong Hiến pháp của 5 nước trong Khu vực, gồm Nhật Bản,
Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Mông Cổ và Phi-líp-
pin. Hiến pháp của 5 quốc gia khác xác định sức khỏe là nguyên tắc
chỉ đạo của Nhà nước (xem Hình 2).
√
√
√
√
√ √
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√ √
√
√ √
Quần đảo Marshall
Mông Cổ
Nauru
Niue
New Zealand
Palau
Papua New Guinea
Phi-líp-pin
Hàn Quốc
Samoa
Quần đảo Solomon
Tonga
Tuvalu
Vanuatu
Việt Nam
Nguồn: United Nations. UN Treaty Collection [Internet]. New York, United
Nations, 2013 (http://treaties.un.org; accessed 22 November 2013).
Hình 2: Quyền về sức khỏe trong Hiến pháp các quốc gia Khu vực Tây Thái Bình
Dương
Quyền về sức khỏe được
nhìn nhận
Sức khỏe là nguyên tắc
chỉ đạo của Quốc gia
Không nhắc tới Quyền về sức
khỏe
Khung 1: Đảm bảo sẵn có thuốc thiết yếu
Quyền về sức khỏe
Định nghĩa đáng tin cậy nhất về Quyền về sức khỏe được bao gồm trong Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa
(1966). Công ước ICESCR định nghĩa Quyền về sức khỏe là một quyền có nội hàm rộng, bao gồm quyền có được chăm sóc về y tế
kịp thời và phù hợp cũng như có được các yếu tố quyết định sức khỏe, như tiếp cận nước sạch và điều kiện vệ sinh đầy đủ, có nhà ở,
có điều kiện làm việc và môi trường lành mạnh.
Bình luận chung số 14, được Ủy ban các quyền Kinh tế, Xã hội
và Văn hóa của LHQ phê chuẩn năm 2000, nêu ra bốn thành
phần của Quyền về sức khỏe như sau:
Tính sẵn có: Có các cơ sở y tế và y tế công cộng hoạt
động tốt, hàng hóa và dịch vụ, cũng như các chương
trình y tế phải sẵn có với số lượng đủ đáp ứng. (xem
Khung 1).
Khả năng tiếp cận: Mọi người đều có thể tiếp cận
được các cơ sở, hàng hóa và dịch vụ y tế; Khả năng tiếp
cận bao gồm 4 khía cạnh: không phân biệt đối xử, tiếp
cận được về mặt địa lý, tiếp cận được về mặt kinh tế, và
tiếp cận được về mặt thông tin.
Chấp nhận được: Tất cả các cơ sở, hàng hóa và dịch
vụ y tế phải tôn trọng y đức, phù hợp về văn hóa và đáp
ứng các yêu cầu về giới và vòng đời.
Chất lượng: Các cơ sở, hàng hóa và dịch vụ y tế phải
Nguồn: World Trade Organization. Overview: the TRIPS Agreement [Internet].
Geneva, World Trade Organization, 2013
(http://www.wto.org/english/tratop_e/trips_e/intel2_e.htm, accessed 22 November
2013).
phù hợp về khoa học, y học và có chất lượng tốt.
Giá thuốc vẫn luôn là rào cản lớn đối với tính sẵn có và
tiếp cận thuốc thiết yếu, đặc biệt là ở nhiều quốc gia thu
nhập trung bình và thu nhập thấp ở châu Âu, châu Á và
Mỹ La tinh. Có nhiều yếu tố tác động tới giá thuốc, trong
đó có một yếu tố quan trọng liên quan tới vấn đề bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ. Thỏa thuận về những khía cạnh liên
quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
được thông qua năm 1994 đưa ra những tiêu chuẩn tối
thiểu cho bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhưng cũng có
những linh động nhất định cho y tế. Tuyên bố Doha năm
2001 khẳng định những quy định đó và nhắc lại quyền của
các Quốc gia được áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe
cộng đồng.
Khung 2: Đảm bảo chăm sóc y tế có thể
tiếp cận được
Cũng như tất cả các Quyền con người, Quyền về sức khỏe đòi
hỏi các Quốc gia thành viên phải thực hiện ba loại nghĩa vụ sau.
Tôn trong: Có nghĩa là không được can thiệp vào việc
mọi người thu hưởng Quyền về sức khỏe ("không gây
nguy hại"). Tôn trọng bao gồm việc đảm bảo sao cho
không có nhóm đối tượng nào, như tù nhân chẳng hạn,
bị từ chối hoặc hạn chế tiếp cận chăm sóc y tế bình
đẳng.
Bảo vệ: Có nghĩa là đảm bảo không có bên thứ ba nào
xâm phạm việc thụ hưởng Quyền về sức khỏe. Ví dụ, để
giải quyết vấn đề bệnh không lây nhiễm, chính phủ phải
kiểm soát các tổ chức ngoài chính phủ như ngành công
nghiệp rượu, thực phẩm và thuốc lá.
2013.
Nguồn:: Republic of the Philippines Official Gazette. Republic Act 10606: The
National Health Insurance Act of 2013. [Internet]. Manila, Republic of the
Philippines,
(http://www.gov.ph/2013/06/19/republic-act-no-10606/,
accessed 23 November 2013).
Thực hiện: Có nghĩa là có hành động tích cực để thực
hiện Quyền về sức khỏe, như ban hành pháp chế, chính
sách hay các biện pháp ngân sách phù hợp. Ví dụ, xây
dựng một chiến lược hoặc kế hoạch quốc gia cho lĩnh
vực y tế là một phần của “nội dung cốt lõi”, tức là mức
độ cơ bản tối thiểu của Quyền về sức khỏe. Một kế
hoạch như vậy phải giải quyết các quan ngại về sức
khỏe của toàn dân, bao gồm cả các nhóm đối tượng dễ
bị tổn thương hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Không phải quốc gia nào cũng có đủ nguồn lực để đảm bảo các quyền con người cho tất cả mọi người ngay lập tức. Nhận
thức rằng để đạt được mục tiêu đó cần có thời gian và nguồn lực, nguyên tắc hiện thực hóa dần dần thúc giục chính phủ
các nước thực hiện dần từng bước, song cần nhanh chóng và hiệu quả hết mức có thể, hướng tới hiện thực hóa Quyền về
sức khỏe. Tất cả các nước cần có những bước đi cẩn trọng, cụ thể và có mục tiêu, sử dụng tối đa các nguồn lực hiện có,
trong đó có biện pháp thông qua hợp tác quốc tế.
Mỗi năm có khoảng 150 triệu người bị lao đao về tài
chính và 100 triệu người rơi vào cảnh đói nghèo vì chi phí
khám chữa bệnh. Các cơ chế tài chính y tế bình đẳng bảo
vệ cho những hộ gia đình nghèo nhất có ý nghĩa quan
trọng trong việc đảm bảo cho họ được tiếp cận dịch vụ y
tế. Các nước trong Khu vực Tây Thái Bình Dương ngày
càng nhận thức rõ điều đó. Ví dụ, mới đây hệ thống bảo
hiểm y tế quốc gia PhilHealth của Phi-líp-pin đã cam kết
tới năm 2016 sẽ đạt được bao phủ bảo hiểm y tế cho tất cả
người dân Phi-líp-pin.
Thực hành y tế công cộng đang bị đè
nặng bởi… tình trạng phân biệt đối xử
không cố ý. Ví dụ, các hoạt động tiếp cận
cộng đồng có thể ‘cho rằng’ mọi nhóm đối
tượng đều được tiếp cận một cách bình
đẳng bằng một thông điệp ngôn ngữ duy
nhất trên truyền hình…. tất cả các chính
sách và chương trình y tế đều cần bị coi là
có tính chất phân biệt đối xử cho đến khi
được chứng minh là không phải như vậy. Y
tế công cộng cần phải gánh trách nhiệm
khẳng định và đảm bảo sự tôn trọng của
mình đối với Quyền con người.
- Jonathan Mann
Cách tiếp cận sức khỏe trên cơ sở Quyền con người
Cách tiếp cận sức khỏe trên cơ sở Quyền con người được hướng dẫn bởi các tiêu chuẩn và chỉ tiêu về Quyền con người, đảm bảo sao
cho các can thiệp y tế hỗ trợ năng lực của những bên có trách nhiệm (chủ yếu là Nhà nước) thực hiện nghĩa vụ của mình và trao quyền
cho những cộng đồng chịu ảnh hưởng (bên có quyền lợi) đòi hỏi quyền lợi của mình. Cách tiếp cận sức khỏe trên cơ sở quyền con
người có mục tiêu cụ thể là thực hiện quyền về sức khỏe và các quyền con người liên quan đến sức khỏe khác. Cách tiếp cận như vậy
đòi hỏi mọi can thiệp và quy trình y tế phải được dẫn dắt bởi các tiêu chí và nguyên tắc quyền con người cốt lõi sau:
Không phân biệt đối xử & bình đẳng: Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử là cốt lõi của phương pháp tiếp cận trên cơ sở quyền con
người. Trong thập niên vừa qua, cách diễn giải pháp lý về khái niệm
không phân biệt đối xử đã được mở rộng để bao gồm các lý do như
giới tính, khuyết tật về thể chất hoặc tâm thần và tình trạng sưc khỏe.
Cấm phân biệt đối xử không có nghĩa là không thừa nhận các khác
biệt, mà thực ra có thể cần phải có các biện pháp đặc biệt cho các
nhóm đối tượng bị thiệt thòi. Thông thường điểm khởi đầu của không
phân biệt đối xử là đảm bảo tính sẵn có thông tin được phân chia theo
các nhóm liên quan. Ví dụ, nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật, tai nạn
thương tích và các yếu tố nguy cơ ở New Zealand giai đoạn 2006-
2016 phân tầng số liệu theo giới tính, tuổi, nhóm người Māori và
không phải người Māori, và nêu rõ tầm quan trọng của việc trong
tương lai cần mở rộng phân tích số liệu xuống cấp địa phương và ‘các
nhóm đối tượng bị thiệt thòi’ (1).
Tham gia & hiện diện: Sự tham gia và hiện diện tự do, có ích và hiệu
quả của người dân và cộng đồng vào các quyết định về chính sách hay
chương trình y tế có tác động tới họ là nền tảng của hoạt động y tế
công cộng và là một quyền con người. Cộng đồng có thể giúp củng cố
chính sách và cần được tham gia vào quá trình thiết kế, triển khai,
giám sát và đánh giá các chương trình y tế. Ví dụ, Báo cáo tiến độ
phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam năm 2012 (2) ghi nhận những
người sống chung với HIV đã có vai trò ngày càng tích cực trong
đáp ứng của quốc gia. Các nhóm hoạt động đại diện cho một nhóm
đối tượng — nam tình dục đồng giới (MSM) — đã tổ chức hội thảo
với các nhà hoạch định chính sách cấp tỉnh, nhà quản lý và cán bộ y
tế, truyền thông, lãnh đạo cộng đồng MSM và các bên có trách
nhiệm khác để giảm thiểu tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử đối
với MSM và nâng cao hiểu biết về các dịch vụ phòng chống HIV
trong nhóm đối tượng này. Có hỗ trợ tài chính và kỹ thuật đủ và bền
vững là mấu chốt để đảm bảo sự tham gia có ích của cộng đồng (2).
Trách nhiệm giải trình: Quyền và nghĩa vụ đỏi hỏi phải có trách nhiệm giải trình. Những người đưa ra quyết định phải
minh bạch về hành động, và các cơ chế chỉnh đốn cần được thiết lâp để điều tra các cáo buộc vi phạm. Có thể thực hiện
trách nhiệm giải trình thông qua nhiều cơ chế khác nhau, bao gồm sự giám sát thường xuyên của các cơ quan giám sát
Hiệp định về Quyền con người của LHQ, như Ủy ban các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa của LHQ, và báo cáo cho
những cơ quan này, hoặc thông qua hệ thống pháp luật. Ở cấp độ quốc gia, tranh chấp trên cơ sở quyền con người ở các
tòa án trong nước là một xu hướng ngày càng phát triển từ thập niên 1990 và đã giúp tăng cường trách nhiệm giải trình
của chính phủ liên quan đến các nghĩa vụ của họ theo Bộ luật Nhân quyền quốc tế. Xu hướng đó cũng giúp trao quyền cho
các cá nhân để khẳng định quyền của mình.
Đáp ứng của TCYTTG
TCYTTG hỗ trợ Các Quốc gia thành viên xây dựng năng lực thiết kế và triển khai thực hiện các chính sách và chương trình y tế
nhằm tăng cường bình đẳng về sức khỏe và tích hợp các phương pháp tiếp cận vì người nghèo, đáp ứng giới và dựa trên cơ sở
quyền con người. Điều đó đòi hỏi phải:
thúc đẩy Quyền về sức khỏe trong luật quốc tế và các quy trình phát triển quốc tế; củng cố năng lực tích hợp cách tiếp cận sức khỏe trên cơ sở quyền con người của TCYTTG và các Quốc gia thành viên;
vận động cho các quyền con người liên quan đến sức khỏe, trong đó có Quyền về sức khỏe.
1 Ministry of Health, New Zealand. Ways and Means: A report on methodology from the New Zealand Burden of Diseases, Injuries and Risk Factors Study, 2006–2016. Wellington, Ministry
of Health, 2012. (Bộ Y tế New Zealand. Cách thức và Phương tiện: Báo cáo về phương pháp của Nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật, tai nạn thương tích và yếu tố nguy cơ ở New Zealand,
2006–2016, Bộ Y tế, 2012)
2 National Committee for AIDS, Drug and Prostitution Prevention and Control, Viet Nam. Viet Nam AIDS response progress report 2012. Hanoi, National Committee for AIDS, Drug and
Prostitution Prevention and Control, 2012 (http://www.unaids.org/en/dataanalysis/knowyourresponse/countryprogressreports/2012countries/ce_VN_Narrative_Report.pdf, accessed 22
November 2013). (Báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam năm 2012. Ủy ban quốc gia phòng chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm Việt Nam, Hà Nội, 2012)