Thẩm quyền điều tra của
KTV nhà nước.
1. Quan niệm về điều tra
Để hiểu và xác định rõ KTV nhà nước có thẩm quyền điều tra hay
không, trước hết chúng ta cần nghiên cứu các khái niệm về điều
tra để hiểu rõ bản chất của nó.
Điều tra theo nghĩ thông thường là một biện pháp nghiệp vụ mà
các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiến hành trực tiếp hoặc gián
tiếp để làm rõ một vấn đề cần tìm hiểu. Theo Từ điển Tiếng Việt,
nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội năm 1994 thì “điều tra là
tìm, hỏi, xem xét để biết rõ sự thật”; điều tra thường gắn với chức
năng của cơ quan bảo vệ pháp luật. Như vậy, điều tra thông
thường là phương pháp mà các chủ thể điều tra sử dụng để tiếp
cận đối tượng, làm rõ, xác minh những gian lận, sai sót trong
hành vi phạm pháp của cá nhân và tổ chức. Phương pháp điều
tra thông thường có thể có nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào
tính chất, đặc điểm, mục đích và điều kiện cụ thể để lựa chọn
phương pháp điều tra trực tiếp hoặc gián tiếp. Điều tra trực tiếp là
dùng con người trực tiếp, bằng các biện pháp khác nhau để tiếp
cận đối tượng điều tra; còn điều tra gián tiếp là thông qua phiếu
yêu cầu hay phiếu hỏi để đáp ứng yêu cầu điều tra. Điều tra bằng
phiếu hỏi là một phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm,
thường được áp dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội, thông
qua việc phát và thu phiếu điều tra, nhà nghiên cứu thu được
những thực tiễn từ khách thể về nhận thức, thái độ, hành vi, trạng
thái tồn tại các sự kiện có liên quan đến tri thức và phạm vi
nghiên cứu.
Điều tra hình sự là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hàng một số hoạt động điều
tra nhằm xác định tội phạm của người có hành vị phạm tội, lập hộ
sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu
cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật,
tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ
những chứng cớ xác định có tội hoặc vô tội, những tình tiết nặng
và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can. Mọi hoạt động điều
tra đều phải tuân theo pháp luật, chấp hành các nguyên tác và
thủ tục do Bộ luật Tố tụng và hình sự quy định. Tổ chức, nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền tiến
hành các biện pháp điều tra hình sự được quy định cụ thể tại
Pháp lệnh “Tổ chức điều tra hình sự”. Cơ quan điều tra hình sự
có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật khi các
cơ quan thanh tra, kiểm toán phát hiện có dấu hiệu của tội phạm,
chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan điều tra và xử lý theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Phương pháp điều tra hình sự
là hệ thống các phương thức, cách thức, thủ pháp về tổ chức,
tiến hành hoạt động điều tra và phòng ngừa những tội phạm cụ
thể. Các cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự thực hiện chức năng điều tra và thụ lý điều tra vụ án từ kho
khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra, các cơ quan đó gồm:
Công an, quân đội, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm
2. Chủ thể điều tra
Chủ thể điều tra có thể có nhiều loại, theo cách tiếp cận của khoa
học điều tra, căn cứ vào mức độ sai phạm, có thể phân ra như
sau:
- Chủ thể điều tra hình sự trực tiếp là các cơ quan quyền lực nhà
nước thực thi bảo vệ pháp luật như công an, tòa án, viện kiểm
sát nhân dân, bao gồm cả viện kiểm sát quân sự và tòa án quân
sự các cấp. Ngoài ra, tùy theo mức độ liên quan, một số cơ quan
khác cũng được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra. Theo Pháp lệnh “Tổ chức điều tra hình sự” của nước ta, các
cơ quan được giao nhiệm vụ này gồm cả Cảnh sát biển, Bộ đội
biên phòng, Kiểm lâm, Hải quan...
- Chủ thể điều tra trong các hoạt động khác là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; trong hoạt động kiểm toán là cơ quan
KTNN, một chủ thể quyền lực công trực tiếp kiểm tra việc quản lý,
điều hành, sử dụng ngân sách nhà nước và các công quỹ, các tài
sản nhà nước.
Các hoạt động điều tra có điểm giống nhau là cùng thu thập tài
liệu chứng cứ, bằng chứng nhằm làm rõ hiện tượng, sự việc cụ
thể để trả lời các câu hỏi “Việc gì, bởi tại làm sao, bao giờ, ai
thấy, thế nào, ở đâu”. Các chủ thể điều tra khác nhau, áp dụng
phương thức và phương pháp khác nhau, nhưng có cùng mục
đích là xây dựng và bảo vệ pháp luật, bảo vệ nền kinh tế, cơ sở
tồn tại của chính thể xã hội. Tuy vậy, các hoạt động điều tra có
những điểm khác nhau cơ bản là:
- Về địa vị pháp lý, cơ quan điều tra và hoạt động của cơ quan
điều tra hình sự do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định và
thể hiện ở các Điều 34, 35, 110, 111; cơ quan KTNN do Quốc hội
thành lập và hoạt động kiểm toán do Luật Kiểm toán nhà nước
quy định.
- Về phương pháp, trong quá trình điều tra, các cơ quan điều tra
có quyền và có nghĩa vụ áp dụng tất cả các biện pháp do pháp
luật tố tụng hình sự quy định để khám phá tội phạm, như: xét hỏi,
thu thập chứng cứ, đối chiếu, phân tích so sánh…Và cao hơn là
biện pháp ngăn chặn. Còn trong hoạt động kiểm toán, cơ quan
KTNN căn cứ vào chuẩn mực kiểm toán và có quyền, nghĩa vụ
áp dụng tất cả các biện pháp để xác nhận tính hợp pháp, hợp lý
của hoạt động tài chính, như: phỏng vấn, thu thập chứng cứ, đối
chiếu, phân tích so sánh, điều tra…nhưng không được sử dụng
biện pháp ngăn chặn.
- Như vậy, sẽ phân biệt được hai loại hoạt động khác nhau, hoạt
động kiểm toán là hoạt động bình thường, kiểm toán nhà nước
sử dụng mọi phương pháp kiểm toán, kể cả kiểm toán điều tra
nhằm thực thi các chức năng kiểm toán. Đối tượng kiểm toán
điều tra là những vụ việc sai sót, gian lận về tài chính, tài sản
công có dấu hiệu phạm tội, song chưa đủ cơ sở để kết luận phạm
pháp. Trong hoạt động của mình, nếu phát hiện ra những dấu
hiệu, bằng chứng về tội phạm kinh tế thì KTNN chuyển hồ sơ cho
các cơ quan hữu trách điều tra, làm rõ để xử lý theo pháp luật
được quy định tại khoản 10 Điều 15 Luật KTNN.
- Hoạt động điều tra hình sự do công an, việc kiểm sát hay tòa án
tiến hành là nhằm vào các tội danh vi phạm pháp luật và phải xử
lý theo luật hình sự.
3. Căn cứ về thẩm quyền điều tra của kiểm toán viên nhà
nước.
Thẩm quyền điều tra của KTV nhà nước trong hoạt động kiểm
toán, với các căn cứ sau:
Thứ nhất: về thẩm quyền điều tra cụ thể của KTV nhà nước được
quy định tại khoản 2 Điều 52 Luật KTNN: “Các thành viên đoàn
kiểm toán có quyền áp dụng các phương pháp chuyên môn
nghiệp vụ kiểm toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng
kiểm toán; kiểm tra, đối chiếu, xác nhận; điều tra đối với các tổ
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động kiểm toán làm cơ sở
cho các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những
nội dung đã kiểm toán”. Thực chất các quy định về quyền hạn
của KTNN (điều 16) và các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
các thành viên đoàn KTNN, như: thu thập bằng chứng kiểm toán,
kiểm tra, trưng cầu giám định chuyên môn, niêm phong tài liệu,
kiểm tra tài khoản cá nhân, kiến nghị xử lý…đều là những biện
pháp mạnh được áp dụng phổ biến trong quá trình điều tra hình
sự.
Theo quy định trên thì KTV nhà nước trong quá trình thực hiện
kiểm toán, ngoài việc áp dụng các biện pháp chuyên môn, nghiệp
vụ để thu thập bằng chứng kiểm toán, còn có quyền thực hiện
nghiệp vụ điều tra để làm rõ và xác nhận các bằng chứng thu
được trong quá trình kiểm toán. Song, cần phải phân biệt rõ điều
tra ở đây khác với điều tra trong lĩnh vực tố tụng hình sự, đó là
điều tra mang tính hành chính và chỉ được tiến hành khi phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến nhiều tổ chức, cá
nhân.
Thứ hai, trong thực tế hoạt động kiểm toán, KTV nhà nước
thường xuyên áp dụng các biện pháp điều tra như: đối chiếu,
kiểm tra chứng từ, phỏng vấn trực tiếp những người có liên quan,
xác minh làm rõ các vấn đề có liên quan đến nội dung kiểm toán.
Ngoài ra đối với những vụ việc có dấu hiệu cấu thành tội phạm,
KTV nhà nước đã tham gia trực tiếp vào các công đoạn cụ thể
của hoạt động điều tra hình sự để hoàn thiện hồ sơ, chuyển cho
cơ quan điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Kinh nghiệm về điều tra của kiểm toán ở một số nước trên
thế giới
Thứ ba, để thực hiện được nhiệm vụ và quyền hạn kiểm toán
theo quy định của Luật kiểm toán nhà nước và quy trình, chuẩn
mực kiểm toán một cách có hiệu quả khi và chỉ khi kiểm toán viên
nhà nước thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của mình, trong đó có quyền điều tra. Quyền điều tra của KTV
cũng phù hợp với thông lệ quốc tế, nếu so sánh các luật kiểm
toán khác nhau, ta thấy ở tất cả các nước đều coi những quyền
điều tra nhất định là điều không thể thiếu được đối với các công
việc của cơ quan kiểm toán tối cao. Các quyền điều tra này được
thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể điều tra trực
tiếp hoặc yêu cầu gửi, nộp các hồ sơ tài liệu có liên quan đến
việc kiểm toán. Qua nghiên cứu Luật Kiểm toán của một số nước
như: Điều 31, 32 Luật Kiểm toán Trung Quốc, Điều 95 Quy chế
kiểm toán Liên bang Đức, Điều 9 Luật Kiểm toán Pháp, Điều 8
Luật Kiểm toán Vương quốc Anh, Điều 25 và Điều 27 Luật Kiểm
toán Hàn Quốc, Điều 13 Luật Kiểm toán Liên bang Nga, Điều
21b, d Luật Kiểm toán Séc, khoản 1 Chương 8 Luật Kiểm toán
Thái Lan, Chương 7(b) Luật Kiểm toán Malaysia…có quy định về
thẩm quyền điều tra của Kiểm toán Nhà nước, trong đa số những
điều khoản đã nêu trên, cơ quan kiểm toán tối cao đồng thời cĩng
được quyền triệu tập những người có trách nhiệm hoặc liên quan
của cơ quan bị kiểm toán.
Một số nước còn quy định rất rõ thẩm quyền được vào tất cả các
phòng làm việc của đơn vị được kiểm toán để tạo điều kiện cho
cơ quan kiểm toán tối cao thực hiện kiểm tra kỹ lưỡng hơn so với
việc chỉ xem xét tại chỗ các hồ sơ tài liệu. Bên cạnh đó, có một số
cơ quan kiểm toán còn có quyền tịch thu những hiện vật cần thiết
đối với việc kiểm toán hoặc bảo vệ bằng chứng cũng như niêm
phong các phòng và nhà làm việc. Việc quy định rõ các thẩm
quyền này đối với các cơ quan kiểm toán tối cao để tăng cường
vị trí của cơ quan kiểm toán đối với các đơn vị bị kiểm toán vào
tạo điều kiện làm việc thuận lợi hơn cho các kiểm toán viên khi
thực hiện nhiệm vụ.
Tuy nhiên, hầu hết các KTV của KTNN khi tiến hành kiểm toán
chưa thực hiện đầy đủ thẩm quyền điều tra của mình, nên việc
kết luận và quy kết trách nhiệm các nhân vi phạm pháp luật còn
hạn chế. Nguyên nhân của vấn đềnày, có thể do nhận thức của
từng kiểm toán viên hoặc do sự chỉ đạo, điều hành của các cấp
lãnh đạo, cũng có thể do sự ngại khó, ngại khổ của người thi
hành công vụ.
Vì vậy, để không ngừng nâng cao hiệu lực pháp lý và chất lượng
kiểm toán, trong hoạt động kiểm toán, KTV nhà nước cần quan
tâm hơn để khai thác triệt để các biện pháp nghiệp vụ thuộc thẩm
quyền, nhằm góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình hiện
nay.