26
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tác động của chính sách tín dụng xanh tới hoạt động
của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Nghiên cứu
thực nghiệm bằng mô hình sai biệt kép DID
Ngày nhận: 26/05/2024 Ngày nhận bản sửa: 26/08/2024 Ngày duyệt đăng: 10/09/2024
Tóm tắt: Tín dụng xanh một trong những hoạt động quan trọng các ngân
hàng thương mại (NHTM) thể hiện trách nhiệm của mình đối với môi trường.
Tại Việt Nam, để thúc đẩy hoạt động tín dụng xanh, Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến tín dụng xanh. Dựa
Impacts of green credit policies on the operations of Vietnamese commercial banks: Empirical
study using the difference in differences model DID
Abstract: Green credit is one of the important activities that commercial banks show their responsibility to
the environment. In Vietnam, the Government and the State Bank of Vietnam have implemented numerous
regulations pertaining to green credit in order to encourage and support environmentally-friendly financial
activity. The article examines the effects of the Green Credit Policy on commercial banks' operations in
Vietnam using panel data from financial statements and annual reports of commercial banks from 2012
to 2022. Specifically, the study focuses on changes in profits, cost management, and bad debts. The
analysis is conducted using difference in differences (DID) model, with the sample divided into groups that
implemented the policy and groups that did not. The study's findings indicate the following impacts: (1)
there is no empirical evidence supporting the notion that the green credit policy increases the profitability
of commercial banks, (2) there is no empirical evidence suggesting that the green credit policy reduces
the cost-to-income ratio, (3) the implementation of the green credit policy does have a positive impact on
improving the bad debt ratio of banks. The research findings serve as the foundation for the authors to
propose several suggestions for commercial banks and the State Bank of Vietnam.
Keywords: Green credit policy, Sustainable development, Commercial banking, Difference in differences
model DID
Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2750
Nguyen, Minh Phuong1, Nguyen, Thi Lan Anh2, Thai, Thi Thuy Linh3, Pham, Hong Nhung4, Phan, Mai
Quyen5
Email: phuongnm@hvnh.edu.vn1, nguyenthilananh60924@gmail.com2, thuyylinhh1110@gmail.com3,
nhungpham020604@gmail.com4, Phanquyen9324@gmail.com5
Organization of all: Banking Academy of Vietnam
Nguyễn Minh Phương1, Nguyễn Thị Lan Anh2, Thái Thị Thùy Linh3,
Phạm Hồng Nhung4, Phan Mai Quyên5
Học viện Ngân hàng, Việt Nam
NGUYỄN MINH PHƯƠNG - NGUYỄN THỊ LAN ANH - THÁI TH THÙY LINH-
PHẠM HỒNG NHUNG - PHAN MAI QUYÊN
27
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
vào dữ liệu bảng của các NHTM tại Việt Nam mà nhóm tác giả thể tiếp cận
được trên báo cáo tài chính báo cáo thường niên giai đoạn từ năm 2012-
2022, bài viết nghiên cứu những thay đổi trong hoạt động của NHTM, cụ thể
là lợi nhuận, quản trị chi phí và nợ xấu dưới tác động của Chính sách tín dụng
xanh trên sở hình sai biệt kép (DID) với mẫu được chia thành nhóm thực
hiện nhóm chưa thực hiện chính sách. Những tác động dựa trên kết quả
của bài nghiên cứu đã chỉ ra: (1) chưa bằng chứng về tác động của chính
sách tín dụng xanh làm tăng lợi nhuận của các NHTM, (2) chưa tìm thấy bằng
chứng chính sách tín dụng xanh làm giảm tỷ lệ chi phí trên thu nhập, (3) việc
thực hiện chính sách tín dụng xanh có tác động cải thiện tỷ lệ nợ xấu của các
ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở để nhóm tác giả đưa ra một số
khuyến nghị đối với các NHTM và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách Tín dụng xanh, Phát triển bền vững, Ngân hàng thương
mại, Mô hình sai biệt kép DID
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu môi
trường ngày càng nghiêm trọng, tín dụng
xanh trở thành công cụ tài chính hiệu quả
nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi
trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền
vững thể hiện trách nhiệm môi trường
của các tổ chức tài chính. Trên thế giới,
chính sách tín dụng xanh đã mang lại nhiều
lợi ích cho các NHTM nói riêng nền kinh
tế nói chung. Nhận thức vai trò của tín
dụng xanh, tháng 3/2015, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Chỉ
thị số 03/CT-NHNN nhằm định hướng
thúc đẩy hệ thống ngân hàng thực hiện các
hoạt động tài chính bền vững, hỗ trợ các
dự án hoạt động kinh doanh thân thiện
với môi trường. Những nghiên cứu trước
đây chủ yếu tập trung vào thực trạng tín
dụng xanh chưa thực sự khai thác sâu
về chính sách tín dụng xanh và xem xét tác
động đa chiều của chính sách này tới từng
khía cạnh hoạt động của NHTM (Scholtens
và Dam, 2007; Choi và Pae, 2011; Wright,
2012; ; Wu Shen, 2013; Luo cộng
sự, 2021; Nguyễn Hồng Thu cộng sự,
2022; Nguyễn Thị Phương Liên, 2022;
Nguyễn Thị Ánh Ngọc, 2023;…). Trong
bài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
hình sai biệt kép DID - một phương
pháp đo lường chuyên dùng để đánh giá
hiệu quả chính sách dần được sử dụng
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực để tiến hành
nghiên cứu (Stuart cộng sự, 2014;
Fredriksson và Oliveira, 2019...). Theo Vụ
Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN, tính
đến 31/12/2023, nợ tín dụng xanh của
ngành ngân hàng tăng 24% so với cuối năm
2022, chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư
nợ toàn nền kinh tế. Đối với những ngân
hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp như BIDV thì dư
nợ tín dụng xanh cũng chỉ chiếm khoảng
4,5% trong tổng nợ tín dụng của ngân
hàng này (BIDV, 2024). Nhìn lại hơn 8
năm thực hiện Chỉ thị số 03/CT-NHNN
do NHNN Việt Nam ban hành vào tháng
3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng
xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội
trong hoạt động cấp tín dụng, thể thấy,
tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh tại Việt
Nam đã sự khởi sắc, tuy nhiên tổng
nợ xanh vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
dư nợ tín dụng.
Tác động của chính sách tín dụng xanh tới hoạt động của các ngân hàng thương mại
Việt Nam: Nghiên cứu thực nghiệm bằng mô hình sai biệt kép DID
28 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
Sử dụng bộ dữ liệu thực tế được cập nhật
từ các báo các thường niên báo cáo
tài chính hợp nhất sau kiểm toán của 14
NHTM niêm yết tại Việt Nam giai đoạn
từ năm 2012- 2022 với tổng số 154 quan
sát, chúng tôi kỳ vọng sẽ tìm thấy bằng
chứng về sự tác động của chính sách tín
dụng xanh đến một số chỉ tiêu chính trong
hoạt động của NHTM. Kết quả cho thấy,
chính sách tín dụng xanh đã làm giảm tỷ lệ
nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam. Do đó,
nghiên cứu của chúng tôi đã đóng góp cho
hệ thống cơ sở lý thuyết cũng như thực tiễn
khi làm hơn việc ứng dụng hình DID
trong phân tích tác động của chính sách;
cung cấp tài liệu tham khảo cho những
nghiên cứu trong tương lai; góp phần nâng
cao nhận thức về vai trò của chính sách tín
dụng xanh đề xuất một số khuyến nghị
với NHNN và NHTM.
Bên cạnh phần Tóm tắt Tài liệu tham
khảo, bài nghiên cứu được kết cấu thành
các phần như sau: 1. Giới thiệu; 2. Tổng
quan nghiên cứu; 3. Phương pháp nghiên
cứu; 4. Kết quả và thảo luận; 5. Kết luận
khuyến nghị.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. sở luận về chính sách tín dụng
xanh
Theo Wen cộng sự (2021), chính sách
tín dụng xanh bao gồm một loạt các chính
sách, thể chế nhằm thúc đẩy các hoạt động
giảm thiểu ô nhiễm môi trường và sử dụng
hiệu quả năng lượng thông qua can thiệp
tín dụng. Lv cộng sự (2023) cho rằng,
chính sách tín dụng xanh dựa vào chế thị
trường để giải quyết các vấn đề môi trường
một loại chương trình quản trị môi
trường mới phân bổ hợp lý nguồn tín dụng
thông qua các ràng buộc chính sách của
Chính phủ nhằm thúc đẩy chuyển đổi kinh
tế xanh xu hướng phát triển xanh trong
toàn hội. Tóm lại, chính sách tín dụng
xanh hệ thống các quy định, hướng dẫn
ban hành nhằm khuyến khích các NHTM
ưu tiên nguồn vốn cho các dự án, hoạt động
kinh doanh thân thiện với môi trường, góp
phần bảo vệ môi trường phát triển bền
vững, bao gồm các chỉ thị, quyết định, quy
định của NHNN các quan nhà nước
khác liên quan đến lĩnh vực tín dụng
xanh. Từ đó, bài nghiên cứu sẽ xem xét tác
động của chính sách tín dụng xanh từ phía
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến kết
quả hoạt động của các NHTM trong giai
đoạn nghiên cứu.
Trên sở kế thừa kết quả của các nghiên
cứu trước đây, nghiên cứu này sẽ áp dụng
một số chỉ tiêu tài chính sau để đánh giá tác
động của tín dụng xanh đến kết quả hoạt
động của các NHTM:
Lợi nhuận yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
tình hình hoạt động của ngân hàng, chỉ
số phản ánh rõ nhất hiệu quả hoạt động của
ngân hàng và là mục tiêu cuối cùng của các
NHTM (Abedifar cộng sự, 2018). Trong
các nghiên cứu, lợi nhuận thường được đo
lường bằng Logarit tự nhiên của lợi nhuận
sau thuế trên Báo cáo kết quả kinh doanh
(Xiaoyan và Yiyang, 2022). Khi hoạt động
của ngân hàng đạt được kết quả tốt đạt
được mục tiêu lợi nhuận sẽ đảm bảo vai trò
quan trọng của các tổ chức tín dụng trong
hệ thống tài chính trung gian, từ đó thúc
đẩy phát triển nền kinh tế.
Tỷ lệ chi phí trên thu nhập (CIR) đóng
vai trò quan trọng ảnh hưởng ngược
chiều đến hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Việc tăng cường quản lý chi phí hoạt
động sẽ cải thiện hiệu quả hoạt động, từ đó
gia tăng lợi nhuận cho các ngân hàng. Do
đó, CIR được xem tác động ngược
chiều đến hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng thương mại (Mathuva, 2009).
Tỷ lệ nợ xấu (NPLR) thường được coi
NGUYỄN MINH PHƯƠNG - NGUYỄN THỊ LAN ANH - THÁI THTHÙY LINH-
PHẠM HỒNG NHUNG - PHAN MAI QUYÊN
29
Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
một chỉ số quan trọng để đánh giá tình
trạng tài chính của ngân hàng. NPLR thể
hiện tỷ lệ các khoản nợ không thể thu hồi
so với tổng nợ (Ernst & Young, 2004).
Một tỷ lệ nợ xấu thấp thường dấu hiệu
cho thấy ngân hàng đang quản lý rủi ro tín
dụng hiệu quả và có khả năng ứng phó với
các rủi ro tài chính.
2.2. Tổng quan nghiên cứu
Tác động của chính sách tín dụng xanh
đến lợi nhuận các NHTM
Mặc nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan
hệ tích cực giữa chính sách tín dụng xanh
lợi nhuận ngân hàng, một số nghiên cứu lại
kết luận ngược lại. Chẳng hạn, Oikonomou
cộng sự, 2012; Choi Pae, 2011; Wu
Shen, 2013 cho rằng NHTM triển khai
tín dụng xanh để bảo vệ lợi ích cổ đông, thu
hút đầu tư, tăng tiền gửi, vốn cổ phần,
đồng thời mở rộng kinh doanh tăng lợi
nhuận. Luo cộng sự (2021) Zhou
cộng sự (2021) cũng nhận thấy chính sách
tín dụng xanh của Trung Quốc năm 2012
đã cải thiện khả năng cạnh tranh lợi
nhuận của NHTM. Tuy nhiên, Scholtens &
Dam (2007) và Wright (2012) cho rằng tín
dụng xanh thời gian dự án dài, đầu
lớn, rủi ro chính sách cao, làm tăng chi
phí giảm lợi nhuận. Ngân hàng thể hạ
lãi suất cho vay để thu hút doanh nghiệp,
giảm lợi nhuận ngắn hạn (Barnea Rubin,
2010). Song cộng sự (2019) cũng nhận
thấy tín dụng xanh làm giảm hiệu quả hoạt
động của ngân hàng ở một số khu vực. Do
đó, chính sách tín dụng xanh thể làm
giảm lợi nhuận của NHTM.
Tác động của chính sách tín dụng xanh
đến tỷ lệ chi phí trên thu nhập các NHTM
(CIR)
Các nghiên cứu hiện nay cũng chưa thống
nhất về tác động của chính sách tín dụng
xanh đến tỷ lệ CIR. Một số nghiên cứu cho
thấy ngân hàng xanh đang dần chuyển hướng
từ tập trung vào lợi ích cổ đông sang lợi
ích chung, giúp cải thiện danh tiếng hội
giảm chi phí giao dịch cũng như chi phí
thương hiệu, từ đó giảm tỷ lệ chi phí trên thu
nhập (Scholtens Kang, 2012). Tuy nhiên,
tín dụng xanh có thể làm tăng chi phí do yêu
cầu cao về kỹ năng đánh giá công nghệ môi
trường, và chi phí này đôi khi có thể vượt quá
lợi ích tài chính mang lại (Ueda, 2004; Ehlers
cộng sự, 2022). Nghiên cứu của Xiaoyan
Yiyang (2022) cũng chỉ ra rằng chính sách
tín dụng xanh không làm giảm tỷ lệ chi phí
trên thu nhập của các ngân hàng. Mặc tín
dụng xanh có tác động tích cực dài hạn ở các
nước đang phát triển, nhưng hiệu quả ngắn
hạn lại bị ảnh hưởng bởi chi phí leo thang.
Tỷ lệ chi phí trên thu nhập vẫn cao do chi phí
đầu ban đầu lớn quy tín dụng xanh
chưa đủ lớn.
Tác động của chính sách tín dụng xanh
đến tỷ lệ nợ xấu các NHTM
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chính sách tín
dụng xanh thể làm giảm tỷ lệ nợ xấu của
NHTM, nhưng cũng có ý kiến cho rằng nó
thể làm tăng tỷ lệ này. Cui cộng sự
(2018) nhận thấy việc tăng khoản vay xanh
giúp giảm tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng Trung
Quốc. Nguyệt cộng sự (2021) cho rằng
tín dụng xanh tăng quy tín dụng, thu
nhập, giảm nợ xấu, cải thiện hiệu quả
hoạt động của NHTM. Wu (2023) cũng
nhấn mạnh tác động tích cực của tín dụng
xanh trong việc giảm nợ xấu. Tuy nhiên,
Zhang và cộng sự (2022) chỉ ra rằng doanh
nghiệp gây ô nhiễm có thể làm tăng chi phí
nợ, việc chuyển đổi sang hình xanh
chi phí cao, dẫn đến khó khăn trong trả
nợ tăng nợ xấu. Ngoài ra, để tối đa hóa
lợi nhuận, NHTM có thể bỏ qua rủi ro môi
trường, tăng vay cho doanh nghiệp xếp
hạng tín dụng thấp, dẫn đến tăng nợ xấu.
Tác động của chính sách tín dụng xanh tới hoạt động của các ngân hàng thương mại
Việt Nam: Nghiên cứu thực nghiệm bằng mô hình sai biệt kép DID
30 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 271- Năm thứ 26 (12)- Tháng 11. 2024
Ứng dụng hình DID đánh giá tác
động của chính sách tín dụng xanh đến
hoạt động NHTM
hình DID vai trò quan trọng trong
việc đánh giá tác động của chính sách tín
dụng xanh đến hoạt động NHTM. Zhong
cộng sự (2016) đã sử dụng hình
DID để phân tích tác động của tín dụng
xanh đến hiệu quả hoạt động của NHTM
Trung Quốc. Kết quả cho thấy việc tăng
doanh thu, giảm chi phí, và tăng chi phí xử
phạt đối với các NHTM không thực hiện
chính sách thể thúc đẩy sự chủ động
của các ngân hàng trong việc thực hiện tín
dụng xanh. Hiệu quả ngắn hạn của chính
sách này có phần tiêu cực nhưng giảm dần
theo thời gian. Trong dài hạn, chính sách
tín dụng xanh giúp NHTM nâng cao uy tín,
tăng khả năng vay vốn của doanh nghiệp
tác động tích cực đến lợi nhuận bảo
vệ môi trường. Dựa trên dữ liệu của 62
NHTM Trung Quốc giai đoạn 2013-2020,
Xiaoyan Yiyang (2022) phân tích tác
động của chính sách tín dụng xanh đến lợi
nhuận NHTM bằng mô hình DID. Kết quả
cho thấy chính sách tín dụng xanh giúp
tăng thu nhập ngoài lãi, giảm tỷ lệ nợ xấu
tăng lợi nhuận cho NHTM, đặc biệt
những ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp.
Từ các nghiên cứu trên, chúng tôi đã nhận
thấy những khoảng trống nhất định. Thứ
nhất, theo hiểu biết của nhóm tác giả, bài
nghiên cứu của nhóm một trong những
bài nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng
chứng thực nghiệm về tác động đa chiều
của chính sách tín dụng xanh đến hoạt động
của các NHTM Việt Nam. Các nghiên cứu
trước đây tại Việt Nam liên quan đến chủ
đề này chủ yếu chỉ mang tính định tính, tập
trung vào thực trạng của tín dụng xanh
Việt Nam (Đỗ cộng sự, 2022; Nguyễn,
2022; Trần 2022; Nguyễn, 2023…)
chưa làm tác động đa chiều của chính
sách tín dụng xanh đến hoạt động của các
NHTM Việt Nam. Thứ hai, hầu hết các
nghiên cứu trước đây chủ yếu chỉ xem
xét đến một khía cạnh của chính sách tín
dụng xanh (Scholtens và Dam, 2007; Choi
Pae, 2011; Wright, 2012; Wu Shen,
2013; Luo cộng sự, 2021...) chưa
phân tích tác động đa chiều của chính sách
tín dụng xanh đến hoạt động của NHTM.
Bài nghiên cứu của nhóm tác giả sẽ đi sâu
vào phân tích tác động đa chiều của chính
sách tín dụng xanh đến từng khía cạnh hoạt
động cụ thể của NHTM Việt Nam, bao
gồm tác động về mặt tài chính, hiệu quả
hoạt động, rủi ro, được phản ánh thông qua
lợi nhuận, tỷ lệ chi phí trên thu nhập tỷ
lệ nợ xấu. Thứ ba, chúng tôi sử dụng
hình sai biệt kép DID- một phương pháp
đo lường chuyên dùng để đánh giá hiệu quả
chính sách dần được sử dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực để tiến hành nghiên
cứu (Stuart cộng sự, 2014; Fredriksson
Oliveira, 2019...). hình kinh tế lượng
DID thiết lập phù hợp hơn cho việc phân
tích chính sách so với phương pháp hồi quy
tổng quát truyền thống vẫn thường sử dụng
trong các bài nghiên cứu khác.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sử
dụng hình khác biệt trong khác biệt
DID (Difference in Differences) hay còn
gọi là hình sai biệt kép, một phương
pháp đo lường chuyên dùng để đánh giá
hiệu quả chính sách. Theo Fredriksson
Oliveira (2019), DID một trong những
phương pháp được sử dụng thường xuyên
nhất trong việc nghiên cứu đánh giá tác
động. hình DID so sánh những thay
đổi theo thời gian của nhóm không thực
hiện chính sách với những thay đổi theo
thời gian của nhóm thực hiện chính sách