BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐẶNG HẢI YẾN

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG

THỂ CHẾ – NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NƯỚC ASEAN

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hạ Thị Thiều Dao

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2023

1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế (Baum và cộng sự, 2021;

Davies và cộng sự, 2010); Sự ổn định ngân hàng đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế, vì vậy

các nghiên cứu trên thế giới rất quan tâm đến các nhân tố tác động đến ổn định ngân hàng

để tìm ra các giải pháp gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Các yếu tố ảnh hưởng

đến sự ổn định của ngân hàng bao gồm như quy mô tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, cạnh

tranh, đa dạng hóa thu nhập và hiệu quả quản lý (Ahamed & Mallick, 2017; Albaity và cộng

sự, 2019; Beck và cộng sự, 2013; Bermpei và cộng sự., 2018; Goetz, 2018); các yếu tố kinh

tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp… Tuy nhiên, các nghiên

cứu về ổn định ngân hàng ở các nước hiện nay chủ yếu tập trung vào khía cạnh nội tại ngân

hàng, các yếu tố vĩ mô mà ít quan tâm đến chất lượng thể chế, tài chính toàn diện và còn

nhiều tranh cãi về chiều hướng tác động. Thúc đẩy tài chính toàn diện sẽ thay đổi cấu trúc

của hệ thống tài chính và ảnh hưởng đến sự ổn định của ngân hàng (Ozili, 2020). Tài chính

toàn diện giúp các ngân hàng tăng tiết kiệm (Cull và cộng sự, 2012; Hannig & Jansen, 2010;

Hawkins, 2006), đa dạng hóa các khoản cho vay (Khan, 2011) và giảm xác suất vỡ nợ, giúp

duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, García (2016) lập luận rằng các ngân

hàng sẽ thúc đẩy tài chính toàn diện mà không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ bằng cách bỏ

qua các quy định, hạ thấp tiêu chuẩn cho vay và cho vay các dự án rủi ro, mạo hiểm để bù

đắp chi phí giao dịch cao, điều này sẽ làm giảm tính ổn định của ngân hàng. Bên cạnh đó,

chất lượng thể chế cũng được coi là một yếu tố giúp cải thiện sự ổn định của ngân hàng

(Bermpei và cộng sự, 2018; Dutta & Saha, 2019; Fang và cộng sự, 2014; Uddin và cộng sự,

2020). Hiệu quả này được giải thích là do chất lượng thể chế tốt phản ánh việc chính phủ

xây dựng và thực thi các chính sách phù hợp định hướng cho các hoạt động kinh tế dẫn đến

giảm tác động bất lợi từ các cú sốc tài chính và đảm bảo các hoạt động kinh tế diễn ra bình

thường và hiệu quả Fazio et al. (2018) và Klomp và De Haan (2014). Chất lượng thể chế

cũng làm giảm tác động tiêu cực của cạnh tranh đối với sự ổn định của ngân hàng hoặc tác

động bất lợi của thị trường hóa ngân hàng đối với sự ổn định của ngân hàng (Tandelilin &

Hanafi, 2021).

Có rất ít nghiên cứu về tài chính toàn diện, chất lượng thể chế và sự ổn định của ngân

hàng trong các tài liệu học thuật. Ahamed và Mallick (2019) và Saha và Dutta (2022) là hai

2

nghiên cứu khá toàn diện về vấn đề này. Với tập dữ liệu lớn gồm 2635 ngân hàng tại 86

quốc gia trong giai đoạn 2004 - 2012, Ahamed và Mallick (2019) đã chỉ ra tác động tích cực

của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của ngân hàng và nhấn mạnh rằng tác động này sẽ

được củng cố hơn nữa khi được thực hiện trong một môi trường có chất lượng thể chế tốt.

Đồng ý với Ahamed và Mallick (2019), Saha và Dutta (2022) cũng cho kết quả tương tự khi

nghiên cứu vấn đề này với bộ dữ liệu cấp quốc gia. Tuy nhiên, tính ổn định của ngân hàng

trong hai nghiên cứu của các tác giả này chỉ được đo lường một chiều. Trong nghiên cứu

này, để phản ánh tính ổn định của ngân hàng, luận án sử dụng nhiều phương pháp đo lường,

so sánh kết quả của các biện pháp khác nhau một cách chính xác và thấu đáo hơn.

ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) là một mô hình tăng trưởng kinh tế nhanh

chóng, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm hơn 5% (Scherpf, 2015). Trong những

năm gần đây, các nước ASEAN đã có sự phát triển kinh tế vượt bậc. Tuy nhiên, sự tăng

trưởng nhanh đó tiềm ẩn nhiều rủi ro do độ mở của ASEAN tương đối lớn, độ mở thương

mại hiện tại là 107,65%, độ mở tài chính là 0,16447%, cùng với sự ổn định ngân hàng tương

đối thấp và dễ biến động ở các nước ASEAN. Bên cạnh đó, kể từ cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2008-2009, tài chính toàn diện đã trở thành chính sách ưu tiên của các nước

ASEAN. Năm 2009, Đạo luật Ngân hàng Trung ương Malaysia quy định rằng chức năng

chính của BankNegara Malaysia (BNM) là phát triển và thúc đẩy tài chính toàn diện; năm

2012, Indonesia công bố chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện (Rahman, 2015); Năm

2011, Thái Lan cũng đưa ra kế hoạch quốc gia về tài chính toàn diện (Tambunlertchai,

2015).

Hơn nữa, ASEAN là một khu vực khá đa dạng với nền kinh tế phụ thuộc vào ngân hàng.

Khu vực này được dự báo sẽ trở thành khu vực thương mại lớn thứ năm trên toàn cầu và vai

trò của khu vực này trong hệ thống tài chính toàn cầu ngày càng lớn (Nguyễn, 2022).

Trong bối cảnh tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng vẫn là một câu

hỏi chưa có lời giải, một khu vực kinh tế có mức độ ổn định ngân hàng thấp và có khả năng

lây lan sang các nền kinh tế khác, việc chuyển hướng sang tập trung thúc đẩy tài chính toàn

diện đặt ra những câu hỏi cần được giải đáp: (1) Việc thúc đẩy tài chính toàn diện có làm

tăng sự ổn định của ngân hàng ở các nước đang phát triển không? (2) Hiệu ứng này có thay

đổi theo các chất lượng thể chế khác nhau không? (3) Và đối với từng khía cạnh, chất lượng

3

thể chế ảnh hưởng như thế nào đến tác động đó? Việc trả lời những câu hỏi này cũng đưa ra

những gợi ý cho việc điều chỉnh chính sách chưa phù hợp của ASEAN.

Nghiên cứu này đóng góp cho tài liệu theo nhiều cách. Nghiên cứu này bổ sung bằng

chứng thực nghiệm cho mối quan hệ gây tranh cãi giữa tác động của tài chính toàn diện đối

với sự ổn định của ngân hàng. Nghiên cứu của chúng tôi có nhiều điểm kế thừa hai nghiên

cứu nêu trên và có những điểm khác biệt sau: (1) bổ sung thêm hai khía cạnh trong xây

dựng chỉ số tài chính toàn diện; (2) đo lường sự ổn định của ngân hàng bằng nhiều thước đo

thay vì chỉ Zscore, vốn được coi là chỉ số không hoàn hảo vì có thể che lấp rủi ro của các

quốc gia (Wu và cộng sự, 2020); (3) đánh giá tác động của từng khía cạnh của chất lượng

thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của ngân hàng; (4) Kiểm

lại tính vững của kết quả bằng cách sử dụng phương pháp khác (gắn biến giả ở biến chất

lượng thể chế) (5) đã chọn ASEAN để kể một câu chuyện về tài chính toàn diện, ổn định

ngân hàng và chất lượng thể chế trong một khu vực có nền kinh tế phụ thuộc vào ngân hàng.

1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu tác động của tài chính toàn diện, của chất

lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, và đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với

tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN. Từ đó, luận án

đưa ra hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn diện, chất lượng thể chế nhằm làm gia

tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước trong khu vực ASEAN.

Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu:

- Đánh giá tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng tại các nước

ASEAN.

- Đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng tại các nước

ASEAN.

- Đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng tại các nước ASEAN.

- Hàm ý chính sách liên quan đến chất lượng thể chế, tài chính toàn diện nhằm góp

phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN.

Để trả lời các mục tiêu cụ thể, luận án đưa ra các câu hỏi nghiên cứu sau:

- Tài chính toàn diện tác động đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN như thế

nào?

4

- Chất lượng thể chế tác động như thế nào đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN?

- Chất lượng thể chế có ảnh hưởng như thế nào đến tác động của tài chính toàn diện

lên ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN?

- Những hàm ý chính sách nào liên quan đến chất lượng thể chế, tài chính toàn diện

được gợi ý nhằm góp phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước

ASEAN?

1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể

chế đến ổn định ngân hàng, ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Phạm vi nghiên cứu của luận án gồm 157 ngân hàng ở 8 nước

ASEAN, bao gồm: Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Lào,

Campuchia.

- Phạm vi thời gian: Luận án thực hiện nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2010

đến 2020.

- Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu đề tài với các giới hạn về nội dung như sau:

Thứ nhất, chỉ nghiên cứu tác động một chiều của tài chính toàn diện đến sự ổn định ngân

hàng của các nước ASEAN.

Thứ hai, chỉ nghiên cứu tác động một chiều của chất lượng thể chế đến sự ổn định ngân

hàng của các nước ASEAN.

Thứ ba, tài chính toàn diện được nghiên cứu trên góc độ các ngân hàng (tức là các tổ

chức tài chính cung cấp dịch vụ tài chính chính thức). Bởi vì theo Samar (2012) ngân hàng

toàn diện (banking inclusion) cũng được xem như tài chính toàn diện (financial inclusion),

mà thông qua các ngân hàng, các nhà hoạch định có thể điều chỉnh chính sách tài chính toàn

diện một cách thuận lợi hơn.

Thứ tư, về ổn định hệ thống ngân hàng, luận án chỉ nghiên cứu về ổn định của các ngân

hàng một cách riêng lẻ. Bởi hệ thống ngân hàng trở nên ổn định chỉ khi từng ngân hàng

trong hệ thống ổn định.

5

1.4. PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

1.4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận án kết hợp cả phương pháp định tính và định lượng để giải quyết vấn đề nghiên

cứu.

1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu luận án được thu thập từ những nguồn dữ liệu đáng tin cậy như: Cơ sở dữ liệu

của Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ Thế giới, và Focus Oris Bank.

1.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

- Đóng góp về mặt khoa học

Luận án bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đến

ổn định ngân hàng, và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động trên ở các nước

ASEAN, mà các nghiên cứu trước đây chưa chú trọng nhiều.

Các bằng chứng thực nghiệm được luận án kiểm chứng thông qua các chỉ số đo lường ổn

định ngân hàng đa dạng như chỉ số Z-score hiệu chỉnh, tỷ lệ nợ xấu.

- Đóng góp về mặt thực tiễn

Đóng góp thực tế của luận án đã cung cấp một luận cứ lý luận và thông điệp chính sách

dành cho cơ quan quản lý ngành tài chính ngân hàng nói riêng và chính phủ nói chung về

vai trò của thể chế đối với quá trình tăng cường tầm ảnh hưởng của tài chính toàn diện đối

với ổn định ngân hàng.

1.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN

Luận án có năm nội dung chính sau:

Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu

Chương 2: Tổng quan lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Chương 5: Kết luận – Hàm ý chính sách

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Chương 1 giới thiệu giới thiệu về lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu, câu hỏi, đối tượng,

phạm vi, phương pháp, dữ liệu và các đóng góp của nghiên cứu.

6

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

2.1.1. Khái niệm

Ổn định ngân hàng là việc ngân hàng hoạt động có hiệu quả, có khả năng ứng phó tốt đối

với những tác động bên trong và bên ngoài, trong hiện tại và cả tương lai, đặc biệt là các cú

sốc của nền kinh tế mà vẫn duy trì được khả năng thanh toán cho các khoản nợ đến hạn, duy

trì hoạt động một cách bình thường, tránh nguy cơ bị phá sản.

2.1.2. Đo lường

- Phương pháp phân tích đơn biến

- Phương pháp phân tích đa biến

- Phương pháp kết hợp các chỉ số

- Chỉ số khác

2.1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng

Các yếu tố ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng được chia thành 2 nhóm chính: nhóm nhân

tố bên trong và nhóm nhân tố bên ngoài. Trong đó nhân tố bên trong gồm một số nhân tố

chủ yếu sau: Quy mô ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu, cạnh tranh, đa dạng hóa thu nhập,

hiệu quả quản lý, dự phòng rủi ro tín dụng…; nhân tố bên ngoài gồm lạm phát, tăng trưởng

kinh tế…

2.1.4. Lý thuyết về ổn định ngân hàng

Dựa trên lý thuyết về bất ổn tài chính và ổn định tài chính, lý thuyết ổn định ngân hàng

được xem xét trên khía cạnh ổn định tài chính trong hoạt động ngân hàng với nỗ lực đưa

ngân hàng thoát khỏi tình trạng bất ổn tài chính.

Hầu hết các nghiên cứu về ổn định tài chính ngân hàng được tìm thấy đều đánh giá “bất

ổn tài chính” như là một cách tiếp cận để đánh giá “ổn định tài chính”. Từ đó, nghiên cứu

tập trung vào bất ổn tài chính là trạng thái ngược với ổn định. Các lý thuyết về bất ổn tài

chính được nghiên cứu và phát triển như: Lý thuyết bất ổn tài chính của trường phái Trọng

tiền, Lý thuyết bất ổn tài chính của trường phái Hậu Keynes, Lý thuyết về bất ổn tài chính

của Minsky, Lý thuyết về bất ổn tài chính của Koo…

Theo Keynes (1936) những biến động tức thời trong ngắn hạn biểu hiện bằng các hiện

tượng như lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng kinh tế là nguyên nhân gây ra những biến

động trong hệ thống tài chính. Do đó, trong thời gian ngắn để can thiệp vào nền kinh tế,

7

chính phủ các nước cần phối hợp hài hòa giữa hai công cụ tài khóa và tiền tệ. Ủng hộ tư

tưởng của Keynes, phát triển theo quan điểm Minsky, giai đoạn 2 là thời điểm dễ xảy ra rủi

ro vì các nhà đầu tư gia tăng đòn bẩy nợ thông qua hoạt động vay vốn từ các trung gian tài

chính. Khi đòn bẩy nợ vượt quá khả năng chịu đựng rủi ro, bong bóng tài chính sẽ vỡ, dẫn

đến khủng hoảng nợ. Các nhà đầu tư mất đi khả năng trả nợ làm tổn hại đến nguồn vốn của

nền kinh tế. Do đó, vai trò của trung gian tài chính ở giai đoạn này vô cùng quan trọng. Các

ngân hàng thương mại bắt đầu điều tiết lượng vốn cho vay, dựa trên nhận định và phân tích

cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Chính phủ cũng cần cấp tín dụng của quy định hạn mức

cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại bằng các công cụ tiền tệ thích hợp nhằm giảm

sức ép lên bong bóng tài chính trong tương lai nhằm duy trì được khả năng sinh lời cho các

nhà đầu tư, vừa đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính.

Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh và đa dạng của mình, các định chế tài chính, đặc

biệt là ngân hàng, luôn được xem là kênh cung cấp nguồn vốn dồi dào cho các nhà đầu tư

trong nền kinh tế. Trong giai đoạn 2 của “Khoảnh khắc Minsky”, khi muốn gia tăng đòn bẩy

nợ, các nhà đầu tư có xu hướng gia tăng các món vay ngân hàng nhiều hơn để tài trợ vốn

cho các cơ hội đầu tư. Tuy nhiên, khi nền kinh tế bất ổn, lãi suất kỳ vọng của các cơ hội đầu

tư không còn, các nhà đầu tư có xu hướng bán hàng loạt tài sản để trả nợ. Lúc này, giá cả

các tài sản tài chính cũng giảm sút do mức định giá của ngân hàng thương mại cũng giảm

trước biến động của nền kinh tế. Sự suy giảm đột ngột giá trị tài sản tài chính ảnh hưởng

nghiêm trọng đến tính ổn định và khả năng trả nợ của nhà đầu tư. Khi khủng hoảng tài chính

xảy ra (giai đoạn 3 “Khoảnh khắc Minsky”) kéo theo sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng do

khách hàng bị suy giảm khả năng trả nợ. Lúc này bong bóng tài chính vỡ kéo theo tình trạng

khó khăn cho các ngân hàng thương mại, thậm chí ngân hàng có nguy cơ phá sản vì không

thu hồi các khoản nợ cho vay đầu tư quá rủi ro. Bất ổn ngân hàng lan rộng và có thể làm

trầm trọng hơn bất ổn của nền kinh tế.

Các nhà kinh tế học hiện đại đã cung cấp nhiều bằng chứng thực nghiệm về bất ổn ngân

hàng. Ở đó, ngân hàng được xem là một bộ phận của thị trường tài chính, do đó luôn phải

chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất từ các biến động của hệ thống tài chính quốc gia

nói riêng và nền kinh tế nói chung, bởi theo Davis (2003) có ba loại bất ổn tài chính: sự thất

bại của thị trường, giá cả thị trường bất ổn và sự sụp đổ kéo theo thanh khoản thị trường. Do

đó, ổn định ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong vấn đề ổn định tài chính. Khi hoạt động

8

ngân hàng được khôi phục, kéo theo sự phục hồi của hệ thống tài chính, lúc đó dòng vốn

của nền kinh tế sẽ được khơi thông, hoạt động kinh doanh cũng sẽ dần đi vào ổn định.

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2.2.1. Khái niệm

Tài chính toàn diện được hiểu là tất cả các sáng kiến, biện pháp để cung cấp các dịch vụ

tài chính chính thức một cách thuận tiện, với chi phí hợp lý và phù hợp với nhu cầu của tất

cả người dân. Với khái niệm này, luận án tiếp cận tài chính toàn diện trên ba khía cạnh:

thâm nhập, khả dụng và sử dụng.

2.2.2. Đo lường Measure

- Phương pháp chỉ số đơn lẻ

- Phương pháp tổng hợp

+ Chỉ số tài chính toàn diện đa chiều bằng phương pháp bình quân giản đơn khoảng

cách Eculidian.

+ Chỉ số tài chính toàn diện đa chiều theo phương pháp phân tích thành phần cơ bản.

(PCA)

Từ việc xem xét ưu nhược điểm của các phương pháp, luận án quyết định sử dụng

phương pháp PCA để xác định chỉ số tài chính toàn diện dựa trên ba khía cạnh: thâm nhập,

khả dụng và sử dụng.

2.2.3. Lý thuyết về tài chính toàn diện

Thực tế, theo tìm hiểu của luận án, hiện nay chưa có một lý thuyết rõ ràng về tài chính

toàn diện, nhưng gần đây Ozili (2020) đưa ra một lý thuyết nhằm chỉ ra đối tượng được

hưởng lợi khi thực hiện tài chính toàn diện. Theo Ozili (2020) một quốc gia khi thực hiện tài

chính toàn diện nên nhắm mục đến các thành phần dễ bị tổn thương của xã hội như người có

thu nhập thấp, thanh niên và người cao tuổi…những người phải chịu nhiều khó khăn trong

cuộc sống. Bởi lẽ, thành phần này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các cuộc khủng hoảng tài

chính và suy thoái kinh tế, do đó, việc đưa những người này vào khu vực tài chính chính

thức là cần thiết. Do bộ phận này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các cuộc khủng hoảng tài

chính và suy thoái kinh tế nên theo lý thuyết này, rất dễ xác định nguyên nhân các thành

viên bị loại trừ tài chính như: thu nhập, giới tính, độ tuổi, etc. Ngoài ra theo Ozili (2020) cho

rằng khi thực hiện tài chính toàn diện sẽ cải thiện hoạt động của các hệ thống tài chính, các

9

thành phần trong hệ thống tài chính như ngân hàng thương mại sẽ được lợi. Đồng ý với

Ozili (2020), Bhandari (2018) cũng cho rằng những người có thu nhập thấp là những người

hưởng lợi từ tài chính toàn diện, trong khi những người khác nghĩ rằng phụ nữ hay hệ thống

tài chính, nền kinh tế là những người được hưởng lợi (Ghosh & Ghosh, 2014; Swamy, 2014;

Kim & ctg., 2018; Mehrotra & Yetman 2015).

Do chưa có một lý thuyết nào rõ ràng về tài chính toàn diện, nên luận án dựa vào quan

điểm của Ozili (2020) để lý giải việc khi thực hiện tài chính toàn diện rõ ràng làm thay đổi

cấu trúc khách hàng trong hệ thống tài chính, đặc biệt là một lượng lớn khách hàng là người

có thu nhập thấp. Việc thay đổi này có thể đem lại lợi ích/ hoặc gây hại đến hoạt động của

ngân hàng (Cohen & Nelson, 2011).

2.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỂ CHẾ

2.3.1. Khái niệm

Có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung thể chế là hệ thống các quy tắc do con

người lập ra và thực hiện nhằm điều chỉnh hành vi của mình. Điều này là điều cần thiết cho

sự phát triển bền vững, ổn định và công bằng.

Chất lượng thể chế là các giá trị truyền thống và thể chế mà qua đó thẩm quyền của một

nước được thi. Chất lượng thể chế phản ánh năng lực của Chính phủ trong việc xây dựng và

thực hiện chính sách, kiểm soát tham nhũng cũng như cách Chính phủ được lựa chọn và

giám sát (Kaufmann & ctg., 2011).

2.3.2. Đo lường

Có nhiều cách để đo lường chất lượng thể chế

- Chỉ số Thể chế Quản trị Toàn cầu (Worldwide Governance Indicator – WGI).

- Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index – GCI).

- Chỉ số tự do kinh tế (Index of Economic Freedom – IEF).

- Chỉ số thuận lợi kinh doanh (Ease of Doing Business Index – EBDI).

- Chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI).

- Chỉ số Liêm chính Toàn cầu (Global Financial Integrity Index – GFI)

2.3.3. Lý thuyết về thể chế

Luận án tập trung trình bày lý thuyết thể chế của trường phái kinh tế học thể chế mới bởi

nội dung thể chế của trường phái này phù hợp để giải thích vấn đề nghiên cứu của luận án.

10

Khởi điểm từ công trình của North (1990) và North (1993), “Kinh tế học thể chế mới”

được coi là một nhánh phát triển kinh tế học hiện đại, với mục tiêu tìm hiểu thể chế xã hội

bên trong các hoạt động kinh tế mà kinh tế học tân cổ điển đã xây dựng. Mặc dù kinh tế học

thể chế cũ phủ định các lý thuyết kinh tế học tân cổ điển, nhưng sự hình thành và phát triển

của kinh tế học thể chế mới dựa trên cơ sở mở rộng các lý thuyết này, với kỳ vọng giải đáp

cho những bài toàn được đặt đặt ra trong kinh tế học nói chung và trong các lý thuyết tăng

trưởng kinh tế, lý thuyết ổn định nói riêng. Dưới góc độ kinh tế học thể chế mới, thể chế

đóng vai trò hỗ trợ trật tự, thúc đẩy tìm kiếm thông tin, tiết kiệm chi phí. Trật tự là một mô

thức có tính hệ thống, phi ngẫu nhiên và vì thế dễ nắm bắt, dễ tiên đoán về các hành vi và

biến cố. Trong khuôn khổ trật tự, các chủ thể dễ dàng lập kế hoạch và dự đoán được kết quả,

yên tâm hoạt động và đầu tư vì ít rủi ro và không bị chiếm đoạt một cách tùy tiện.

North (1991) cho rằng, trong suốt chiều dài của lịch sử, thể chế do con người thiết lập

nhằm duy trì trật tự và giảm thiểu sự bất ổn trong các hoạt động kinh tế. Hiệu quả hoạt động

không chỉ phụ thuộc vào các điều kiện vật chất và công nghệ hiện có mà còn phụ thuộc vào

hiểu biết các thể chế (Urpelainen, 2011). Thể chế cung cấp thông tin về những hành vi thích

hợp, được khuyến khích trong những tình huống nhất định. Thông qua tìm kiếm thông tin,

thể chế góp phần quan trọng trong việc giảm chi phí. Chi phí giao dịch được xác định bởi

tính quý giá và chân thực của thông tin. North (1993) cho rằng chi phí giao dịch phản ánh

sự phức tạp của thể chế, các quy tắc vận hành kinh tế, điều tiết xã hội. Sự thiếu thông tin sẽ

tạo cơ hội cho những hành vi cơ hội và lũng đoạn. Để ngăn ngừa điều này, các thể chế ở các

quốc gia khác nhau cần phải phát triển một hệ thống thông tin pháp lý tin cậy và luôn luôn

cập nhật đối với các bên có liên quan, điều này sẽ giảm đi chi phí giao dịch.

Tuy nhiên, con người có xu hướng vị kỷ và do đó, có thể tạo ra những hệ lụy tai hại cho

sự phồn vinh vật chất, tự do và các giá trị của người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy

tắc có thể dẫn tới hiện tượng suy thoái kinh tế - xã hội. Các thể chế - và đặc biệt là hình phạt

gắn với chúng – cho phép con người đưa ra những cam kết đáng tin cậy. Sự hợp tác giữa

mọi người thường đòi hỏi một khuôn khổ thể chế nhằm ngăn ngừa chủ nghĩa cơ hội, củng

cố thói quen hợp tác vì lợi ích lẫn nhau.

2.4. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

- Một mặt, tài chính toàn diện tác động tích cực đến ổn định ngân hàng: Luận án dựa

trên lý thuyết bất cân xứng thông tin của Akerlof công bố vào năm 1970 (Akerlof, 1970) và

11

Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại của Harry Markowitz công bố vào năm 1959

((Markowitz, 1976) để giải thích tác động tích cực của tài chính toàn diện đến ổn định ngân

hàng.

- Mặt khác, tài chính toàn diện tác động tiêu cực đến ổn định ngân hàng.

2.5. TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

Thể chế với những quy tắc, luật lệ, ràng buộc được ban hành, sẽ điều tiết các hoạt động

của nền kinh tế, tác động đến nền kinh tế và ổn định của các tổ chức trong xã hội theo các

hướng khác nhau (Aron, 2000; Kaufmann & ctg., 1999). Ở nội dung này, luận án sử dụng lý

thuyết trò chơi của John Von Neumann xuất bản năm 1928, lý thuyết các bên liên quan của

Freeman năm 1984, kết hợp với lý thuyết bất cân xứng thông tin của của Akerlof công bố

vào năm 1970, cùng các nghiên cứu thực nghiệm trước đây làm cơ sở giải thích cho tác

động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng.

2.6. ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA TÀI

CHÍNH TOÀN DIỆN LÊN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

Thể chế là yếu tố cần thiết giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh

tranh để cải thiện hoạt động của mình. Do đó, trong nội dung phần này, luận án sử dụng lý

thuyết chi phí giao dịch do Williamson phát triển năm 1975, kết hợp các nghiên cứu thực

nghiệm trước đây làm cơ sở để lý giải ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của

tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

2.7. LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

2.7.1. Lược khảo các nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân

hàng

2.7.2. Lược khảo các nghiên cứu về tác động của chất lượng thể chế lên ổn định ngân

hàng

2.7.3. Lược khảo các nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng thể chế lên tác động của

tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng

2.7.4. Khoảng trống nghiên cứu

Qua lược khảo các nghiên cứu, luận án rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng vẫn

chưa thực sự được nghiên cứu đúng mức và đầy đủ ở các nước ASEAN, mặc dù nơi đây

trong thời gian qua đã có sự phát triển đáng kể, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu

12

trên thế giới. Mẫu nghiên cứu của các học giả trên thế giới tập trung nhiều vào các nền kinh

tế mới nổi, Châu Âu với đặc thù văn hóa – xã hội, kinh tế, chính trị không giống như các

nước Đông Nam Á. Ở ASEAN mức độ bao phủ tài chính của các nước giống nhau với

cơ cấu độ tuổi tương đồng, nền kinh tế dựa vào ngân hàng là chủ yếu, chứ không phải

dựa vào hệ thống tài chính. Do đó, các kết luận tìm thấy từ mẫu các nước trên có thể

không phù hợp để áp dụng tại ASEAN. Bên cạnh đó, quan điểm của các nhà kinh tế học lẫn

các chuyên gia tài chính thế giới về tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng

lại không thống nhất với nhau, trái chiều nhau. Do đó, sự mở rộng tài chính toàn diện trong

nền kinh tế ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực lên ổn định ngân hàng là vấn đề cần phải được

kiểm định ở lại các nước ASEAN để có câu trả lời xác đáng hơn. Điều này dẫn đến nhu cầu

cần đánh giá lại tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng trong bối cảnh hiện

tại, cũng chính là một trong các khoảng trống nghiên cứu của luận án.

Thứ hai, luận án bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm cho các nghiên cứu về lĩnh vực

chất lượng thể chế bằng cách tìm hiểu xem liệu chất lượng thể chế tốt có làm gia tăng mức

độ ổn định của ngân hàng hay không. Cùng với bằng chứng thực nghiệm về tác động của

chất lượng thể chế đến nền kinh tế của Uddin & ctg. (2020), kết quả của luận án đóng góp

bằng cách giải thích rằng chất lượng thể chế có tác động tích cực đến ổn định ngân hàng ở

các nước ASEAN.

Thứ ba, nghiên cứu bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng

thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Kết quả cho thấy chất

lượng thể chế có ảnh hưởng quan trọng trong việc điều chỉnh tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng theo hướng tích cực. Mặc dù, luận án có nhiều điểm tương đồng

với nghiên cứu của Ahamed & Mallick (2019) và (Saha & Dutta, 2022), nhưng trong nghiên

cứu này luận án có một số điểm khác, ví dụ như biến trong mô hình, phương pháp nghiên

cứu, cụ thể như sau:

- Về các biến trong mô hình: nghiên cứu này mở rộng thêm tài liệu của Ahamed &

Mallick (2019) và ((Saha & Dutta, 2022) ở biến tài chính toàn diện bằng cách bổ

sung thêm hai khía cạnh: tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP và tỷ lệ tiền gửi cá nhân

trên GDP. Việc bổ sung này giúp phản ánh đúng và đầy đủ hơn về tài chính toàn

13

diện. Đối với biến ổn định ngân hàng, ngoài biến Z-score được sử dụng thường

xuyên, luận án còn sử dụng thêm hai thước đo khác là Z-score hiệu chỉnh và NPL.

- Về phương pháp nghiên cứu: để kiểm tra tính vững của kết quả nghiên cứu, luận án

bổ sung thêm một phương pháp khác là gắn giá trị bằng 1 với quốc gia có chất lượng

thể chế trên mức trung bình và giá trị bằng 0 đối với quốc gia có chất lượng thể chế

dưới mức trung bình khi xây dựng biến tương tác giữa tài chính toàn diện và chất

lượng thể chế. Hơn nữa, luận án có bước phát triển mới so với Ahamed & Mallick

(2019) và (Saha & Dutta, 2022) là ngoài việc đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể

chế dựa trên chỉ số tổng hợp, luận án còn xem xét nó trên các khía cạnh riêng lẻ. Việc

xem xét này cơ sở để luận án hàm ý các chính sách cụ thể và chính xác hơn.

Cuối cùng, qua lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm, luận án nhận thấy các nghiên

cứu về tài chính toàn diện, chất lượng thể chế, và ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN

còn tương đối hạn chế, trong khi đó các nước ASEAN có tầm ảnh hưởng quan trọng đến các

nước trên thế giới.

2.8. KHUNG PHÂN TÍCH NGHIÊN CỨU

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Trong khuôn khổ chương 2, luận án lần lượt trình bày các lý thuyết về ổn định ngân

hàng, tài chính toàn diện, chất lượng thể chế và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác

động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng. Luận án cũng tổng quan các nghiên

cứu thực nghiệm liên quan đến các vấn đề nêu trên để tìm ra những khoảng trống mà luận

án có thể lấp đầy.

14

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

CHAPTER 3: RESEARCH METHODS 3.1. GIẢ THUYẾT HYPOTHESIS

Luận án đưa ra 3 giả thuyết:

- Giả thuyết 1: Tài chính toàn diện gia tăng mức độ ổn định ngân hàng tại các nước

ASEAN.

- Giả thuyết 2: Chất lượng thể chế có tác động làm cho mức độ ổn định của các ngân

hàng ASEAN tăng lên.

- Giả thuyết 3: Chất lượng thể chế cải thiện tác động của tài chính toàn diện đến ổn

định hệ thống ngân hàng tại các nước ASEAN.

3.2. MÔ HÌNH, CÁC BIẾN VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3.2.1. Mô hình nghiên cứu

Với các mục tiêu đặt ra, luận án thực hiện ước lượng lần lượt 2 mô hình sau, cụ thể:

Mô hình 1: Đánh giá tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng.

Phù hợp với các nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng sự ổn định của ngân

hàng như Keeley (1990), Boyd & ctg. (2006), Jiménez & ctg. (2013), và dựa trên nghiên

cứu đề xuất của Ahamed & Mallick (2019) luận án thực hiện ước tính mô hình hồi quy sau

đây để xem xét ảnh hưởng của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định của

ngân hàng (3.1)

𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡 = 𝛼1𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡−1+ 𝜃1𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 + 𝛽1𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 + 𝛾1 ∑ 𝐵𝑖𝑗𝑡 + 𝛿1 ∑ 𝑀𝑗𝑡 + 𝜀𝑖𝑡(3. 1)

Trong đó, i, j, t, lần lượt là chỉ mục về ngân hàng, quốc gia, và thời gian.

- 𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡 là biến phụ thuộc (sự ổn định của ngân hàng) cho ngân hàng i ở nước j tại thời

điểm t.

- 𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡−1 là biến trễ của biến phụ thuộc.

- 𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 là biến độc lập thể hiện tài chính toàn diện của nước j tại thời điểm t.

- 𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 là biến độc lập thể hiện chất lượng thể chế của nước j tại thời điểm t.

- ∑ 𝐵𝑖𝑗𝑡 bao gồm các biến kiểm soát cụ thể của ngân hàng i của nước j trong thời gian

t, gồm: quy mô tổng tài sản (SIZE), quy mô vốn vay (LTA), quy mô vốn chủ sở hữu

15

(ETA), dự phòng rủi ro cho vay (LLPL) đa dạng hóa thu nhập (DIV), chất lượng

quản lý (MAQ) và sức mạnh thị trường (LERN).

- ∑ 𝑀𝑗𝑡 bao gồm các biến kiểm soát về kinh tế vĩ mô cấp nước j trong thời gian t, gồm:

biến lạm phát (INF), và tăng trưởng kinh tế (GDP).

- 𝛼, β, γ, và, δ là các tham số ước tính của mô hình, và 𝜀𝑖𝑡 là thuật ngữ sai số còn lại

Mô hình 2: Đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng tại các nước ASEAN

Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng còn phụ thuộc vào chất lượng

thế chế của mỗi nước. Trong phần này, để đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến

tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng (câu hỏi thứ 3), Luận án sử dụng

cách tiếp cận tương tác của Herrera-Echeverri & ctg. (2014) bằng cách đưa thêm biến tương

tác giữa tài chính toàn diện và chất lượng thể chế của mỗi nước vào mô hình thứ 3.1, lúc này

mô hình thứ 3.1 được viết lại như sau:

𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡 = 𝛼1𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡−1+ 𝜃1𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 + 𝛽1𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 + 𝛿1𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 ∗ 𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 + 𝛾1 ∑ 𝐵𝑖𝑗𝑡 + 𝛿1 ∑ 𝑀𝑗𝑡

+ 𝜀𝑖𝑡(3. 2)

Trong đó:

𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 ∗ 𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 là biến tương tác giữa chất lượng thể chế và tài chính toàn diện.

3.2.2. Các biến

- Ổn định ngân hàng

Luận án sử dụng chỉ số Z-score để đo lường mức độ ổn định ngân hàng. Chỉ số này được

sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu của (Čihák & Hesse, 2010; Čihák & ctg., 2016; Delis,

𝑅𝑂𝐴𝑖𝑡+

𝐸𝑖𝑡 𝑇𝐴𝑖𝑡

2012; Goetz, 2018; Jiménez & ctg., 2013). Chỉ số được tính theo công thức 3.3:

𝜎𝑅𝑂𝐴𝑖𝑡

(3.3) 𝑍 − 𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒𝑖𝑡 =

Trong đó, ROA là tỷ suất sinh lợi trên tài sản bình quân của ngân hàng tại thời điểm i,

𝐸𝑖𝑡/𝑇𝐴𝑖𝑡 là tỷ lệ tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t. Cuối

cùng, biến động thu nhập phản ánh chiến lược chấp nhận rủi ro của ngân hàng được đo

lường bằng độ lệch chuẩn của ROA trong một thời kỳ. Z-Score càng cao được hiểu là rủi ro

giảm, ngân hàng càng ổn định (Beck & ctg., 2013; Louhichi & ctg., 2020). Hơn nữa, chỉ số

16

này có độ lệch khá cao, do vậy theo gợi ý của (Beck & ctg., 2013), (Houston & ctg., 2010),

(Laeven & Levine, 2009) luận án sử dụng logarit tự nhiên của chỉ số Z-Score.

- Tài chính toàn diện

Luận án sử dụng phương pháp PCA để xây dựng một chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp

từ 3 khía cạnh (gồm 6 chỉ số phụ), cụ thể:

+ Khía cạnh thâm nhập của ngân hàng (𝑌𝑝) được xác định bằng các chỉ số: Tỷ lệ số chi

nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành (BBPoP) và tỷ lệ số ATM trên

100.000 người trưởng thành (ATMPoP ).

+ Khía cạnh khả dụng (𝑌𝑎) được đo lường bằng tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng trên số

1.000 km2 (BBKM) và tỷ lệ số ATM trên 1.000 km2 (ATMKM).

+ Khía cạnh sử dụng (𝑌𝑢) được xác định bằng tỷ lệ tiền gửi trên GDP (ODC) và tỷ lệ

tín dụng tư nhân trên GDP (OLC).

Các chỉ số này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trước đây (Ahamed & Mallick,

2019; Amidžic & ctg., 2014; Gupte & ctg., 2012; Lenka & ctg., 2016; Sarma, 2016).

Chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp được xác định theo công thức:

IFI = 0,499*BBKM + 0,502*ATMKM - 0,019*BBPoP + 0,029*ATMPoP +

0,497*ODC + 0,498*OLC

- Chất lượng thể chế Instituitonal quality

Tương tự chỉ số tài chính toàn diện, luận án cũng sử dụng phương pháp PCA để xây

dựng chỉ số chất lượng thể chế tổng hợp từ 6 chỉ số phụ gồm: Kiểm soát tham nhũng (CC),

hiệu quả chính phủ (GE), ổn định chính trị (PS), chất lượng quy định (RQ), quy tắc luật

pháp (RL), tiếng nói và trách nhiệm giải trình (VA). Chỉ số chất lượng thể chế tổng hợp

được xác định theo công thức:

INS = 0,464*CC + 0,462*GE + 0,284*PS + 0,460*RQ + 0,461*RL + 0,245*VA

- Sức mạnh thị trường (cạnh tranh)

Theo Berger & ctg. (2017) chỉ số Lerner là thước đo sức mạnh thị trường duy nhất được

tính ở cấp ngân hàng. Chỉ số Lerner được hiểu là nghịch đảo của cạnh tranh. Chỉ số này

càng cao thì sức mạnh định giá càng lớn, ngụ ý là các điều kiện thị trường kém cạnh tranh

hơn. Chỉ số này được tính theo công thức sau:

Lernerit = (Pit – MCit)/Pit (3.4)

17

Trong đó:

+ Pit là giá của tổng tài sản tính theo tỷ lệ giữa tổng doanh thu trên tổng tài sản của

ngân hàng i tại thời điểm t.

+ MCit là chi phí biên của việc sản xuất thêm một đơn vị sản lượng.

3.3.3. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu của luận án là các dữ liệu ở dạng thứ cấp được tổng hợp từ các

nguồn dữ liệu đáng tin cây. Cụ thể, luận án thu nhập dữ liệu của 157 ngân hàng ở 8 nước từ

nguồn dữ liệu Focus Oris Bank. Mẫu cuối cùng chứa 1727 quan sát trong giai đoạn từ năm

2010 đến 2020. Tiếp đến, các chỉ số được sử dụng để xác định chỉ số tài chính toàn diện

tổng hợp được lấy từ nguồn khảo sát dữ liệu tài chính (Financial Access Survey – FAS) của

IMF (International Monetary Fund). Chỉ số về chất lượng thể chế (nhà nước pháp quyền,

hiệu quả của chính phủ, ổn định chính trị, kiểm soát tham nhũng và chất lượng quy định)

được thu thập từ bộ chỉ số quản trị công toàn cầu (Worldwide Governance Indicators –

WGI) của Ngân hàng Thế giới (Worldbank). Cuối cùng, các biến số liên quan đến đặc điểm

kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, được thu thập từ nguồn dữ liệu của

IMF.

3.4. Phương pháp ước lượng Estimation method

Luận án sử dụng phương pháp SGMM (System GMM) hai bước của (Arellano & Bover,

1995), (Blundell & Bond, 1998) để có những ước tính hoàn hảo.

Ngoài ra, luận án thực hiện các kiểm định: đa cộng tuyến, tự tương quan và phương sai

thay đổi.

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Chương 3 trình bày các giả thuyết và mô hình nghiên cứu, giải thích cách đo lường các

biến. Ngoài ra, chương trình cũng trình bày nguồn dữ liệu, phương pháp ước lượng và các

kiểm định cần thiết cho mô hình.

18

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG, TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ

CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ CỦA CÁC NƯỚC ASEAN

4.1.1. Mức độ ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN

Phần phân tích này cho thấy, mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước có sự

khác biệt nhau, và có sự biến động qua các năm ở mỗi nước. Tuy nhiên, xu hướng chung,

nhất là những năm gần đây, hệ thống ngân hàng các nước có sự cải thiện về ổn định, với chỉ

số Z-Score được nâng lên, tỷ lệ nợ xấu được giảm xuống (ngoại trừ năm 2020 chịu tác động

lớn từ dịch Covid-19, hầu hết mức ổn định của các ngân hàng đều giảm).

4.1.2. Mức độ tài chính toàn diện ở các nước ASEAN Financial inclusion in ASEAN

Countries

Mỗi quốc gia ASEAN có chính sách thúc đẩy tài chính toàn diện khác nhau, phù hợp với

bối cảnh của quốc gia đó. Do vậy mức độ tài chính toàn diện của các quốc gia này cũng

không đồng nhất với nhau. Những nước có mức độ tài chính toàn diện cao gồm Singapore,

Malaysia…những nước có chỉ số tài chính toàn diện thấp là Campuchia và Lào. Nhưng nhìn

chung các nước đều nỗ lực để phát triển tài chính toàn diện do đó chỉ số tài chính toàn diện

đều có sự cải thiện qua các năm.

4.1.3. Mức độ chất lượng thể chế ở các nước ASEAN

Xét chung cho cả 8 nước ASEAN trong giai đoạn 2010 – 2020, các khía cạnh của chất

lượng thể chế đều thấp, trong đó nhóm chỉ số yếu kém nhất là tiếng nói và trách nhiệm giải

trình, kiểm soát tham nhũng và tuân thủ pháp luật; chỉ số ở mức trung bình cao nhất lần lượt

là hiệu quả chính phủ và chất lượng quy định. Trong các nước ASEAN, Singapore là nước

có chất lượng thể chế tốt nhất.

4.2. TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ VÀ ỔN ĐỊNH NGÂN

HÀNG

4.2.1. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

Với cách tiếp cận số liệu bảng, trong đó gộp số liệu chéo của 157 ngân hàng và số liệu

chuỗi thời gian qua 11 năm, nghiên cứu này có 1727 quan sát, đảm bảo đủ cho các phân tích

kinh tế lượng.

19

4.2.2. Kiểm định tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định

ngân hàng

Các kiểm định về tự tương quan, đa cộng tuyến đều ủng hộ việc sử dụng các biến trong

mô hình để đưa vào phân tích.

Sau khi kiểm tra đa cộng tuyến, luận án thực hiện hồi quy mô hình 3.1 bằng phương

pháp SGMM để đánh giá tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế lên ổn

định ngân hàng. Kết quả bảng 4.16 cho thấy:

Thứ nhất, tài chính toàn diện có tác động làm giảm Z-Score, Z-Score hiệu chỉnh và tăng

đối với NPL ở mức độ tin cậy 99% với hệ số hồi quy lần lượt -1,288; -0,330; 0,206. Điều

này có nghĩa, thực hiện tài chính toàn diện sẽ tác động làm tăng nợ xấu, từ đó làm giảm mức

độ ổn định của ngân hàng.

Thứ hai, chất lượng thể chế (INS) có ảnh hưởng đến Z-Score, Z-Score hiệu chỉnh và

NPL với hệ số hồi quy lần lượt là 0,617; 0,307; và -0,166, có nghĩa INS tác động làm giảm

nợ xấu, gia tăng mức độ ổn định ngân hàng.

Bảng 4.16. Tác động của tài chính toàn diện, chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng

Z-Score_n

NPL

Z-Score

LZ-Score

0,357***

LZ-Score_n

0,326***

LNPL

1,497***

0,617***

0,307***

INS

-0,166***

-1,288***

-0,330***

IFI

0,206***

LTA

1,590***

0,523***

-0,150***

SIZE

0,334***

0,052**

0,024*

LER

0,489***

0,651***

0,198***

LLPL

0,001

-0,007***

0,020***

MQA

0,534***

0,290***

-0,085*

ETA

1,664***

0,647***

-0,033

DIV

0,028

-0,038***

-0,011**

INF

0,051***

0,016***

-0,015***

GDP

-0,084***

-0,023***

-0,013***

_cons

-3,059***

-0,557***

0,203***

20

Số lượng nhóm

157

157

157

Số lượng các

66

57

77

biến công cụ

AR (2)

0,113

0,276

0,318

Sargan

0,491

0,347

1,000

Hasen

0,577

0,895

0,432

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm Stata 16

Ngoài ra, các kiểm định Hansen và AR2 có hệ số p-value đều lớn hơn 0,05, thể hiện các

biến công cụ trong mô hình thỏa tính over-identifying và phần dư của mô hình không tồn tại

hiện tượng tự tương quan bậc 2, thỏa điều kiện đặt ra, nên các kết quả tìm thấy được trong

mô hình là vững và hoàn toàn có thể dùng để phân tích.

4.2.3. Kiểm định ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng

Các kiểm định về tự tương quan, đa cộng tuyến đều ủng hộ việc sử dụng các biến trong

mô hình để đưa vào phân tích.

Sau khi kiểm tra đa cộng tuyến, luận án thực hiện hồi quy mô hình 3.2 bằng phương

pháp SGMM để đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế lên tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng. kết quả thể hiện ở bảng 4.2. Bảng 4.19 cho thấy, tương tác giữa

IFI và INS có ý nghĩa thống kê với cả 3 biến phụ thuộc ở mức độ tin cậy 99% với hệ số hồi

quy lần lượt là 0,567; 0,089 và - 0,057. Điều này có nghĩa rằng IFI*INS tác động thuận

chiều đến Z-Score, Z-Score_n và ngược chiều đến NPL.

Bảng 4.19. Ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng

Z-Score

Z-Score_n

NPL

LZ-Score

0,309***

LZ-Score_n

0,202***

LNPL

0,473***

IFI

-1,052***

- 0,187***

0,084**

INS

0,401*

0,107**

-0,064*

21

IFI*INS

0,567***

0,089*

- 0,057**

LTA

2,836***

0,397***

- 0,046

SIZE

0,300**

0,161***

-0,005**

LER

-0,537***

-0,091**

0,050*

LLPL

-1,050

0,207

0,061***

MQA

-0,181

0,513**

-0,030

ETA

3,106***

0,457***

- 0,045***

DIV

- 0,166***

- 0,071***

0,542***

INF

-0,055

- 0,015

0,048**

GDP

0,061***

0,013***

- 0,010***

_cons

-3,591***

-1,005***

-0,290***

Số lượng nhóm

157

157

157

Số biến công cụ

39

37

94

AR (2)

0,213

0,100

0,318

Sargan

0,523

0,332

1,000

Hansen

0,612

0,409

1,000

Chú ý: ***, **, và * đại diện cho ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

Các kiểm định Hansen ở hai mô hình có hệ số p-value và kiểm định tự tương quan bậc

hai (AR2) cho kết quả p-value đều lớn hơn 0,05. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng

bằng SGMM đều thỏa điều kiện nên các kết quả tìm thấy được trong mô hình này cũng có

tính vững và hoàn toàn có thể phân tích được.

Để kiểm tra tính vững của kết quả, luận án sử dụng thêm một phương pháp khác. Bằng

cách thay giá trị liên tục của biến chất lượng thể chế trong biến tương tác giữa tài chính toàn

diện và chất lượng thể chế bằng biến dummy vào mô hình 3.2. Lúc này, các quốc gia có

chất lượng thể chế tốt (lớn hơn mức trung bình) thì chất lượng thể chế nhận giá trị 1, ngược

lại nhận giá trị 0. Kết quả được trình bày ở bảng 4.20.

Bảng 4.20. Kiểm định tính vững mô hình

Z-Score

Z-Score_n

NPL

LZ-Score

0,366***

LZ-Score_n

0,381***

22

LNPL

0,712***

IFI

- 4,286**

- 2,058***

0,459***

INS

0,471***

0,258***

-0,036*

IFI*INS

4,271**

2,076***

- 0,568***

Number of

157

157

157

groups

Number of

67

30

82

instrumental

variables

0.131

0,074

0,319

AR (2)

0,449

0,145

1,000

Sargan

0,328

0,298

0,530

Hasen

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

Các kiểm định Hansen ở hai mô hình có hệ số p-value và kiểm định tự tương quan bậc

hai (AR2) cho kết quả p-value đều lớn hơn 0,05. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng

bằng SGMM đều thỏa điều kiện nên các kết quả tìm thấy được trong mô hình này cũng có

tính vững và hoàn toàn có thể phân tích được.

Bảng 4.16, 4.19, 4.20 cho thấy dấu của các biến chính: tài chính toàn diện, chất lượng

thể chế và tương tác giữa chất lượng thể chế và tài chính toàn diện vẫn không thay đổi khi

luận án sử dụng các phương pháp khác nhau. Điều này có thể khẳng định, kết quả của luận

án đưa ra đáng tin cậy, và có thể sử dụng làm cơ sở đưa ra các giải pháp ở chương 5.

Ngoài ra, để đánh giá chính xác về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của

tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, luận án thay biến chất lượng thể chế tổng hợp

bằng các khía cạnh riêng lẻ của nó gồm: kiểm soát tham nhũng (CC), ổn định chính trị (PS),

chất lượng quy định (RL), chất lượng quy định (RQ), hiệu quả chính phủ (GE) và tiếng nói

và trách nhiệm giải trình (VA) vào mô hình 3.2. Bảng 4.21 cho thấy ngoại trừ khía cạnh

tiếng nói và trách nhiệm giải trình, các khía cạnh còn lại đều có ảnh hưởng đến tác động của

tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, nhưng kết quả không thống nhất. Kết quả này là

cơ sở để luận án đưa ra các hàm ý chính sách trong chương 5.

23

Bảng 4.21. Tương tác giữa các khía cạnh của chất lượng thể chế và tài chính toàn diện

Biến

Z-Score

Z-Score_n

NPL

CCIFI

0,688***

0,388***

-0,217*

PSIFI

2,232*

1,028***

-0,834***

RLIFI

2,122**

0,598**

-0,182***

RQIFI

- 5,313***

-5,395**

1,078**

GEIFI

0,647**

0,138**

-0,087***

VAIFI

1,311

-1,592

-0,089

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

4.2.4. Thảo luận kết quả nghiên cứu

Kết quả chính của luận án được trình bày tổng quát ở bảng 4.22, cho thấy:

Thứ nhất, tài chính toàn diện với biến đại diện là chỉ số IFI tổng hợp, tồn tại mối mối

quan hệ nghịch chiều với sự ổn định ngân hàng, biến đại diện là Z-Score và Z-Score_n với

độ tin cậy cao 99%. Hệ số hồi quy của biến IFI lần lượt là -1,052 và -0,187 cho thấy khi các

yếu tố khác không đổi, IFI của quốc gia tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score và Z-Score_n

giảm (tăng) 1,052 và 0,187 đơn vị. Với biến phụ thuộc là NPL, IFI có tác động thuận chiều,

tức là càng gia tăng mức độ tài chính toàn diện thì nợ xấu của ngân hàng càng tăng; với hệ

số hồi quy là 0,084 cho biết IFI tăng/giảm 0,01 đơn vị thì tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng/giảm 0,084

đơn vị.

Bảng 4.22. Tổng hợp kết quả chính của luận án.

Ổn định hệ thống ngân hàng Biến

Z-Score Z-Score_n NPL

-1,052***

- 0,187***

0,084**

IFI

0,401*

0,107**

-0,064*

INS

0,567***

0,089*

- 0,057**

IFI*INS

24

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Kết quả nghiên cứu không đúng với kỳ vọng luận án và lý thuyết danh mục đầu tư hiện

đại. Theo lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, khi thực hiện tài chính toàn diện có thể giúp

ngân hàng tiếp cận các nguồn bán lẻ từ đó đa dạng hóa danh mục tiền gửi và cho vay, từ đó

tăng tính ổn định cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu mở rộng quá mức mà không có biện pháp

kiểm soát tốt thì gây hại đến ổn định ngân hàng. Do đó, kết quả của luận án mặc dù không

đúng như kỳ vọng, nhưng vẫn có thể giải thích như sau: Việc tăng cường khả năng tiếp cận

tài chính cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dẫn đến ngân hàng thường xuyên phải nới

lỏng các tiêu chuẩn trong cho vay, trong khi hoạt động tín dụng cần được thắt chặt các quy

định, do đó các khoản nợ xấu tăng lên cùng với sự gia tăng tín dụng, điều này làm giảm mức

độ ổn định của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu của (Amatus & Alireza, 2015; Kouki & ctg.,

2020; Sahay & ctg., 2015) cũng đồng quan điểm trên. Hơn nữa, biến tài chính toàn diện

trong luận án được xác định dựa trên 3 khía cạnh, trong đó có khía cạnh tỷ lệ dự nợ và tỷ lệ

tiền gửi, 2 khía cạnh này được tìm thấy có ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định ngân hàng lần

lượt trong các nghiên cứu của Feghali & ctg. (2021) và Amatus & Alireza (2015).

Thứ hai, chất lượng thể chế với biến đại diện là chỉ số INS tổng hợp, tồn tại mối mối

quan hệ thuận chiều với Z-Score và Z-Score_n với độ tin cậy cao 99%. Hệ số hồi quy của

biến INS lần lượt là 0,401 và 0,107 cho thấy khi các yếu tố khác không đổi, INS tăng (giảm)

0,01 đơn vị thì Z-Score và Z-Score_n tăng (giảm) 0,401 và 0,107 đơn vị. Với biến phụ thuộc

là NPL, INS có tác động ngược chiều, tức là chất lượng thể chế càng cao thì nợ xấu của

ngân hàng càng giảm; với hệ số hồi quy là -0,064 cho biết INS tăng/giảm 0,01 đơn vị thì tỷ

lệ nợ xấu sẽ giảm/tăng 0,064 đơn vị. Điều đó có nghĩa, chất lượng thể chế sẽ cải thiện vấn

đề nợ xấu ở các ngân hàng và từ đó làm tăng mức ổn định cho ngân hàng. Kết quả này đúng

như kỳ vọng của luận án và phù hợp với lý thuyết bất cân xứng thông tin, lý thuyết trò chơi

và lý thuyết các bên liên quan. Chất lượng thể chế tốt hơn sẽ làm giảm rủi ro tín dụng ngân

hàng một cách nhất quán nhờ giảm sự bất đối xứng thông tin, điều này trực tiếp cải thiện

chất lượng tín dụng. Như vậy, nâng cao chất lượng thể chế là một trong những tác nhân

quan trọng nâng cao mức độ ổn định tại các quốc gia này. Kết quả này cũng phù hợp với kết

quả của Naceur & Goaied (2001), các tác giả này đã phát hiện ra rằng hiệu quả hoạt động

và ổn định của các NHTM bị ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố về thể chế, quy định, kinh

25

tế vĩ mô và luật pháp. Họ lập luận rằng việc ngân hàng tăng tỷ lệ tổng tiền gửi trên tổng tài

sản có nghĩa là tăng nguồn vốn sẵn có để ngân hàng sử dụng vào những mục đích khác nhau

như đầu tư và cho vay để sinh lợi, nâng cao hiệu quả và ổn định của ngân hàng. Tương tự,

nghiên cứu Uddin & ctg. (2020) cũng chứng minh rằng việc tăng cường hiệu lực của chính

phủ, kiểm soát tham nhũng và cải thiện lòng tin của các đại lý cũng như quy tắc luật pháp sẽ

giảm rủi ro ngân hàng và cải thiện sự ổn định của ngân hàng.

Thứ ba, đối với biến tương tác giữa tài chính toàn diện và chất lượng thể (thể hiện ảnh

hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng),

tồn tại mối mối quan hệ thuận chiều với Z-Score và Z-Score_n, với độ tin cậy cao 99%, và

ngược chiều với NPL. Bảng 4.5 cho thấy hệ số hồi quy của biến tương tác IFI*INS với Z-

Score và Z-Score_n lần lượt là 0,567 và 0,089, có nghĩa khi các yếu tố khác không đổi,

IFI*INS tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score và Z-Score_n tăng (giảm) 0,567 và 0,089 đơn

vị. Ngược lại, hệ số hồi quy của biến tương tác IFI*INS với NPL là -0,057, có nghĩa khi các

yếu tố khác không đổi, IFI*INS tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì NPL giảm (tăng) 0,057 đơn vị.

Kết quả này cho thấy chất lượng thể chế có thể hạn chế tác động tiêu cực của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng. Điều này khẳng định ý tưởng rằng một chính sách thực hiện tài

chính toàn diện thành công phải được thực hiện trong một môi trường thể chế tốt, lành mạnh,

được đặc trưng bởi những yếu tố: mức độ ổn định chính trị cao, kiểm soát tham nhũng tốt,

có tiếng nói trách nhiệm và quyền công dân, các quy tắc luật pháp được thực thi chặt chẽ.

Rõ ràng, khi chất lượng thể chế tăng lên, các chính sách và quy định của chính phủ liên

quan đến việc thực hiện hợp đồng, các ràng buộc trong các giao dịch trở nên chặt chẽ hơn,

hướng đến việc các chủ thể phải thực hiện đúng các quy định đã đưa ra. Chẳng hạn, trong

cho vay phải thẩm định kỹ khách hàng để đảm bảo khả năng thu hồi vốn sau này. Vì vậy,

tương tác của chất lượng thể chế và tài chính toàn diện có tác động làm tăng ổn định ngân

hàng ở các nước ASEAN. Do đó, tác động tiêu cực của tài chính toàn diện đối với ổn định

ngân hàng sẽ được giảm thiểu nếu thể chế của các quốc gia được thiết lập tốt. Kết quả này

hỗ trợ cho nghiên cứu của Ahamed & Mallick (2019) và Saha & Dutta (2022) người đã phát

hiện ra rằng chất lượng thể chế có ảnh hưởng tích cực đến tác động của tài chính toàn diện

lên ổn định ngân hàng.

Xét riêng từng khía cạnh của chất lượng thể chế, bảng 4.4 cho thấy các khía cạnh: kiểm

soát tham nhũng, ổn định chính trị, quy tắc luật pháp và hiệu quả chính trị có ảnh hưởng tích

26

cực đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Điều này thể hiện qua dấu

của các biến tương tác CCIFI, PSIFI, RLIFI, và GEIFI lần lượt mang dấu dương đối với Z-

Score, Z-Score_n và mang dấu âm với NPL. Trong đó:

- Đầu tiên là kiểm soát tham nhũng. Ở cấp độ kinh tế vi mô, tham nhũng đi kèm với

chất lượng thể chế thấp, làm cho hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế gặp nhiều khó

khăn, dẫn đến chi phí kinh doanh cao hơn (Asiedu, 2003; Diaby & Sylwester, 2015; Méndez

& Sepúlveda, 2006). Do đó, mức độ tham nhũng có khả năng làm suy giảm lợi nhuận và sự

ổn định của ngân hàng. Mongid (2007) chỉ ra rằng các cuộc khủng hoảng ngân hàng có liên

quan tích cực đến mức độ tham nhũng cao hơn và thực thi pháp luật yếu kém. Ngoài ra, tình

trạng tham nhũng dẫn đến những hành vi xấu, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, làm cho

người dân không còn tin tưởng vào hệ thống tài chính. Đây cũng là một trong những rào cản

khiến người dân không sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức (Camara & ctg., 2014). Do

đó, kiểm soát tham nhũng là yếu tố quan trọng để gia tăng niềm tin của người dân vào hệ

thống tài chính, khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ tài chính, từ đó gia tăng mức độ

ổn định cho ngân hàng.

- Thứ hai là ổn định chính trị. Bất ổn chính trị có thể dẫn đến việc hủy bỏ hoặc trì hoãn

các khoản đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Những cú sốc đó có khả năng làm gia

tăng nỗi sợ hãi và niềm tin của người tiêu dùng. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư, vốn

chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay tiêu dùng và thế chấp. Điều này ảnh hưởng đáng kể

đến hoạt động sinh lời của ngân hàng, dẫn đến sự biến động thu nhập cao hơn. Kết quả ngân hàng

phải đối mặt với nguy cơ đổ vỡ và mất khả năng thanh toán cao hơn, ảnh hưởng đến mức độ

ổn định ngân hàng (Brandt & Gao, 2019; Demir & ctg., 2021). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra

sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng đòi hỏi sự ổn định của thể chế, ổn định của thị

trường, không có căng thẳng và ít biến động chính trị giữa các quốc gia hay trong chính

quốc gia đó (Akadiri & ctg., 2020; Alsagr, 2020; Cheng & Chiu, 2018; Das & ctg., 2019).

- Thứ ba là quy tắc luật pháp. Một số nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm

rằng các cấp độ cao hơn của pháp quyền và hiệu quả tư pháp sẽ tăng cường thực thi quy

định (Caballero & ctg., 2004; Daher, 2017). Các kênh thông qua đó thượng tôn pháp luật và

hiệu quả xét xử cao hơn có thể dẫn đến thực thi pháp luật mạnh mẽ hơn, tăng khả năng phát

hiện ra những sai phạm (Olken, 2007) và tăng khả năng truy tố và kết án (Alt & ctg., 2012).

Điều đó có nghĩa, khi các hợp đồng được thực thi một cách nghiêm túc, hạn chế các sai

27

phạm, điều này cũng là cách làm cho người dân tin tưởng vào hệ thống tài chính, từ đó gia

tăng mức độ sử dụng, và nâng cao ổn định cho ngân hàng.

- Thứ tư là hiệu quả chính phủ. Hiệu quả chính phủ thể hiện vai trò điều hành, quản lý

của Chính phủ đối với các hoạt động kinh tế. Bằng các chính sách, giải pháp, Chính phủ sẽ

điều hành, kiểm soát hoạt động của các ngân hàng một cách có hiệu quả, làm cơ sở để gia

tăng niềm tin của người dân vào các ngân hàng, từ đó sẽ gia tăng sử dụng dịch vụ tài chính,

giúp ngân hàng gia tăng mức độ ổn định.

Ngoài ra, khía cạnh chất lượng quy định có ảnh hưởng làm giảm mức độ ổn định ngân

hàng nhiều hơn khi thực hiện tài chính toàn diện. Các hệ thống văn bản pháp luật quy định

hoạt động ngân hàng hiện nay ở nước ta được xem là môi trường chính trị, pháp lý liên quan

đến hoạt động của ngân hàng. Chúng ta đều hiểu rằng môi trường chính trị, pháp lý ổn định

là cơ sở nền tảng cho ngân hàng phát triển ổn định và bền vững. Rõ ràng, chất lượng các

quy định càng cao bao nhiêu thì sẽ tốt cho hoạt động ngân hàng bấy nhiêu. Tuy nhiên, kết

quả nghiên cứu lại chỉ ra chất lượng các quy định có ảnh hưởng ngược chiều đến tác động

của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Kết quả này có thể được giải thích như sau:

Một trong những rào cản khiến người dân không tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức là

do các thủ tục các quy định quá khắt khe như tài sản đảm bảo, duy trì số dư tối thiểu

(Camara & ctg., 2014). Nhưng ngược lại, các quy định trên là yêu cầu cần thiết để đảm bảo

khách hàng trả nợ, có như thế mới đảm bảo hoạt động ngân hàng có hiệu quả và ổn định. Do

đó, nếu các quy định được thực thi một cách nghiêm chỉnh, thì rất khó để người dân có thể

tiếp cận các dịch vụ tài chính, điều này một phần ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng

thương mại, từ đó ảnh hưởng đến mức độ ổn định của ngân hàng.

Cuối cùng khía cạnh tiếng nói và trách nhiệm giải trình được tìm thấy không có ảnh

hưởng đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

Ngoài ra, các biến kiểm soát như quy mô tổng tài sản, quy mô vốn tín dụng, quy mô vốn

chủ sở hữu, sức mạnh thị trường, quy mô vốn chủ sở hữu, tăng trưởng kinh tế có tác động

làm tăng ổn định ngân hàng, trong khi đó biến đa dạng hóa thu nhập có tác động ngược lại,

làm giảm mức độ ổn định của ngân hàng.

28

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận kết quả nghiên cứu của mô hình là

tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng và ảnh

hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

29

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHÍNH CỦA LUẬN ÁN

Các kết quả của chương 4 mang lại những kết luận sau đây:

- Thứ nhất, tài chính toàn diện có tác động tiêu cực đến ổn định ngân hàng.

- Thứ hai, chất lượng thể chế có tác động tích cực đến ổn định ngân hàng.

- Thứ ba, chất lượng thể chế có ảnh hưởng tích cực đến tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng.

5.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.2.1. Tài chính toàn diện

5.2.2. Chất lượng thể chế

5.2.3. Vấn đề nội tại của ngân hàng

5.2. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Luận án đã có những đóng góp nhất định về cả khoa học lẫn thực tiễn về tài chính toàn

diện, chất lượng thể chế và ổn định hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN. Tuy nhiên,

luận án cũng còn tồn tại những hạn chế sau:

Thứ nhất, giới hạn nghiên cứu của luận án là ở các nước khu vực ASEAN, chưa có sự

mở rộng về phạm vi, chẳng hạn là các nước Châu Á hay rộng hơn là các nước trên thế giới.

Đồng thời, luận án nghiên cứu với dữ liệu bảng nên mặc dù chỉ ra xu hướng tác động, song

các khuyến nghị chính sách còn mang định hướng chung, chưa cụ thể cho từng nước.

- Thứ hai, các chỉ số liên quan đến tài chính toàn diện mà luận án thu thập chủ yếu là

các số liệu từ ngân hàng, chưa xét đến các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với Việt Nam trong

những năm gần đây, các chính sách tài chính toàn diện hướng đến việc tiếp cận vốn vay để

phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có

những thay đổi tích cực. Do vậy, trong tương lai luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu về tài chính

toàn diện một cách đầy đủ hơn với các tiêu chí này. Hơn nữa, luận án chưa xem xét các yếu

tố liên quan đến công nghệ tài chính trong quá trình thực hiện tài chính toàn diện. Hiện nay,

thời kỳ công nghệ 4.0 việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng thông qua ATM hay chi nhánh

ngân hàng dần dần được thay thế bởi các hình thức khác, do đó, đo lường tài chính toàn diện

theo các khía cạnh mà luận án thực hiện, có thể chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính

toàn diện hiện nay. Tuy nhiên, do thiếu hụt về dữ liệu nên trong nghiên cứu này, luận án vẫn

sử dụng các khía cạnh: thâm nhập được đo lường bằng tỷ lệ chi nhánh ngân hàng trên tỷ lệ

30

100.000 người trưởng thành và tỷ lệ số ATM trên 100.000 người trưởng thành.Trong tương

lai, luận án sẽ cố gắng cập nhật dữ liệu và xây dựng bộ chỉ số tài chính toàn diện mới, bổ

sung các yếu tố công nghệ để đánh giá đầy đủ hơn về thực trạng của tài chính toàn diện ở

các nước, cũng như tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng.

- Thứ ba, thể chế có nhiều loại: thể chế kinh tế, thể chế chính trị. Luận án mới chỉ xem

xét góc độ thể chế chính trị ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng, cũng như ảnh hưởng đến tác

động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng. Do đó trong tương lai, luận án sẽ tiếp

tục xem xét thể chế trên góc độ thể chế kinh tế, để tăng thêm tính vững cho các kết luận đưa

ra.

Tóm lại, từ những hạn chế trên, luận án nhận thấy các hướng nghiên cứu có thể phát

triển trong tương lai:

(1) Xem xét vai trò của chất lượng thể chế trong tác động của tài chính toàn diện lên ổn

định ngân hàng cho từng nước riêng lẻ để đảm bảo các khuyến nghị và đề xuất chính sách

thiết thực hơn cho mỗi nước.

(2) Kiểm tra ảnh hưởng của chất lượng thể chế về thay đổi công nghệ tài chính liên quan

đến ổn định ngân hàng.

(3) Sử dụng thêm nhiều chỉ số liên quan đến chất lượng thể chế chẳng hạn thể chế kinh

tế để đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, cũng như ảnh hưởng

của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

Đồng thời, sự thiếu hụt về nguồn dữ liệu thứ cấp nói chung là một trở ngại lớn cho các

nghiên cứu tại trường hợp các nước. Thực tế, có hơn 400 ngân hàng tại các nước ASEAN,

tuy nhiên quá trình thu thập dữ liệu để đảm bảo đủ dữ liệu và dữ liệu chính xác thì luận án

chỉ thu thập được 157 ngân hàng trong giai đoạn nghiên cứu. Vì vậy. việc xây dựng, thu

thập các dữ liệu thứ cấp về ngân hàng tại các nước ASEAN cần được hoàn thiện hơn.

TÓM TẮT CHƯƠNG 5

Chương 5 trình bày kết luận rút ra từ kết quả nghiên cứu và đề xuất một số hàm ý chính

sách để chính phủ, các nhà quản trị ngân hàng ở các nước ASEAN có thể áp dụng trong quá

trình thực hiện tài chính toàn diện nhằm gia tăng mức độ ổn định cho ngân hàng.

31

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN TÀI NGHIÊN CỨU

Thời gian Tạp chí/ hội thảo/ giáo Cấp độ STT Tên bài nghiên cứu hoàn trình/đề tài tham gia thành

The effect of institutional Journal of Asian Đồng tác 1 quality on financial inclusion Finance, Economics and 2021 giả in ASEAN countries Business

Tài chính toàn diện – Nhận Tạp chí Thị trường tài 2 diện vị trí Việt Nam trong khu Tác giả 2021 chính tiền tệ vực ASEAN

Định vị hệ thống NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI Việt Tạp chí Thị trường tài Đồng Tác 3 Nam trong khối CPTPP qua 2021 chính tiền tệ giả chỉ số tài chính toàn diện và

hệ thống xếp hạng CAMELS

Thúc đẩy tài chính toàn diện Tài chính doanh nghiệp Tác giả 2021 4 tại Việt Nam

Thể chế các nước ASEAN – Tạp chí Kinh tế Châu Á Tác giả 2022 5 nhìn nhận ở góc độ lý thuyết – Thái Bình Dương

Impact of financial inclusion Macroeconomics and on banking stability in Đồng tác Finance in Emerging 2022 6 ASEAN countries – threshold giả Market Economies financial inclusion