intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Suy thoái kinh tế

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:8

85
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung tài liệu giúp người học phân biệt khủng hoảng và suy thoái kinh tế, các giai đoạn của khủng hoảng kinh tế, cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế... Tham khảo nội dung tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Suy thoái kinh tế

  1. 1.Phân biệt khủng hoảng và suy thoái KT Suy thoái kinh tế được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm  quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc   độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Tuy nhiên, định nghĩa này không được chấp   nhận rộng rãi. Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia ( NBER) của Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về  suy thoái kinh tế  còn mập mờ  hơn “là sự  tụt giảm hoạt động kinh tế  trên cả  nước, kéo dài  nhiều tháng”. Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế  của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ  suy thoái có thể  đi liền với hạ  giá cả  ( giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả  ( lạm  phát) trong thời kì đình lạm. Một sự  suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là  khủng hoảng kinh tế. Sự  tan vỡ  tàn phá  nền kinh tế là suy sụp/đổ vỡ kinh tế. Các nhà kinh tế học hay miêu tả kiểu suy thoái kinh tế theo hình dáng của đồ thị tăng trưởng   theo quý. Có các kiểu suy thoái sau hay được nhắc đến: Suy thoái hình chữ V: Đây là kiểu suy thoái mà pha suy thoái ngắn, tốc độ suy thoái lớn; đồng   thời, pha phục phồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đồi chiều giữa hai phá này rõ   ràng. Đây là kiểu suy thoái thường thấy. Suy thoái hình chữ U: Đây là kiểu suy thoái mà pha phục hồi xuất hiện rất chậm. Nền kinh tế  sau một thời kỳ suy thoái mạnh tiến sang thời kỳ vất vả để  thoát khỏi suy thoái. Trong thời  kỳ thoát khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng trưởng âm xen kẽ nhau. Suy thoái hình chữ  W: Đây là kiểu suy thoái liên tiếp. Nền kinh tế  vừa thoát khỏi suy thoái  được một thời gian ngắn lại tiếp tục rơi ngay vào suy thoái. Suy thoái hình chữ L: Đây là kiểu suy thoái mà nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi   suốt một thời gian dài không thoát khỏi suy thoái. Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái  không lối thoát này là khủng hoảng kinh tế.
  2. Suy thoái hình chữ V, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ năm 1953   Suy thoái hình chữ U, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ trong các năm 1973­1975   Suy thoái hình chữ W, như trường hợp suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ đầu thập niên 1980
  3.   Suy thoái hình chữ L, như trường hợp Thập kỷ mất mát (Nhật Bản). Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy  thoái trong chu kỳ kinh tế.  Trong Kinh tế chính trị Marx,khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá  trình tái sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa   các giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích tụ tư  bản mới. 2.Các gđ của CKKT  Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ nhất Cuộc khủng hoảng thứ nhất tiềm  ẩn từ cuối thập kỷ 70, bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài  đến đầu thập kỷ  90 của thế  kỷ  trước. Cuộc khủng hoảng này biểu hiện trên 4 mặt ­ cả  4  đỉnh của “tứ giác mục tiêu” ­ đều bị “lùn” xuống: ­ Tăng trưởng kinh tế thấp, có những năm còn bị  “tăng trưởng âm”. Bình quân thời kỳ 1977­ 1980, GDP chỉ tăng 0,4%/năm (trong đó năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%) ­ thấp xa so   với   tốc   độ   tăng   2,31%/năm­   làm   cho   GDP   bình   quân   đầu   người   bị   sụt   giảm   (giảm   1,87%/năm). ­ Lạm phát phi mã và kéo dài. Lạm phát ngầm đã diễn ra từ cuối những năm 70, đầu những  năm 80 khi chênh lệch giữa giá trong và ngoài ngày một lớn. Tính phi thị  trường càng rõ khi 
  4. phân phối thì bao cấp hiện vật, ngân hàng thì không theo nguyên tắc lấy vay để cho vay, ngân   sách thì không theo nguyên tắc lấy thu để  chi, nên để  bù đắp bội chi tiền mặt, bội chi ngân   sách đã phải in tiền; lại gặp sai lầm khi cải cách “giá­lương­tiền” năm 1985, đã làm cho siêu   lạm phát xuất hiện, lên tới 774,7% năm 1986 và kéo dài với mức 3, rồi 2 chữ số cho đến đầu  thập kỷ 90. ­ Cán cân thanh toán bị  mất cân đối nghiêm trọng, khi sản xuất trong nước chỉ  đáp  ứng 80­ 90% sử  dụng trong nước, chẳng những không có tích lũy trong nước mà còn không đủ  tiêu  dùng ­ tức là toàn bộ  quá trình tích lũy và một phần quỹ  tiêu dùng phải dựa vào viện trợ  và   vay nợ nước ngoài. ­ Thất nghiệp cao, tỷ lệ lên đến 12,7% tổng số lao động. Do quy mô sản xuất thấp và giảm,   dân số tăng nhanh, nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái chỉ có 86  USD, nằm trong vài ba chục nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Nhờ  đổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả  thần kỳ, dầu thô khai thác và xuất   khẩu,... Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế­xã hội, bước vào giai đoạn ổn định và phát   triển. Tăng trưởng kinh tế  của thời kỳ 1992­1997 đã cao gấp hơn hai lần của thời kỳ  1977­ 1991 (8,77%/năm so với 4,07%/năm). Lạm phát của thời kỳ  này cũng đã giảm mạnh so với thời kỳ  1986­1991 (bình quân năm là   9,5% so với 180,2%). Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 2 chữ số xuống còn một chữ số; đến năm   1996 còn 5,88%. Mất cân đối cán cân thương mại giảm dần và đến 1992, lần đầu tiên đã xuất   siêu nhẹ. GDP bình quân đầu người tính bằng USD năm 1997 đạt 361 USD, cao gấp gần 4,2  lần năm 1988. Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị  bao vây, cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997, lượng  vốn ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ 1991­1996 thu hút 27,8   tỷ USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao gấp 8,7 lần mức bình quân trong   3 năm trước đó, vốn thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối gửi về nước từ 1993 đến   1997 đạt gần 1,55 tỷ USD,...
  5.  Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ hai Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập thì xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ­  tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quốc, Indonesia,... Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ở mức cao trong  thời kỳ  1995­1997, thì đến năm 1998 chỉ  tăng 5,76%, năm 1999 chỉ  tăng 4,77%. Vốn đầu tư  trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt trên 6,9 tỷ  USD, năm 1996 đạt gần 10,2 tỷ  USD, thì năm 1997 còn gần 5,6 tỷ USD, năm 1998 còn gần 5,1 tỷ USD, năm 1999 còn gần 2,6   tỷ USD. Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, năm 1997 ở mức 3,6%, thì năm 1998 lên mức 9,2%. Giá  USD nếu năm 1995 giảm 0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng   9,6%,... Tốc độ  tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1996  ở  mức 33,2%, năm 1997 ở  mức 26,6%,  đến năm 1998 chỉ còn 1,9%..Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm 1997 chỉ  còn   tăng 4% và năm 1998 giảm 0,8%, năm 1999 chỉ tăng 2,1%. Do độ mở của kinh tế Việt Nam lúc này chưa cao (xuất khẩu so với GDP mới đạt 30%, đồng   tiền chưa chuyển đổi), do đã có dầu thô, gạo, xuất khẩu với khối lượng lớn, do có sự  chủ  động  ứng phó từ  trong nước, nên Việt Nam đã không bị  cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc  khủng hoảng này và dần dần đã vượt qua. Tăng trưởng kinh tế cao dần lên, bình quân thời kỳ  2000 ­ 2007 đã đạt 7,63%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt 843 USD, cao gấp gần 2,3 lần   năm 1999. Bình quân năm FDI nếu thời kỳ 1998 ­ 1999 vốn đăng ký chỉ có trên 3,8 tỷ USD thì   thời kỳ  2000 ­ 2008 đã đạt gần 12,9 tỷ  USD và thực hiện đạt 4 tỷ  USD; ODA cam kết đạt  gần 3,5 tỷ USD, giải ngân đạt 1,75 tỷ USD. Xuất khẩu tăng liên tục với tốc độ cao (năm 2008 cao gấp trên 5,4 lần năm 1999, bình quân 1  năm thời kỳ  2000 ­ 2008 lên đến 20,7%). So với GDP năm 2008 xuất khẩu đạt 70%; nhập  khẩu đạt 90%; cộng cả xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP lên tới 160%, thuộc loại cao thứ  3 ở Đông Nam Á và thứ 5 trên thế giới ­ chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá rộng.
  6. Dự trữ ngoại hối tăng khá: nếu cuối năm 2002 đạt chưa được 3,7 tỷ  USD, thì đến cuối năm   2007 đã đạt trên 21 tỷ USD. Lượng kiều hối bình quân năm thời kỳ 2000 ­ 2008 đạt tỷ USD.   Vị  thế  của Việt Nam đã chuyển sang mở  cửa hội nhập đầy đủ  với thế  giới, ký hiệp định  thương mại Việt­Mỹ, gia nhập WTO...  Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ ba Cuộc khủng hoảng thứ  ba đến từ  nước Mỹ, tiềm  ẩn từ  cuối năm 2007, bùng phát vào cuối  2008, bắt đầu từ  khủng hoảng nhà đất, lan sang hệ  thống tài chính, sang kinh tế  thực, sang   lĩnh vực lao động việc làm, lan sang các nước trên thế  giới. Cuộc khủng hoảng này xảy ra   trong điều kiện Việt Nam vừa mới gia nhập WTO từ đầu năm 2007. Tăng trưởng kinh tế  của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%.  Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ  71,7 tỷ  USD năm 2008 còn  21,5 tỷ  USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ  11,5 tỷ USD xuống 10 tỷ USD). Lượng khách   quốc tế  giảm từ  trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều   hối giảm từ 7,2 tỷ USD xuống còn gần 6,3 tỷ USD, vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm mạnh,... Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới   19,89% (tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ, thì năm   2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập siêu năm 2007 lên trên 14,2%, năm 2008 đã   lên đến trên 18 tỷ USD và năm 2009 cũng gần 12,9 tỷ USD. Đứng trước tình hình trên, Việt Nam đã linh hoạt chuyển đổi mục tiêu ưu tiên; áp dụng các  biện pháp phù hợp; có giải pháp xử  lý kịp thời các hiệu  ứng phụ; bảo đảm sự  đồng thuận,   phối hợp chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân; chọn nông   nghiệp, nông thôn làm trọng điểm; kết hợp giữa nội lực và ngoại lực; kết hợp sử dụng biện   pháp cơ bản và biện pháp tình thế; kết hợp sử dụng “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình”;   minh bạch thông tin, xử lý nghiêm tin đồn; làm tốt công tác thông tin, phân tích kinh tế và dự  báo. Nhờ vậy, Việt Nam đã không bị rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế  thế giới, đã đạt được những kết quả tích cực từ giữa năm 2009 đến nay.
  7. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế sau khi rơi xuống đáy (tăng 3,1%) trong quý 1/2009, từ quý II đã   thoát đáy vượt dốc đi lên để cả năm đạt 5,32%, quý 1 năm nay tăng trưởng kinh tế đã cao lên   một cách rõ ràng. Biểu hiện tổng quát nhất là tăng trưởng GDP đạt 5,83%, cao hơn nhiều so   với tốc độ  tăng 3,1% của năm trước. Tăng trưởng cao lên của GDP đạt được  ở  cả  3 nhóm   ngành: nhóm ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, có số điểm phần trăm  tăng nhiều nhất (từ 1,5% lên 5,65%); nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng tăng cao   hơn nhiều so với tốc độ  tăng của cùng kỳ  (3,45% so với 0,4%); nhóm ngành dịch vụ  có số  điểm phần trăm tăng ít hơn (6,64% so với 5,4%), nhưng lại có tốc độ  tăng cao hơn tốc độ  chung. Thứ hai, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân 3 tháng đó đạt 2,5 tỷ USD, trong đó tháng   3 đạt kỷ lục tháng (1,4 tỷ USD) báo hiệu cả năm sẽ tăng so với năm trước (10 tỷ USD), thậm   chí vượt kỷ lục (12 tỷ USD) của năm 2008. Nguồn vốn trong nước cùng với nguồn vốn này là  yếu tố vật chất trực tiếp quyết định xu hướng cao lên của tăng trưởng kinh tế. Thứ  ba, tiêu thụ  trong nước ­ biểu hiện chủ  yếu là tổng mức bán lẻ  hàng hóa và doanh thu  dịch vụ tiêu dùng ­ sau khi loại trừ yếu tố tăng giá đó tăng rất cao (tăng 14,5%, cao gấp hơn 2   lần tốc độ tăng 6,5% của cùng kỳ năm trước) và trở thành động lực, cứu cánh của tăng trưởng   kinh tế. Thứ  tư, lượng khách quốc tế  tăng khá, báo hiệu cả  năm sẽ  vượt qua kỷ  lục của năm 2008,   đưa đến một lượng ngoại tệ từ du lịch tăng lên, cùng với sự tăng lên của kiều hối, ODA, đầu  tư gián tiếp sẽ giảm sức ép tăng tỷ giá. Thứ năm, nếu bằng giờ này năm ngoái tình trạng mất và thiếu vịêc làm gia tăng đáng lo ngại,  thì năm nay nhiều khu công nghiệp, khu đô thị lớn đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng   lao động! Đây là yếu tố  quan trọng tác động về  hai mặt: một mặt đóng góp vào tăng trưởng  kinh tế do góp phần làm tăng sức mua có khả  năng thanh toán; mặt khác góp phần giảm bớt  khó khăn về đời sống của người lao động. Mặc dù còn những hạn chế, bất cập và cả  năm khó đạt mục tiêu về  nhập siêu, lạm phát,   nhưng cũng có thể nói đến Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và suy   thoái kinh tế thế giới.
  8. Mỗi lần vượt qua được khủng hoảng là mỗi lần Việt Nam chuyển được vị thế của mình. Sau  cuộc khủng hoảng thứ  nhất, Việt Nam đã chuyển từ  nhóm nước gồm vài ba chục nước có  thu nhập thấp nhất thế  giới (kém phát triển) sang nhóm nước đang phát triển (có thu nhập  thấp). Sau cuộc khủng hoảng thứ hai, Việt Nam đã chuyển từ  một nước mở rộng cửa trong  nước sang mở rộng cửa hội nhập với thế giới. Sau cuộc khủng hoảng thứ ba này, Việt Nam   đã chuyển sang nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp), hướng tới mục tiêu đến năm 2020   cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2