Tại sao tài trợ bằng nợ rẻ
hơn vốn cổ phần?
Trong trường hợp này, “chi phí” được đề cập ở đây chính là chi phí có
thđo ng được cho việc huy động vốn tài trcho hoạt động của doanh
nghiệp. Với nợ, đó chính là chi pi vay mà doanh nghiệp phải trả cho
khoản vay của mình. Vi vn cổ phần, chi phí sử dụng vốn được hiểu như
quyền đối vi thu nhập phi đủ thỏa mãn được các cổ đông khi họ quyết
định góp vốn vào công ty.
dụ, nếu bạn điều hành một doanh nghiệp nhỏ và cn tài trkhoảng
$40,000, bạn có thể hoặc đi vay ngân hàng stiền $40,000 với lãi suất
10% hoặc bạn thể n 25% cổ phần doanh nghiệp cho người hàng xóm
với giá $40,000.
Gistrong m sau đó, doanh nghiệp của bạn thể tạo ra được lợi
nhuận hoạt động là $20,000. Nếu ban đầu bạn quyết định đi vay ở ngân hàng
với chi plãi vay (hay n gi là chi phí i trcủa nợ) slà $4,000, bn
còn lại li nhun $16,000. Ngược lại, nếu bạn đã s dụng tài tr vốn cổ
phần, nghĩa là bn không hề có n và dĩ nhiên không chi phí lãi vay
nhưng bạn chỉ được nắm giữ 75% lợi nhuận ca doanh nghiệp thôi (25%
khác thuộc sở hữu của người hàng m nhà bn). Do đó, lợi nhuận của bạn
bây giờ chỉ có $15,000 (tức 75%*$20,000)
Tdnày, bn thể thấy nợ rẻ n vốn cổ phần như thế nào,
do đó cũng rất dễ hiểu khi các cđông sáng lập của công ty quyết định lựa
chọn phát hành nchứ kng phải vốn cphn. Thuế cũng là một yếu tố
giúp cho tình hung phát hành nợ trở nên tốt hơn. Nếu doanh nghiệp của bạn
sdụng nợ, bởi vì chi phí lãi vay được khấu trừ ra khỏi thu nhập hoạt động
trước khi thu nhập bđánh thuế, do đó chính nh động đã đem đến cho
doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế từ nợ.
Dĩ nhiên, lợi ích của tài trnợ với
lãi suất cố định đôi khi lại có thể điểm
bất lợi. Bởi nợ được xem là chi phí tài
chính cđịnh, dù doanh nghiệp của bạn
hoạt động ra sao, thu nhập nhiều hay
thm c đang thua lỗ thì doanh nghiệp
vẫn phải đảm bảo việc trả lãi vay đúng khạn và tr nợ gốc khi đáo hạn, do
vậy một sgia ng nợ của doanh nghiệp cũng đng nghĩa với việc gia ng
thêm rủi roi chính.
Quay trlại dtrên, gisử trong năm sau, công ty ca bạn chỉ tạo
ra được $5,000. Với tài trnợ, bạn có thể vẫn có cùng $4,000 lãi vay phi
trvà vy lợi nhuận của bạn chỉ còn lại $1,000 ($5,000 -$4,000). Trong
trường hợp tài trhoàn toàn bng vốn cphần, tức là bn kng hề phải tr
một đồng lãi vay nào hết, thì bn vẫn có 75% lợi nhuân tương đương vi
$3,750 (75% x $5,000).
Do vậy, đối với một ng ty được kvọng làm ăn tốt thì tài trnợ có
thể được sử dụng thường xuyên với mức chi phí thấp n so vi tài trbằng
vốn cổ phần. Tuy nhiên, nếu giai đoạn nào ng ty kng thvận hành tốt
để tạo ra tin lượng tiền mặt đủ lớn, thì chi phí lãi vay lúc y thlà một
gánh nặng. Đây chính là mặt trái của việc tài tr hoạt động doanh nghiệp
bằng nợ. Từ đây thể thấy, dù nchi phí rẻ n vốn cổ phần, doanh
nghiệp nào cũng có thể hiểu được điều y, nhưng thời điểm nào thì sử dụng
nlà hợp lý? Hợp đây nghĩa là tận dụng được tối đa lợi ích của nợ,
tận dụng tối đa lợi ích từ đòn by tài chính t nợ. Khi nào tdoanh nghiệp
nên vay nvà vay nbao nhiêu thích hợp? Qúa trình đi tìm lời giải cho
bài tn trên có lsẽ cùng tvvà cũng kng ít” đau đầu” cho các nhà
quản trị.
Dthấy, các doanh nghiệp kng bao giờ thể chắc chắn 100% về
lượng thu nhập trong tương lai (mặc dù hthể những dự đoán hợp lý)
và khi thu nhập tương lai của các doanh nghiệp càng không n định thì rủi ro
càng ng n. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành rủi ro kinh doanh
thấp, có ng tiền n định
thường sử dụng n nhiều n c doanh nghiệp trong các ngành
nhiều rủi ro n. Các doanh nghiệp nhhoặc mi bắt đầu hoạt động, đang
trong giai đoạn khởi nghip cũng sử dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là
không sdụng nợ. Các doanh nghiệp mới với sự kng chắc chn cao có
thể phải trải qua một thời gian đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ vay,
nên thường thì các hoạt động của chúng hầu hết được tài trbằng vốn cổ
phần.
Việt Nam, nhắc đến nợ, người ta thường m e dè, nhất đối
với các doanh nghiệp đang trong thời k “sung mãn”, lượng tiền mặt
cùng dư thừa thì dường như hli càng không quan m đến nợ. Tiền i
có, tại sao phải vay?” Cũng vậy, sau 7 năm TTCKVN ra đời, đi vào hoạt
động đạt được sphát triển như m nay tđể giải quyết bài tn thiếu
vốn, doanh nghiệp niêm yết thường chọn giải pháp vốn cổ phần chứ kng
mấy mặn mà vi việc sử dụng tài trbằng nợ. Các doanh nghiệp dường như
đã quên đi li ích tviệc sdụng đòn by tài chính. Hi vọng trong tương lai
không xa, vn đề tài trbằng nợ sẽ được các doanh nghip Việt Nam quan
m thỏa đáng và đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng nợ. Cũng cần
nhắc lại là, phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng là một hình thức vay nợ
của doanh nghiệp.