intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thăng Long tứ Trấn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thăng Long tứ Trấn, bao gồm bốn ngôi đền nổi tiếng: Trấn Quốc, Voi Phục, Bạch Mã và Kim Liên, là biểu tượng của văn hóa tâm linh và lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Những ngôi đền này không chỉ thờ các vị thần bảo vệ thành phố mà còn phản ánh những giá trị văn hóa, tín ngưỡng và truyền thống của người dân nơi đây. Mỗi đền thờ đều gắn liền với những câu chuyện lịch sử và huyền thoại, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa của thủ đô. Bài viết này sẽ khám phá ý nghĩa và vai trò của Thăng Long tứ Trấn trong đời sống tâm linh cũng như di sản văn hóa của Hà Nội, từ đó làm nổi bật sự giao thoa giữa quá khứ và hiện tại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thăng Long tứ Trấn

  1. 74 PHÙNG THÀNH CHỦNG - THĂNG LONG... T R H R Q Ỉ1 0 R G T Ứ T R H R ĐÁP PHÙNG THÀNH CHỦNG J@ăn ÍỊữá J â n gian ề cụm từ “Thăng Long tứ trấ n ” hiện vị của thần từ c ổ Loa về thờ ở đây. Vì đền ở vẫn tồn tại hai cách hiểu: phía bắc kinh thành nên còn gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm (khảm, theo bát quái, 1. Đó là bôn ngôi đền thiêng trấn giữ thuộc phương Bắc). bôn mặt kinh thành Thăng Long (theo tín ngưỡng dân gian), gồm: 1. Đền Trấn Vũ ở 2. Đền Kim Liên, xưa thuộc phường phía bắc; 2. Đền Kim Liên ở phía nam; 3. Đông Tác, huyện Thọ Xương, nay thuộc Đền Bạch Mã ở phía đông và 4. Đền Voi phường Kim Liên, quận Đông Đa, thành Phục ở phía tây. phô" Hà Nội. Đền thờ Cao Sơn đại vương, tương truyền là một trong sô' 50 người con 2. Đó là bôn kinh trấn hay còn gọi là trai đã theo mẹ Âu Cơ lên rừng, sau khi Âu nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao Cơ chia tay vơi Lạc Long Quân. Lúc đầu, quanh kinh thành Thăng Long, có nhiệm đền chỉ được xây dựng đơn giản bằng tranh vụ che chắn, bảo vệ kinh thành ngay từ tre, nứa, lá nhưng sau đó, nhờ có công âm vòng ngoài, khi kinh thành trực tiếp bị đe phù, giúp vua Lê Tương Dực (1509 - 1516) dọa. Ngoài ra, vì ở gần kinh thành nên bô"n từ Thanh Hoá kéo ra kinh thành Thăng kinh trấn còn là những lực lượng có nhiệm Long dẹp yên nội loạn nên đền đã được vụ “cứu giá” và dẹp yên nội loạn khi kinh trùng tu vào năm 1509 (bài văn bia do Lê thành có biến. Đó là các trấn: Kinh Bắc, Tung soạn, hiện vẫn còn ở đây, có nói vê Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây. việc này). Vì đền ỏ phía nam kinh thành Vậy, cách hiểu nào là đúng, cách hiểu nên còn gọi là trấ n Nam hay trấn Li (Li, nào là sai? Đê tìm lời giải đáp cho câu hỏi theo bát quái, thuộc phương Nam). này, trước hết chúng ta hãy cùng nhau tìm 3. Đền Bạch Mã xưa thuộc phường Hà hiểu về bốn ngôi đền và bôn kinh trấn được Khẩu, huyện Thọ Xương, nay đền ở sô" 3, nói ở trên. phô" Hàng Buồm, thành phô' Hà Nội. Đền I. T ứ tr â n (bốn ngôi đền) thò th ầ n Long Đỗ, hiệu là Q uảng Lợi Bạch 1. Đền Trấn Vũ (thường gọi là đền Mã đại vương. Tương truyền, đời Đường Ý Quán Thánh), nằm ở đường Quán Thánh, Tông (860 - 874), Cao Biền đắp thành Đại quận Ba Đình, thành phô" Hà Nội. Đền thờ La. Một hôm, Biền dạo xem phía ngoài cửa Trấn Thiên Chân Vũ đại đế, người đã có Đông thành, bỗng thấy một dị nhân cưởi công giúp An Dương Vương (257 - 179 rồng đỏ, tay cầm giản vàng, có mây ngũ sắc TCN) trừ yêu tà khi xây thành cổ Loa. bao quanh, bay lên, lượn xuống trên mặt Năm 1010, cùng với việc dời đô từ Hoa Lư thành. Vô'n giỏi th u ật phong thuỷ, Biên về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho rước bài liền lập đàn, đồng thời cho lây nghìn cân
  2. TCVHDG SỐ 5/2006 - HỎI ĐÁP FOLKLORE 75 sắt đúc tượng phỏng theo hình dạng thần I I . T ứ tr ấ n (bốn k in h tr ấ n h a y nội và dùng “kim đồng thiết phù” để yểm tr ấ n ) nhưng bị thần phá được. Người đời nhân đó Năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức bèn lập đền thờ để. cầu thần phù hộ. v ề thứ 21 (1490), vua Lê Thánh Tông cho định sau, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về lại bản đồ cả nưốc, gồm 13 xứ Thừa tuyên Thăng Long, cho tu sửa thành Đại La, (sau đổi là trấn). Đến lúc đó mới xuất hiện nhưng công việc trầy trậ t mãi không xong. tên gọi các trấn như: Kinh Bắc, Sơn Nam, Vua thân đến đền cầu đảo thì thấy một con Hải Dương, Sơn Tây. Theo đó: ngựa trắng từ trong đền đi ra, phi một vòng 1. Trấn Kinh Bắc gồm bôn phủ (20 quanh thành, đánh dấu những chỗ cần huyện), thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Bắc phải xây. Nhờ đó, thành được xây xong. Giang và Phúc Yên sau này. Cụ thể, đó là Vua liền sắc phong cho thần là Quốc đô các huyện: Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Thành hoàng đại vương, hiệu là Quảng Lợi Du, Võ Giàng, Quế Dương (năm huyện Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần. Vì đền thuộc phủ Từ Sơn); Gia Lâm, Siêu Loại, ở phía đông kinh thành nên còn gọi là trấn Văn Giang, Gia Định, Lang Tài (năm Đông hay trấn Chấn (chấn, theo bát quái, huyện thuộc phủ Thuận An); Kim Hoa, thuộc phương Đông). Hiệp Hoà, Yên Việt, Tân Phúc (bôn huyện thuộc phủ Bắc Hà) và cuối cùng là: Phượng 4. Đền Voi Phục (đúng ra là đền Thủ Nhãn, Hữu Lũng, Yên Dũng, Bảo Lộc, Yên Lệ) xưa thuộc trại Thủ Lệ, phường Thi Thế, Lục Ngạn (sáu huyện thuộc phủ Lạng Trai, huyện Vĩnh Thuận, nay nằm cạnh Giang). Vì trấn lị ở Đáp cầu , huyện Võ vườn thú Thủ Lệ, quận Ba Đình, thành phô' Giàng (phía bắc kinh thành) nên Kinh Bắc Hà Nội. Đền thờ hoàng tử Linh Lang, con cũng được gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm. của vua Lý Thái Tông (1028 - 1054) và bà 2. Trấn Sơn Nam gồm 11 phủ (42 thứ phi thứ 9 Dương Thị Quang, nhưng huyện), tương đương với các tỉnh: Hà Đông, tương truyền vốn là con của Long Quân, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình tên gọi là Hoàng Châu thác sinh. Là người và Hưng Yên sau này. Cụ thể, đó là các có công trong cuộc kháng chiến chông quân huyện: Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú xâm lược nhà Tông và đã hi sinh trên Xuyên (ba huyện thuộc phủ Thường Tín); phòng tuyến sông c ầ u vào năm 1076. Sau Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài khi mất, hoàng tử được người dân Thủ Lệ An (bôn huyện thuộc phủ ứ n g Thiên); Nam lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Xang, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Linh Lang đại vương thượng đẳng phúc Bình Lục (năm huyện thuộc phủ Lí Nhân); thần. Thần đã nhiều lần âm phù, giúp nhà Đông An, Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi, Trần trong cuộc kháng chiến chông quân Phù Dung (năm huyện thuộc phủ Khoái xâm lược Nguyên —Mông và nhà Lê trong Châu); Nam Chân, Giao Thuỷ, Mĩ Lộc, cuộc Trung hưng. Vì trưốc cửa đền có đắp Thượng Nguyên (bôn huyện thuộc phủ hai con voi quỳ nên dân quen gọi là đền Voi Thiên Trường); Đại An, Vọng Doanh, Thiên Phục và vì đền nằm ở phía tây kinh thành Bản, Ý Yên (bôn huyện thuộc phủ Nghĩa nên còn được gọi là trấ n Tây hoặc trấn Đoài Hưng); Thuỵ Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi, (đoài, theo bát quái, thuộc phương Tây). Đông Quan (bôn huyện thuộc phủ Thái
  3. 76 PHÙNG THÀNH CHỦNG - THĂNG LONG... Bình); Ngự Thiên, Duyên Hà, Thần Khê, Oai). Vì trấn lị ở phía tây kinh thành nên Thanh Lan (bôn huyện thuộc phủ Tân Sơn Tây cũng được gọi là trấn Tây hay trấn Hưng); Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định (ba Đoài. huyện thuộc phủ Kiến Xương); Gia Viễn, Đến đây, chúng ta có thể thấy, cho đến Yên Mô, Yên Khang (ba huyện thuộc phủ trưóc năm 1490, các trấn Kinh Bắc, Sơn Trường An) và cuốỉ cùng là: Phụng Hoá, An Nam, Hải Dương và Sơn Tây chưa được Hoá, Lạc Thổ (ba huyện thuộc phủ Thiên biết đến như một đơn vị hành chính (mà cụ Quan). Vì trấn lị ở phía nam kinh thành thể ở đây là đơn vị “trấ n ” trong trường hợp nên Sơn Nam cũng được gọi là trấn Nam đang xét). Điều đó cũng đồng nghĩa với hay trấn Li. việc, cho đến trưởc năm 1490, nội hàm của 3. Trấn Hải Dương gồm bốn phủ (18 cụm từ “Thăng Long tứ trấ n ” chỉ là để chỉ huyện), bao gồm các tỉnh: Hải Dương, Hải bốn ngôi đền: Trấn Vũ, Kim Liên, Bạch Mã Phòng và Kiến An sau này. Cụ thể, đó là và Voi Phục, còn “tứ trấ n ” với nghĩa là bôn các huyện: Đường Hào, Đường An, cẩm kinh trấn: Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương Giàng (ba huyện thuộc phủ Thượng Hồng); và Sơn Tây là nghĩa phái sinh sau năm Gia Phúc, Tứ Kì, Thanh Miện, Vĩnh Lại 1490. Như vậy, vấn đề cách hiểu nào đúng, (bôn huyện thuộc phủ Hạ Hồng); Thanh cách hiểu nào sai (được đặt ra ở đầu bài Hà, Thanh Lâm, Tiên Minh, Chí Linh (bôn viết) lại được đặt ra với chính từ “trấn ” huyện thuộc phủ Nam Sách) và cuối cùng (nghĩa gốc và nghĩa phái sinh). Trong từng là: Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghi trường hợp cụ thể, nếu “trấ n ” (trong cụm từ Dương, Kim Thành, Thuỷ Đường, An “Thăng Long tứ trấ n ”) được hiểu theo nghĩa Dương (bảy huyện thuộc phủ Kinh Môn). gốc thì đó là bốn ngôi đền, còn nếu được Vì trấn lị ở phía đông kinh thành nên Hải hiểu theo nghĩa phái sinh thì đó là bổn Dương cũng được gọi là trấ n Đông hay trấn kinh trấn.D Chấn. P.T.C 4. Trấn Sơn Tây gồm sáu phủ (24 huyện), tương đương với các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên và Sơn Tây sau này. Cụ thể, đó là TẢI LIỆU THAM KHẢO các huyện: Từ Liêm, Phúc Lộc, Yên Sơn, 1. Quốc sử quân triều Nguyễn (1957, 1958, Thạch Thất, Đan Phượng (năm huyện 1959), Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Văn thuộc phủ Quốc Oai); An Lãng, An Lạc, sử địa, Hà Nội. Bạch Hạc, Tiên Phong, Lập Thạch, Phù 2. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Khang (sáu huyện thuộc phủ Tam Đái); Nam nhất thống chi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Sơn Vi, Thanh Ba, Hoa Khê, Hạ Hoà (bôn Nội. huyện thuộc phủ Lâm Thao); Đông Lan, 3. Nguyễn Văn Tân (1998), Từ điển địa Tây Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam danh lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội. Dương (năm huyện thuộc phủ Đoan Hùng); Tam Nông, Bất Bạt (hai huyện thuộc phủ Đà Dương) và cuôì cùng là: Mĩ Lương, Minh Nghĩa (hai huyện thuộc phủ Quảng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2