43
Pgs,ts nguyễn văn mạnH - tHs. nguyễn tHị mỹ Lộc
TIẾP CẬN VĂN HÓA KINH DOANH VIỆT NAM
DƯỚI GÓC ĐỘ NHÂN HC
PGS.TS NGUyễN VĂN MạNH,
ThS. NGUyễN THỊ Mỹ LỘC
Đại học Khoa học Huế
TÓM TẮT
Sau khi phân tích các học thuyết về văn hóa kinh doanh trong Nhân học, báo cáo
tập trung trình bày những đặc điểm nổi bật của văn hóa kinh doanh Nhật Bản, đất
nước đã tạo dựng cho mình một thương hiệu văn hóa kinh doanh những giá trị
của nó đáng để chúng ta học tập và suy ngẫm. Tiếp đến, báo cáo nêu lên những đặc
điểm văn hóa kinh doanh của Việt Nam trong lịch sử những thành tựu của nó, như
sự thông minh, cần cù, khéo léo, tinh thần học hỏi, sáng tạo không ngừng, tinh thần
dũng cảm, dám mạo hiểm, ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tinh thần
quyết đoán trong công việc... cũng như những hạn chế trong văn hóa kinh doanh
của nước ta, như làm ăn nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp, thiếu học hỏi/ tiếp nhận kinh
nghiệm thế giới một cách bài bản, tầm nhìn hạn chế, xem nhẹ chữ tín, thiếu tính liên
kết, nặng về lợi ích cá nhân…
Văn hóa kinh doanh việc sử
dụng các nhân tố văn hóa vào
hoạt động kinh doanh, cái
các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra
trong quá trình hình thành nên những giá trị
tính ổn định đặc thù trong hoạt động
kinh doanh của mình. Đây một phạm trù
rộng lớn, có nhiều mối quan hệ tác động qua
lại hết sức đa dạng, phức tạp, và việc tìm hiểu
được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Đạo đức học tiếp cận văn hóa kinh doanh
những chuẩn mực giá trị làm người; Kinh tế
học tiếp cận nó dưới dạng cách ứng xử để có
được lợi nhuận cao trong kinh doanh; Nhân
học tiếp cận theo một tiến trình phát triển
trong sự đối sánh văn hóa kinh doanh giữa
dân tộc này với dân tộc khác. Với nhận thức
đó, chúng tôi bài viết này qua tập trung tiếp
cận văn hóa kinh doanh Việt Nam dưới góc
độ Nhân học: Từ những lý thuyết về trao đổi,
kinh doanh đến những bài học kinh nghiệm
về văn hóa kinh doanh của Nhật Bản - đất
nước đã tạo dựng cho mình một thương hiệu
văn hóa kinh doanh những giá trị của
đáng để chúng ta học tập suy ngẫm,
cuối cùng văn hóa kinh doanh của Việt
Nam trong lịch sử.
1. Một số lý thuyết về trao đổi kinh
doanh trong Nhân học.
Với Nhân học Âu Mỹ, các học thuyết
tiếp cận đến việc phân phối, trao đổi kinh
doanh trong lịch sử đã hình thành từ rất sớm.
Chúng ta thể xem xét một số học thuyết
sau:
- Thuyết Kinh tế Tân cổ điển (Neoclassical
economics) của Adam Smith: Thuyết này
ra đời vào những năm đầu sau khi nền công
nghiệp bản phát sinh Tây Âu. Các nhà
kinh tế Tân cổ điển cho rằng, một trong
những nhân tố bản tạo nên sự khác biệt
giữa hội phong kiến hội TBCN
vấn đề trao đổi và kinh doanh. Theo họ trong
hội phong kiến, việc kinh doanh phân
phối hàng hóa chỉ tập trung vào nhóm địa
vị hội cao họ quyền được hưởng
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
44
nhiều hàng hóa, còn người dân địa vị thấp
việc tiếp nhận phân phối hàng hóa ít hơn. Rõ
ràng, văn hóa kinh doanh trong xã hội phong
kiến không dựa trên sự trao đổi phân phối
sòng phẳng, dựa trên quyền lực địa vị
hội. Trong khi đó, ở xã hội tư bản, hoạt động
kinh doanh trao đổi sản phẩm được thương
lượng giữa người mua và kẻ bán trên thương
trường, văn hóa kinh doanh đây sự tác
động giữa người bán người mua một cách
tự do, nhưng đảm bảo “các nhà cung cấp đưa
ra các mặt hàng được ưa chuộng với giá đủ
cao để li nhưng lại vừa túi tiền ngưi
mua1. đây văn hóa kinh doanh/ quan hệ
kinh doanh có một tầm quan trọng mang tính
quyết định đến sự kích cầu sản xuất trong
hội bản, điều trước đó trong thời đại
phong kiến, không thể có được.
- Thuyết Phân phối trao đổi theo Chủ
nghĩa hình thức (Formalism): Thuyết này
hình thành sau chiến tranh thế giới II nhằm
giải thích quan hệ trao đổi kinh doanh
trong các hội ngoài phương Tây, các
dân tộc thuộc địa. Theo thuyết này các
hội ngoài phương Tây không “thị trường
tự do” như phương Tây, việc trao đổi
các hội ngoài phương Tây này thường theo
mô thức quan hệ thân tộc, láng giềng, bạn
thân thiết2, nó bị gò bó bởi nhiều giới hạn của
xóm làng. ràng thuyết theo chủ nghĩa hình
thức đã lấy hình của phương Tây về phân
phối, trao đổi và kinh doanh áp dụng cho các
hội ngoài phương Tây. Theo thuyết Chủ
nghĩa hình thức, các hội ngoài phương
Tây, nền kinh doanh tự do đã bị bóp nghẹt
ràng buộc bởi các định chế hội mang
tính truyền thống, những định chế này đã rút
tỉa lợi nhuận nhân để làm lợi cho tập thể3.
- Thuyết Bản thể luận (Substantialism):
1 Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda 2001, tr.421
2 đây, việc trao đổi mua bán trong hôn nhân thông
qua đồ sính lễ cũng được coi một trường hợp đặc
biệt của quan hệ phân phối trao đổi diễn ra theo
thức bị gò bó bởi nhiều giới hạn.
3 Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda, 2001, tr.423
Thuyết này ra đời vào thập niên 60-70 của
thế kỷ XX; Karl Polanyi và những người theo
luận thuyết này không đồng tình với những
nhà nhân học theo Chủ nghĩa hình thức
những người đã lấy cấu trúc phân phối trao
đổi kinh doanh phương Tây áp đặt cho
các hội bên ngoài phương Tây. Các nhà
nhân học theo thuyết Bản thể luận cho rằng
quan hệ trao đổi trên thị trường TBCN chỉ
một trong nhiều kiểu trao đổi hàng hóa khác
nhau tồn tại trong lịch sử hội loài người.
Theo họ các xã hội bản phương Tây tồn
tại quan hệ phân phối của cải theo cách phù
hợp với những giá trị cơ bản trong xã hội đó;
còn ở những xã hội phi tư bản ngoài phương
Tây, lại những quan hệ trao đổi hàng hóa
theo cách phù hợp với những giá trị bản
của hội đó. nghĩa là, theo thuyết này,
hình thức kinh doanh trao đổi hàng hóa bắt
rễ, sản sinh trong xã hội mà chúng xuất hiện.
sản phẩm của một môi trường văn hóa
nhất định, không nên đồng nhất phương thức
kinh doanh trao đổi hàng hóa của phương Tây
với các nước ngoài phương Tây như những
nhà Nhân học theo Chủ nghĩa hình thức đề
xướng. Karl Polanyi đã trình bày ba phương
thức trao đổi hàng hóa trong lịch sử nhân loại:
đó là Tương hỗ, Phân phối lại và Thị trường.
Phương thức quan hệ trao đổi Tương hỗ
xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người.
Trong quan hệ này có ba hình thức: 1. Tương
hỗ gián tiếp/ tương hỗ không cân xứng - hình
thức trao đổi hai bên liên quan không
cần một sự trao đổi tương xứng (đây thường
sự trao đổi giữa những người trong dòng
tộc, gia đình, anh em và là một hình thức trao
đổi chủ yếu trong hội sống bằng săn bắn,
đánh cá, hái lượm); 2. Trao đổi tương hỗ cân
xứng - loại trao đổi mà trong đó những người
tham gia được đáp ứng những vật phẩm cùng
giá trị; 3. Tương hỗ tiêu cực quan hệ trao
đổi hàng hóa theo đó một bên trao đổi
không nhận được những giá trị tương xứng
(hình thức trao đổi này chịu ảnh hưởng của
những định chế hội, được coi sự tước
45
Pgs,ts nguyễn văn mạnH - tHs. nguyễn tHị mỹ Lộc
đoạt công khai sản phẩm của người khác dựa
trên quyền lực xã hội).
Quan hệ trao đổi thứ hai Phân phối lại:
Hình thức trao đổi này tồn tại trong những
thiết chế hội mang tính cộng đồng; những
người giữ địa vị chủ chốt trong cộng đồng
nhận những sản phẩm kinh tế của các thành
viên trong xã hội và “họ có trách nhiệm phân
phối lại những họ nhận được để cung cấp
cho mọi thành viên trong nhóm4.
Quan hệ trao đổi thứ ba Trao đổi thị
trưng, ra đời trong hội TBCN, chủ nghĩa
bản bao hàm sự trao đổi hàng hóa (tức
thương mại) được tính toán trên sở một
phương tiện trao đổi đa năng tiêu chuẩn
đo lưng giá trị (là tiền) được tiến hành
theo cơ chế giá – cung cầu (tức thị trưng)”5.
Nhưng, theo thuyết Bản thể luận, quan hệ
kinh doanh trao đổi hàng hóa một hoạt
động bén rễ trong các định chế văn hóa khác
nhau5. vậy, quan hệ kinh doanh trao đổi
hàng hóa cũng không phải mẫu số chung
cho tất cả các quốc gia/ dân tộc trên thế giới,
rằng các định chế văn hóa dân tộc này
trong sự đối sánh với dân tộc khác lại luôn tồn
tại những điểm tương đồng và dị biệt.
2. Văn hóa kinh doanh Nhật Bản.
Nhật Bản là một quốc gia thuộc khu vực
Đông Á, chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh
Trung Hoa, nhưng đến thời cận đại lại tiếp
nhận/ học hỏi nhanh chóng văn minh phương
Tây, đặc biệt là tiếp nhận các giá trị đặc trưng
của kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, cái đáng nói
đây Nhật Bản đã tiếp nhận kinh tế thị
trường phương Tây trên nền các giá trị văn
hóa truyền thống, để làm hình thành văn hóa
kinh doanh theo kiểu Nhật Bản. Văn hóa
kinh doanh theo kiểu Nhật Bản suy cho cùng
bắt nguồn từ quy luật của kinh tế thị trường:
Hàng hóa Giá – Cung cầu, có nghĩa là, cái
quyết định đầu tiên phải cung cấp được
các sản phẩm hàng hóa giá trị cao cho thị
4 Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda, 2001, tr.425
trường, để cạnh tranh thu hút người mua.
Bên cạnh đó, văn hóa kinh doanh còn bao
gồm những đặc tính văn hóa dân tộc để thúc
đẩy một cách hiệu quả quá trình giao lưu
hàng hóa. Người Nhật đã tạo nên một kiểu
văn hóa kinh doanh như vậy - kiểu văn hóa
kinh doanh bắt nguồn từ văn hóa dân tộc, đặc
tính, tâm lý dân tộc Nhật.
Trước hết, văn hóa kinh doanh của người
Nhật bắt nguồn từ đặc tính “để ngỏ” trong sự
kết hợp hài hòa, thiện cảm, giữa truyền thống
với cái lạ, cái mới5. Điều này dẫn đến một yêu
cầu nội tại thúc trong xã hội Nhật Bản là phải
hòa nhập với thế giới bên ngoài để học hỏi
những cái hay cái đẹp. Nhưng không giống
như người Việt Nam, nói như Phan Ngọc,
người Nhật đã từ bỏ con đường cũ, chuyển
toàn bộ tài năng nghị lực sang con đường
kinh tế doanh nghiệp theo kiểu bricolagie
(cấu trúc lại) cái bên ngoài (phương Tây),
nhưng cách cấu trúc lại của họ một sự thâm
nhập vào khoa học, kỹ thuật dùng “mực,
nước mắt máu” (trí tuệ, đau đớn chết
chóc), còn ta về bản cấu trúc lại vẫn dựa
trên chất liệu dân biện pháp thủ công6.
Chính văn hóa ham học hỏi “để ngỏ” đó
đã giúp cho người Nhật kiềm chế được cái tôi
của mình, để học hỏi, chiếm lĩnh được những
thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại,
tạo nên được những sản phẩm công nghệ cao,
sánh vai với các nước Âu - Mỹ đáp ứng
những nhu cầu của người tiêu dùng/của nhu
cầu thị trường.
Một trong những yếu tố sở của văn
hóa kinh doanh Nhật Bản cần phải nói đến
đây là nền tảng tính cách dân tộc Nhật. Đó là
tính cách lao động quên mình, điềm tĩnh đến
nhẫn nại, hứng thú đến say mê, nghiêm khắc
với chính mình, đến tính kỷ luật cao trong
công việc. Những đặc tính đó tập hợp trong
5 Văn hóa Nhật Bản một hệ thống văn hóa vững
chãi, nhưng để ngõ, khác với kiểu Ấn Độ, Trung Quốc,
vững chãi theo kiểu khép kín, chịu ảnh hưởng nước
ngoài một cách khiên cưỡng.
6 Dẫn theo Trần Ngọc Vương, 2005, tr.5
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
46
các nguyên tắc sống của người Nhật là: hãy
chấp nhận hoàn cảnh dù hoàn cảnh đó nghiệt
ngã thế nào chăng nữa; hãy tìm cơ hội để học
hỏi; hãy kiềm chế mình; hãy coi chính mình
nguyên nhân của sự nghèo đói bất hạnh7.
Nhật phổ biến câu thành ngữ: Samurai
lạnh lùng như thanh kiếm của chàng, mặc dù
chàng không quên ngọn lửa đã rèn nên thanh
kiếm đó8. Quả vậy, tính điềm tĩnh, nhẫn nại
nhiệt huyết say sáng tạo, ham học hỏi
những phẩm chất trong con người Nhật,
giúp họ gặt hái được những thành công trong
sáng tạo ra các sản phẩm hàng hóa công nghệ
cao độ chính xác hoàn hảo đáng kinh
ngạc9.
Một yếu tố khác tạo nên sự thành công
trong kinh doanh của người Nhật bắt nguồn
từ văn hóa trọng Tín để tạo nên uy tín và niềm
tin trong cuộc sống nói chung và trên thương
trường nói riêng. Tín để tự mình nghiêm khắc
trong sáng tạo ra sản phẩm hàng hóa mang tên
Made in Japan, tín để cho người khác/ khách
hàng tin mình, tín để cho quan hệ buôn bán
được bền vững/ lâu dài. Văn hóa trọng tín
người Nhật bắt nguồn từ sự giáo dục nghiêm
ngặt trong gia đình ngoài hội. Bao giờ
người Nhật cũng giáo dục con em mình hướng
đến những giá trị cao cả của người có uy tín,
và cho đến nay, “tôn kính ngưi có uy tín vẫn
còn được duy trì bằng các cách khác nhau và
được coi một chuẩn tắc hội10. Thêm
vào đó, văn hóa trọng tín của người Nhật còn
được bồi đắp bằng đạo Khổng. Nói như GS.
Lương Ninh, người Nhật rất thực tế. Họ đã
từng Nho học, theo Nho giáo để giáo dục ý
thức bổn phận và sự ứng xử trọng tín hợp lý,
đồng thời duy trì yếu tố Thần đạo để giáo dục
ý thức phục tùng, đạo để rèn luyện bản
7 V. A Pronnikov và I.D. Ladanov,trong: Phân tâm học
và tính cách dân tộc, tr. 332.
8 V. A Pronnikov và I.D. Ladanov, trong: Phân tâm học
và tính cách dân tộc, tr. 331
9 V. A Pronnikov và I.D. Ladanov, trong: Phân tâm học
và tính cách dân tộc, tr.335
10 V. A Pronnikov I.D. Ladanov, trong: Phân tâm
học và tính cách dân tộc, tr. 328
thân, tinh thần tự trọng và đề cao Phật giáo để
giáo dục tinh thần nhẫn nại, khắc kỷ; tóm lại
cái gì có lợi thì họ không bỏ11.
Một nhân tố tạo nên sự thành công trong
kinh doanh của người Nhật phải nói đến
đây nữa tâm lý liên kết hiệp hội cộng đồng.
Nhật Bản tồn tại phổ biến các tổ chức gọi
kyodotai (liên hiệp cộng đồng). Các tổ chức
này phần lớn ra đời do nhu cầu liên kết/hợp
tác tập thể các công việc, nhất công việc
kinh doanh, một liên hiệp bao gồm cả một
địa phương nhất định, thể liên kết cả đơn
vị làng các nghiệp. Trong tổ chức đó
người đứng đầu bảo trợ các thành viên
khác theo quy chế người đứng đầu hiệp hội
Oyabun, như vai trò người cha, người chủ gia
đình các nhóm Kobun, như sự liên kết
của từng thành viên, từng nhân của hiệp
hội. Quan hệ Oyabun Kobun Nhật Bản
gần giống với quan hệ các phường hội để liên
kết hỗ trợ nhau trong sản xuất hàng hóa. Theo
đó từ ông chủ/ người cha - Oyabun đến nhân
viên/ người con - Kobun đều cần cù, nghiêm
túc trong công việc. Những công nhân Nhật
vậy truyền thống gắn suốt đời với
công ty của mình, quen đặt cái tôi của mình
dưới lợi ích nhóm12. Kiểu hình thức quan hệ
kinh doanh theo kiểu gia tộc này đã mang
đến những thành công đáng kể cho kinh tế
Nhật Bản13. Với sự lựa chọn khôn ngoan đó,
người Nhật đã làm cho văn hóa kinh doanh
hòa nhập với bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó
sáng tạo ra hệ thống văn hóa kinh doanh độc
đáo kiểu Nhật Bản.
Như vậy, tính “để ngỏ” trong tiếp nhận
văn hóa, cách lao động quên mình, điềm tĩnh
đến nhẫn nại, hứng thú đến say mê, nghiêm
khắc với chính mình, đến tính kỷ luật cao
trong công việc, trọng tín trong kinh doanh,
11 Lương Ninh, 2009, tr. 45
12 V. A Pronnikov I.D. Ladanov, trong: Phân tâm
học và tính cách dân tộc, tr.326, 327
13 Nhật Bản đã biết gạt bỏ chủ nghĩa nhân chủ
nghĩa tự do vốn là cơ sở kinh doanh Âu - Mỹ để giữ lại
văn hóa kinh doanh kiểu gia tộc.
47
Pgs,ts nguyễn văn mạnH - tHs. nguyễn tHị mỹ Lộc
thói quen liên kết thành các hiệp hội…
những đặc điểm chủ yếu của văn hóa kinh
doanh Nhật Bản. Những đặc điểm văn hóa
đó đã góp phần tạo nên sự thành công nổi bật
trong nền kinh tế của đất nước này, sự thành
công đáng để cả thế giới suy ngẫm.
3. Văn hóa kinh doanh Việt Nam
Như vậy văn hóa kinh doanh không phải
mẫu số chung áp đặt cho mọi quốc gia.
Mỗi dân tộc trên sở truyền thống văn hóa
của mình, cùng kết hợp với những nhịp điệu
chung của kinh tế thị trường để tạo dựng cho
mình một sắc thái văn hóa kinh doanh riêng14.
Văn hóa kinh doanh Việt Nam vì vậy phải bắt
nguồn từ văn hóa dân tộc kết hợp với những
nhu cầu chung của kinh tế thị trường. Trước
hết, văn hóa kinh doanh phải được hiểu
tổng hòa các giá trị đạo đức, tính cách, lối
sống của một dân tộc, kết hợp với triết kinh
doanh. Văn hóa kinh doanh lấy việc phát
triển toàn diện con ngưi làm mục tiêu cuối
cùng. Cốt lõi của văn hóa kinh doanh tinh
thần doanh nghiệp quan điểm giá trị của
doanh nghiệp15.
Phải nói rằng, kinh doanh văn hóa
kinh doanh nước ta hình thành khá muộn.
Mãi đến những năm 90 của thế kỷ XX nước
ta mới chuyển đổi sang chế thị trường
cũng từ kinh doanh, văn hóa kinh doanh
mới dần được hình thành. Điều đáng quan
tâm văn hóa kinh doanh nước ta được
hình thành trên nền nông dân – nông nghiệp –
nông thôn, hay như GS Trần Quốc Vượng đã
từng nói “Dân – dân – dân làng (3D)”16.
vậy, trong các nghề lập thân nghề buôn
bán không được ông cha ta coi trọng - họ
xếp thứ tự: “sĩ, nông, công, thương”; buôn
bán nước ta trước đây cũng chỉ trao đổi
14 Ví dụ, suy tôn tự do, chú trọng tính hiệu quả, khuyến
khích năng lực cá nhân đặc trưng của văn hóa kinh
doanh nước Mỹ.
15 Đinh Công Tuấn, TC. Cộng Sản, 10/2012.
16 Trần Quốc Vượng, 2000, trong: Tâm người Việt
Nam, nhìn từ nhiều góc độ, tr. 114.
hàng hóa giản đơn, hoặc vật đổi vật, hoặc vật
ngang giá, hoặc thông qua tiền tệ, với hình
thức chợ làng/ chợ quê, chợ phiên… trong
phạm vi làng, liên làng, vùng miền chính.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
hình thành văn hóa kinh doanh ở nước ta.
Phải thừa nhận rằng trong gần 30 năm
(từ năm 1986), sau ngày đất nước ta chuyển
đổi nền kinh tế sang chế thị trường, một
đội ngũ đông đảo, gần 400.000 doanh nghiệp
Việt Nam đã hình thành ít nhiều đạt được
những thành tựu đáng kể trong hoạt động
kinh doanh, góp phần đưa nền kinh tế đất
nước hội nhập với thế giới. Hoạt động kinh
tế của đội ngũ doanh nghiệp ở nước ta đã làm
hình thành dần đặc tính văn hóa kinh doanh
Việt Nam. Văn hóa kinh doanh Việt Nam
được thể hiện trước hết nền tảng tính cách
dân tộc, được đúc kết trong tính cách của đội
ngũ doanh nghiệp. Đó sự thông minh, cần
cù, khéo léo; tinh thần học hỏi, sáng tạo
không ngừng; lòng dũng cảm, dám mạo
hiểm, chấp nhận rủi ro; tính quyết đoán
trong công việc,… Nhờ đó, không ít doanh
nghiệp Việt Nam đã trưởng thành, trụ vững
và phát triển mạnh mẽ.
Tuy vậy, do xuất phát điểm một nền
kinh tế tiểu nông, với lối làm ăn nhỏ lẻ, manh
mún, tiểu ngạch... nên ảnh hưởng không
nhỏ đến tâm lý, tính cách của đội ngũ doanh
nghiệp và tồn tại nhiều mặt trái trong văn hóa
kinh doanh Việt Nam. Những mặt trái đó
thể được đề cập đến ở đây như:
- Làm ăn nhỏ lẻ thiếu tính chuyên
nghiệp
Do người Việt Nam không quen hạch
toán lường tính xa; bình quân/ chia đều
đã trở thành một phương thức hữu hiệu duy
trì mối quan hệ hòa đồng trong làng xã.
vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vốn kém
thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế do
cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi