Tập đoàn thành lập ngân hàng-
Chính sách khó vận dụng
Chính phủ đã đưa ra chính sách cấm các tập đoàn và tổng
công ty đầu tư quá 30% vốn vào các hoạt động kinh doanh
không nòng cốt nhằm ngăn chặn tình trạng phân tán đầu tư.
Song biện pháp này chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Năm 2007, khi hoạt động đầu tư tài chính, ngân hàng đang là
“con gà đẻ trứng vàng”, nhiều tập đoàn và tổng công ty đã đệ đ
ơn
xin góp vốn và thành lập ngân hàng. Ngay lập tức, giới chuyên
gia trong và ngòai nước đã mạnh m chỉ trích xu hướng này và
cảnh báo các rủi ro có thể gặp phải khi các tập đoàn nhà nước
đầu tư vào lĩnh vực có tính chất đầu cơ cao như tài chính, chứng
khoán, bất động sản…
Trong khi phân tán nguồn lc vào các lĩnh vực không chuy
ên, các
tập đoàn đã b qua vấn đề năng lực và lợi thế so sánh. Liệu có
thể tin rằng một công ty dầu khí, vốn được hưởng vị thế độc
quyền, có đủ năng lực để điều hành ngân hàng, cung c
ấp dịch vụ
bảo hiểm, phân phối điện thoại di động, xây cao ốc cho thuê?
Việc đa dạng hóa thái quá như hiện nay sẽ làm phân tán nguồn
lực vật chất và quản trị của các tập đoàn ra khỏi hoạt động nòng
cốt.
Ngay cả khi các tập đoàn chứng minh được rằng bản thân họ đủ
năng lực, đủ kinh nghiệm, đủ vốn để điều hành ngân hàng thì v
ẫn
cần có hệ thống điều tiết, giám sát và cưỡng chế hiệu quả hơn.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã không kim soát
chặt chẽ và để cho nhiều ngân hàng nm giữ quá ít các tài s
ản
thu nhập cố định. Do vậy, các ngân hàng này phụ thuộc nhiều
vào thị trường bất động sản và chứng khoán. Kết quả là khi th
trường có biến động, và chính sách thay đổi, các ngân hàng lâm
vào tình cảnh khó khăn về thanh khoản. Việc tích lũy quá nhiều
tài sản có độ rủi ro cao đặt toàn bộ hệ thống trư
ớc những rủi ro to
lớn nhất.
Mặt khác, các ngân hàng thuc tập đoàn r
ất có thể sẽ phân bổ tín
dụng cho các thành viên của tập đoàn b
ất kể rủi ro của khoản vay
là thế nào. Chưa hết, ngay cả khi kiểm soát được các khoản vay
của thành viên tâp đoàn, chúng ta cũng khó kiểm st được các
khoản tín dụng ưu đãi cho các nhà cung cấp và khách hàng của
tập đoàn. Tập đoàn hòan toàn có thể tác động để có được các
khoản tín dụng ưu đãi cho hthống khổng lồ của bản thân.
Trước các bất ổn của kinh tế vĩ mô, chính phủ đã đưa ra chính
sách cấm các tập đoàn và tổng công ty này đầu tư quá 30% vốn
vào các hoạt động kinh doanh không nòng cốt. Tuy nhiên, rất khó
vận dụng qui định này vào thc tế. Chẳng hạn, nếu một công ty
dầu khí thành lập công ty con để xây kho chứa dầu thì đó có
được coi là đầu tư vào hoạt động kinh doanh không nòng cốt?
Trong khi đó, các tập đoàn và tổng công ty tiếp tục tranh thủ mở
rộng hoạt động ra các lĩnh vực có tính đầu cơ và rủi ro cao như
tài chính, ngân hàng, bất động sản trước khi cánh cửa bị chính
phủ khép lại. Hạn mức 30% này cũng không hề đả động gì tới
những hoạt động mà các tập đoàn tổng công ty nhà nước đã
thực hiện từ trước.
Tháng 5 vừa qua, nhóm các nhà nghiên cứu của Chương trình
Việt Nam tại trường quản lí Nhà nước Harward Kennedy (Mỹ) đã
khuyến cáo Việt Nam không nên cp phép thành lập mới ngân
hàng nội địa trong 12 tháng. Việc này nhằm làm gim tăng trư
tín dụng để làm cơ sở cho giảm lạm phát, giúp ổn định hệ thống
ngân hàng, chun bị cho việc sáp nhập và mua lại các ngân hà
ng
yếu kém, giảm gánh nặng đang quá tải cho hệ thống gmt
ngân hàng. Đồng thời, về lâu dài, tăng cường hệ thống giám sát
và báo cáo của hệ thống ngân hàng để chấm dứt những tin đồn
thổi về tình trạng phá sản của một số ngân hàng. Đ
chuẩn bị cho
Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp phải can thiệp và cứu tr
các ngân hàng thất bại, chính phủ cần xây dựng các cơ sở và kế
hoạch cho hoạt động mua lại và sáp nhập giữa các ngân hàng.
Đặc biệt là yêu cầu cá tập đoàn t bỏ các hoạt động đầu tư vào