Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG…………………….



TIỂU LUẬN

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Chương I .Các rủi ro trong sinh sản [10]

1

1.Vô sinh a. Khái niệm:

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Vô sinh là mất hoặc thiếu khả năng sinh sản khi hai người chung sống và có quan hệ trong vòng 2 năm. Biểu hiện là không thấy thụ thai, hoặc có thụ thai nhưng lần nào cũng sẩy.

Hiện nay vô sinh khá phổ biến chiếm tỷ lệ 10-15%. Có hai loại vô sinh:

Vô sinh nguyên phát : chưa có thai lần nào sau 2 năm chung sống. Vô sinh thứ phát : có thai 1 lần và không có thai lại sau 2 năm chung sống.

b. Nguyên nhân gây vô sinh:

 Rượu có tác hại đến thai nhi, nhưng khi nữ uống rượu vừa phải có lẽ không tác hại đến khả năng thụ thai. Nam uống rượu quá nhiều sẽ làm giảm khả năng sinh sản.

 Nữ hút thuốc lá nhiều sẽ bị giảm khả năng thụ thai và sớm mãn kinh. Ở nam,

thuốc lá cũng là một tác nhân ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.

 Cà phê chưa có đủ chứng cứ khoa học cho rằng có ảnh hưởng đến khả năng

thụ thai.

 Phụ nữ quá béo phì thường bị chứng không rụng trứng, và nếu có rụng trứng sẽ ít khả năng thụ thai. Chứng béo phì ờ nam không có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.

Những yếu tố gây vô sinh ở phái nữ:

 Bất thường trong chu kỳ rụng trứng  Bất thường trong ống dẫn trứng  Lạc nội mạc tử cung

Ngoài ra những yếu tố sau đây có thể làm thai khó đậu hoặc dễ hư thai:

 Tuổi trên 37  U tử cung  Bướu trong tử cung  Bất thường cấu trúc tử cung

Những yếu tố gây vô sinh ở phái nam:

 Tinh trùng chất lượng và số lượng kém, di động kém.  Tinh dịch chất lượng kém và thể tích kém.

2

Nguyên nhân do nữ Nguyên nhân do nam 30-40% các trường hợp 30% các trường hợp

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

10-15% các trường hợp

Nguyên nhân có cả nam lẫn nữ 20% các trường hợp Không tìm thấy nguyên nhân c. Phương pháp điều trị:

- Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (thụ tinh nhân tạo): Tinh trùng được chọn lọc và bơm vào buồng tử cung người vợ cho những trường hợp vô sinh chưa rõ nguyên nhân, cổ tử cung bất thường.

- Kích thích buồng trứng.

- Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTÔN): Tinh trùng của người chồng và trứng của người vợ được thụ tinh trong phòng thí nghiệm, sau đó phôi được cấy vào tử cung người vợ. Áp dụng cho các trường hợp tắc và tổn thương vòi trứng, vô sinh không rõ guyên nhân, bất thường tinh trùng nhẹ.

- Xin trứng, TTTÔN: Tinh trùng của người chồng và trứng của người cho được thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó được cấy vào tử cung người vợ. Áp dụng cho những người bị suy buồng trứng sớm, bị cắt 2 buồng trứng.

- Xin tinh trùng: Cho các trường hợp không có tinh trùng.

- Mang thai hộ: Tinh trùng của người chồng và trứng của người vợ được TTTÔN, sau đó cấy phôi vào người mang thai hộ. Áp dụng cho những trường hợp người vợ không thể mang thai do bệnh lý, tử cung bị bất thường, dị dạng.

- ICSI và MESA ICSI: Áp dụng cho trường hợp người chồng không có tinh trùng trong tinh dịch do bị tắc nghẽn đường dẫn tinh. ICSI là phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm bằng cách tiêm tinh trùng vào bào tương trứng. Còn trong MESA ICSI, người chồng sẽ được mổ để lấy tinh trùng, đồng thời người vợ được chọc hút lấy trứng, sau đó thực hiện các thủ thuật TTTÔN.

- Canh ngày rụng trứng và giao hợp xung quanh thời điểm đó: Áp dụng với những cặp vợ chồng trẻ mới phát hiện bị vô sinh, nguyên nhân chưa rõ ràng.

2. Thai ngoài dạ con

a. Khái niệm: Chửa ngoài tử cung là trường hợp trứng không làm tổ ở buồng tử cung mà trứng làm tổ ở bất kì nơi nào trên đường đi của nó.

3

- Vòi trứng chiếm 95%

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Chửa trên bề mặt buồng trứng chiếm 3%

- Chửa trong ổ bụng chiếm 2%

b. Nguyên nhân

Tất cả những yếu tố làm chậm trễ hay ngừng di chuyển của trứng thụ tinh vào trong tử cung đều là nguyên nhân gây thai ngoài tử cung. Thông thường, có 3 nhóm nguyên nhân chính gây nên hiện tượng này.

Nhóm 1: Viêm nhiễm vòi trứng

Viêm nhiễm vòi trứng sẽ gây tắc, hẹp vòi trứng và dễ gây ra tình trạng thai ngoài tử cung. Viêm nhiễm vòi trứng thường do bệnh lây truyền qua đường tình dục gây nên như: trực khuẩn lậu hay bệnh do chlamydia trachomatis. Trước khi bị viêm phần phụ, bệnh nhân thường bị bít vòi trứng hoàn toàn dẫn đến vô sinh. Nạo phá thai cũng là một nguyên nhân gây viêm nhiễm vòi trứng.

Nhóm 2:

Các bệnh phụ khoa như: Khối u phần phụ, dị dạng bẩm sinh vòi trứng… Vòi trứng có thể bị tắc hoặc hẹp bởi bệnh lạc nội mạc tử cung, khối u phần phụ chèn ép vòi trứng, những phẫu thuật lên vùng bụng gây dị dạng vòi trứng như: vòi trứng bị kéo dài, bị gập góc… hoặc những tác động trực tiếp lên vòi trứng từ trước như: triệt sản, nối vòi trứng…

Vòi trứng còn có thể bị tắc, hẹp bẩm sinh. Ngoài ra, hẹp vòi trứng có thể do:

- Dị dạng bẩm sinh vòi trứng.

- Bệnh lạc nội mạc tử cung.

- Khối u phần phụ chèn ép vòi trứng.

- Những phẫu thuật ở vòi trứng trước đó như: triệt sản, nối vòi trứng.

Nhóm 3: Chất nicotin

Các nghiên cứu cho thấy, thuốc lá không chỉ làm chậm và khó thụ thai, sảy

4

thai tự nhiên mà còn gây nên hiện tượng thai ngoài tử cung ở các thai phụ.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Chất nicotin có trong thuốc lá làm hỏng các nhung mao phủ trên các thành ống và làm giảm cử động của các vòi trứng, gây khó khăn cho quá trình trứng thụ tinh tiến về tử cung. Từ đó dẫn đến trứng làm tổ trong vòi trứng và phát triển thành thai ngoài tử cung, gây nguy cơ vỡ vòi trứng. Những phụ nữ hút từ 10 điếu thuốc/ngày trở lên có nguy cơ mắc chứng này gấp 1,5 lần người khác.

3. Chửa trứng

a. Khái niệm:

Chửa trứng là bệnh của tế bào nuôi do các gai rau thái hóa phồng lên tạo thành túi ối chứa dịch dính vào nhau như chùm nho. Thường toàn bộ tử cung chứa các túi dịch (như trứng ếch). Trong trường hợp chửa trứng, nhau thai phát triển thành khối không được kiểm soát. Đa số trường hợp không có bào thai, được gọi là "chửa trứng hoàn toàn", một số trường hợp có bào thai nhưng không sống được gọi là "chửa trứng bán phần".

b. Nguyên nhân:

Là hiện tượng thai nghén không bình thường, trong đó tổn thương đã làm trứng hỏng, gai rau vẫn được nuôi dưỡng bằng máu mẹ nên tiếp tục hoạt động chế tiết gây tinh dịch trong lớp đệm rau và tế bào nuôi tăng sinh.

c. Phương pháp điều trị:

Nạo sạch "trứng" với người có nhu cầu sinh con hoặc cắt tử cung đối với người không có nhu cầu sinh đẻ nữa. Sau khi xử trí chửa trứng, người bệnh cần xét nghiệm máu, nước tiểu 2 tuần/lần cho đến khi lượng HCG trở về bình thường.

Tiếp theo sẽ thử nước tiểu 4 tuần/lần. Thời gian theo dõi 6 tháng. Ngoài ra

trong các lần khám, có thể siêu âm nếu thấy cần thiết.

Nếu bệnh trở thành chửa trứng xâm nhập hoặc ung thư nhau thai, sẽ dùng

các phương pháp chữa bệnh sau:

 Chữa bằng hoá chất: dùng thuốc để diệt ung thư.  Chữa bằng phẫu thuật: ở một số trường hợp.  Chữa bằng tia xạ: dùng tia phóng xạ để diệt ung thư, chỉ trong một số

trường hợp.

5

4. Đa thai

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

a. Khái niệm:

Đa thai là sự phát triển đồng thời hai hay nhiều thai trong lòng tử cung người

mẹ. Có 2 loại đa thai:

Đa thai một trứng

Đó là hiện tượng khi chỉ có một noãn thụ tinh nhưng trong quá trình phát

triển chúng bị phân đôi hoặc phân ba, bốn…

Đặc điểm

Đa thai một trứng luôn cùng giới tính, giống y nhau về mặt di truyền và có đặc điểm sinh học rất giống nhau. Tuy vậy, trẻ đa thai cùng trứng vẫn có thể có các điểm khác biệt do môi trường ngoài gây ra, thí dụ như do mạch máu trong bánh nhau phân phối không đều cho các thai khiến một thai phát triển hơn thai kia.

Đa thai cùng trứng thường xảy ra ở giai đoạn phôi nang, khoảng cuối tuần thứ nhất và chia đôi mầm phôi thành hai hoặc nhiều phôi. Hệ quả là hai hoặc nhiều mầm phôi với các túi ối riêng, nhưng chỉ có một túi đệm và một bánh rau (nhau) chung.

Nếu sự phân chia diễn ra sớm khoảng một đến ba ngày sau khi thụ thai thì

các bé sẽ phát triển riêng biệt và đồng đều nhau.

Nếu sự phân chia diễn ra muộn hơn, từ khoảng ngày thứ 5 đến ngày thứ 10 sau khi thụ thai thì hai bé vẫn phát triển riêng biệt nhưng không đồng đều nhau, một thai có thể phát triển to béo, đôi khi phù nề, tăng hồng cầu; trong khi thai còn lại thì còi cọc, thiếu máu, thậm chí có thể teo và chết đi. Thường có sự thông thương tuần hoàn giữa hai thai nhi, do đó máu đến nuôi có thể dồn hẳn về một thai nhi, trong khi thai kia thì rất ít hoặc không được nuôi dưỡng.

Khi sự phân chia muộn hơn nữa, sự tách đôi không xảy ra hoàn toàn được nên còn một chỗ nào đó dính nhau: Hai bé có thể dính nhau ở một phần thân thể hoặc có chung một cơ quan, bộ phận nào đó. Các trường hợp này được gọi tên theo vị trí dính thai (thí dụ như song thai dính ở vùng ngực - thoracopagus, song thai dính nhau vùng chậu hông - ischiopagi).

6

Trường hợp mầm phôi tách đôi muộn (trong tuần lễ thứ 2) sẽ dẫn đến đa thai cùng trứng chỉ có một túi ối và một túi đệm. Các trường hợp này thai ít khi sống được do dây rốn rối nhiều, tuần hoàn máu qua dây rốn bị nghẽn và một hay cả hai

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

thai sẽ chết. Tỷ lệ đa thai cùng trứng có một ối chiếm tỷ lệ 1/4 trong tổng số các trường hợp song thai cùng trứng.

Đa thai khác trứng

Đây là trường hợp các thai nhi được sinh ra do việc thụ tinh bởi các trứng và tinh trùng khác nhau. Trứng có thể rụng từ một buồng trứng, hoặc từ hai buồng trứng. Tinh trùng có thể từ cùng một người đàn ông hoặc từ những người đàn ông khác nhau. Các trứng được thụ tinh có thể xảy ra trong cùng một lần giao hợp, hoặc các lần giao hợp khác nhau nhưng phải trong cùng một chu kỳ kinh nguyệt - do vậy còn gọi là sự bội thụ tinh đồng kỳ. Sự bội thụ tinh khác kỳ (các trứng thụ tinh ở các tháng khác nhau) chưa thấy xảy ra ở loài người.

Đặc điểm

Vì là các tinh trùng khác nhau thụ tinh với các trứng khác nhau, nên khi sinh ra các em bé này có thể khác nhau hoàn toàn, một trai, một gái, hoặc cũng có thể ngẫu nhiên cùng là con trai, hoặc cùng là con gái, nhưng sẽ không giống nhau như hai giọt nước mà chỉ là giống nhau như anh em một nhà thôi. Các trường hợp đa thai khác trứng có thể do yếu tố di truyền, yếu tố gia đình... và còn có thể do dùng thuốc kích thích rụng trứng trong khi điều trị vô sinh, làm cho hàng tháng không chỉ một trứng chín và rụng, mà có khi 2-3 trứng cùng chín và cùng rụng. Và nếu tất cả các trứng này đều may mắn gặp được "người hùng" của mình, thì khoảng 9 tháng sau, người mẹ sẽ cho ra đời không phải chỉ một bé mà là hai, ba bé.

Trẻ đa thai khác trứng có thể cùng giới hay khác giới, và như thế không giống nhau về mặt di truyền. Điểm chung duy nhất của chúng là nằm trong tử cung trong cùng một khoảng thời điểm.

7

Đa thai khác trứng luôn luôn có các túi ối và túi đệm riêng biệt, nhưng đĩa đệm và phần bánh rau (nhau) có thể riêng hoặc kết nhập chung lại với nhau.Trường hợp mầm phôi tách đôi sớm (giai đoạn từ 2-8 tế bào) thì hai thai có hai túi ối, 2 túi đệm và hai bánh rau riêng biệt. Hai bánh rau này có thể kết nhập hay không kết nhập lại thành một bánh. Trong trường hợp này rất khó phân biệt song thai cùng trứng với song thai khác trứng nếu chỉ dựa trên sự phân tích rau thai. Muốn xác định hai đứa trẻ sinh đôi có cùng giới tính, cùng nhóm máu có phải cùng trứng hay khác trứng chúng ta phải chờ cho chúng lớn lên khi đó dựa vào yếu tố khác nhau như màu mắt, vân tay v.v...hoặc chúng ta có thể xác định sớm hơn thông qua phân tích di truyền.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Chương II. Công nghệ hỗ trợ sinh sản

Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (tiếng Anh: Assisted Reproductive Technology A.R.T.) bao gồm tất cả các phương pháp chữa trị chứng vô sinh trong đó cả trứng lẫn tinh trùng

8

1. Khái niệm công nghệ hỗ trợ sinh sản (CNHTSS)

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

đều được sử dụng. Nói chung ART là công tác phẫu thuật lấy trứng từ buồng trứng của một người nữ, kết hợp với tinh trùng của một người nam, sao đó đem trở vào người nữ đó hay một người nữ khác.

Những phương pháp giúp có thai đơn thuần hơn như bơm tinh trùng vào tử cung (không trực tiếp động đến trứng) và kích thích tạo trứng (không trực tiếp lấy tinh trùng) không được xếp vào lãnh vực của ART.

2. Sơ lược lịch sử phát triển CNHTSS [7]

Trên thế giới

Lần đầu tiên vào năm 1959, Chang thành công khi thực hiện tụ tinh nhân tạo giữa trứng và tinh trùng thỏ trong môi trường ống nghiệm; từ đó tới nay, các nhà khoa học không ngừng nghiên cứu tìm kiếm những phương pháp mới cho việc điều trị vô sinh ở người. IVF và ICSI là những kỹ thuật nhằm làm tăng tỷ lệ thụ tinh trong điều trị hiếm muộn đã được báo cáo thành công trên thế giới từ những năm 1978 và 1992, cho tới nay đã có hơn một triệu em bé ra đời từ những kỹ thuật trên.

1978, em bé đầu tiên từ TTTON, Louis Brown, ra đời đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của TTTON trên người. Sau đó, 2 trường hợp sanh khác từ TTTON cũng đã được báo cáo tại Anh. Sau đó, chương trình này tại Anh bị gián đoạn trong 2 năm.

1980, em bé TTTON thứ tư trên thế giới được sinh ra tại Úc. Trung tâm Monash ở Úc được ghi nhận là nơi thứ hai trên thế giới thực hiện thành công TTTON. Trung tâm này sau đó liên tục báo cáo các trường hợp sanh sau TTTON. Do trung tâm TTTON đầu tiên ở Anh tạm ngưng hoạt động sau 3 trường hợp sanh đầu tiên, người ta ghi nhận rằng 12 trong số 15 em bé TTTON đầu tiên trên thế giới được ra đời từ trung tâm Monash ở Úc.

1981, em bé TTTON đầu tiên ở Mỹ ra đời. Đây cũng là trường hợp TTTON đầu

tiên sử dụng gonadotropin để kích thích buồng trứng. Sau đó, trong những năm 80, kỹ thuật TTTON đã phát triển rất mạnh và lần lượt được báo cáo thành công tại nhiều nước trên thế giới, kể cả ở Châu Á. Trong đó, Singapore được ghi nhận là nơi thực hiện thành công TTTON đầu tiên ở Châu Á vào năm 1983 bởi nhóm nghiên cứu của SC Ng và cộng sự.

1984, kỹ thuật chuyển giao tử vào vòi trứng (GIFT) được báo cáo thành công tại

Mỹ.

1984, em bé đầu tiên ra đời từ trường hợp một phụ nữ không còn buồng trứng,

thực hiện xin trứng TTTON tại Úc.

1984, em bé đầu tiên sinh ra từ phôi người đông lạnh được báo cáo ở Úc bởi

Trounson và Mohr.

1986, Chen báo cáo trường hợp có thai từ trứng người sau động lạnh và rã đông tại

Úc. Tuy nhiên, tỷ lệ thành công được báo cáo rất thấp.

9

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

1988, trường hợp tiêm tinh trùng vào dưới màng trong suốt (SUZI) được báo cáo

thành công lần đầu tiên tại Singapore bởi SC Ng và cộng sự.

1989, kỹ thuật đục thủng màng trong suốt (PZD) để hỗ trợ thụ tinh được giới thiệu

ở Mỹ bởi Cohen.

1992, kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng được báo cáo thành công lần

đầu tiên tại Bỉ bởi Palermo và cộng sự.

1994, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng non trưởng thành trong ống nghiệm

(IVM) được báo cáo tại Úc.

1994, các trường hợp MESA-ICSI (hút tinh trùng từ mào tinh qua vi phẫu và tiêm

tinh trùng vào bào tương trứng) đầu tiên được báo cáo.

1995, kỹ thuật PESA-ICSI (chọc hút tinh trung từ mào tinh xuyên da và tiêm tinh

trùng vào bào tương trứng) được giới thiệu.

1995, kỹ thuật TESE-ICSI (phân lập tinh trùng từ tinh hoàn ở những trường hợp giảm sinh tinh tại tinh hoàn và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng) được báo cáo thành công.

1997, trường hợp có thai ở phụ nữ 63 tuổi với kỹ thuật xin trứng TTTON được

báo cáo.

1997, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng trữ lạnh và rã đông của Mỹ được báo

cáo. 11 năm sau trường hợp đầu tiên trên thế giới được báo cáo.

2001, phác đồ mới trong kỹ thuật trữ trứng được báo cáo, cải thiện đáng kể tỷ lệ thành công. Đồng thời, những trường hợp sanh đầu tiên từ cả trứng và tinh trùng đông lạnh được báo cáo tại Ý.

Thế giới

Năm

thực

Tại Việt Nam Bắt đầu thực hiện TTTON từ năm 1997, đến năm 1998 có 3 em bé TTTON đầu tiên tại Việt Nam ra đời và năm 1999 em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật ICSI, và cho tới nay đã có 3438 em bé chào đời từ các kỹ thuật tại bệnh viện Từ Dũ, trong đó hầu hết cá chu kỳ thực hiện đều có hỗ trợ cuả ICSI. Sự phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hiện đại tại Việt Nam Nơi Sự kiện hiện BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ

1964 cuối 1970

1995 1995

Thực hiện thành công trữ lạnh tinh trùng người Thực hiện thành công kỹ thuật IUI với tinh trùng lọc rửa 1997 Thực hiện thành công kỹ thuật TTTON đầu tiên 1998 Các trường hợp TTTON đầu tiên ra đời Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật ICSI 1999 Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ TTTON sử dụng 2000

BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ

1971 1978 1993 1995

10

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

2000

BV. Từ Dũ

1984

2001

BV. Từ Dũ

1984

2001

BV. Từ Dũ

1999 (*)

2002 2003 2003 2003

BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ

1983 1995 1995 1995

2003 2003 2003

BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ BV. Từ Dũ

1984 1984 1984

2003

BV. Từ Dũ

2001

rec. FSH Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật cho trứng – TTTON Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật TTTON – mang thai hộ Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật giảm thai sau TTTON Thực hiện thành công trữ lạnh phôi người Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật MESA – ICSI Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật PESA – ICSI Em bé đầu tiên từ chu kỳ TTTON sử dụng GnRH antagonist Em bé đầu tiên ra đời từ phôi đông lạnh Em bé TTTON thứ 1000 tại BV. Từ Dũ Em bé đầu tiên ra đời từ chu kỳ TTTON sử dụng rec LH Thai lâm sàng đầu tiên từ cả trứng và TT người đông lạnh Em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật TESE – ICSI

2004

BV. Từ Dũ

1995

3. Kỹ thuật chuẩn bị giao tử [1,2]

3.1. Chuẩn bị trứng:

11

Năm 1978, trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên trên thế giới thành công sau khi chuyển 1 phôi từ 1 trứng duy nhất chọc hút được từ chu kỳ tự nhiên không kích thích. Tuy nhiên, những lần thụ tinh trong ống nghiệm sau được lặp lại với chu kỳ tự nhiên cho kết quả thành công rất thấp, bởi lẽ với 1 trứng duy nhất, nếu thụ tinh không xảy ra hoặc xảy ra thụ tinh nhưng phôi ngưng phát triển do chất lượng trứng kém, bệnh nhân sẽ không có phôi để chuyển. Còn trong trường hợp có 1 phôi để chuyển, tỉ lệ có thai của bệnh nhân cũng chỉ dao động quanh con số từ 10 đến 15% - một tỉ lệ rất thấp cùng với chi phí cao và tốn nhiều thời gian. Vì lẽ đó, để nâng khả năng thành công trong thụ tinh trong ống nghiệm, cần kích thích buồng trứng để tạo ra nhiều nang trứng hơn, từ đó tăng số trứng chọc hút được trong một chu kỳ điều trị, tăng số trứng có chất lượng tốt, tăng số phôi tạo thành và số phôi tốt để chuyển, dẫn đến tăng tỉ lệ có thai. Số trứng mong đợi thu được từ kích thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm là từ 10-12 trứng. Đối với những trường hợp xin – cho trứng, việc kích thích buồng trứng càng trở nên quan trọng hơn nhằm tăng tỉ lệ thành công và hạn chế việc người cho trứng bị gây mê và chọc hút trứng nhiều lần.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

a. Thu nhận trứng

 GnRH - Được sử dụng để ngăn chặn việc sản xuất tự nhiên của hormone kích thích nang (FSH) và hormone luteinizing (LH) kích thích tố để kiểm soát chu kỳ kinh nguyệt và cải thiện số lượng trứng được lấy ra.

 Gonadotropin (FSH) - tổng hợp các hình thức của các hormon tuyến yên được sử dụng để kích thích sự phát triển của nang trứng trong buồng trứng, nuôi dưỡng trứng. Tăng trưởng nang lông là cần thiết trong quá trình kích thích để sản xuất trứng khỏe mạnh.

 Nhân Gonadoropin màng đệm (hCG) - Được sử dụng ở phần cuối của một chu kỳ kích thích để kích thích sự trưởng thành cuối cùng của trứng. Trong khi các loại thuốc này đôi khi được sử dụng để gây rụng trứng, khi được đưa ra trong quá trình này, việc thu hồi trứng được hẹn giờ để cho phép những quả trứng được thu thập trước khi rụng trứng xảy ra.

Các tác nhân được sử dụng để tối đa hóa sản xuất trứng bao gồm:

Trong quá trình sử dụng gonadotropins, nồng độ estrogen và progesterone lưu thông trong máu đạt đến mức độ cao hơn bình thường. Trong một chu kỳ kích thích điển hình, khoảng năm xét nghiệm máu sẽ được thu thập trong quá trình dùng thuốc để theo dõi mức độ này.Tốc độ tăng trưởng nang lông cũng sẽ được theo dõi bằng siêu âm âm đạo. Một khi kích thước nang thích hợp đạt được, FSH được ngưng và một liều duy nhất của hCG được đưa ra cho sự trưởng thành cuối cùng của trứng. Việc thu hồi trứng thường xảy ra 35-36 giờ sau đó.

Thao tác thực hiện:

- Tiêm GnRHa (DecapepTil 0,1mg) dưới da người cho trứng/ngày /14 ngày

(từ ngày 21 CK kinh nguyệt).

-Thử lại LH và E2, nếu hàm lượng LH<5 IU/L và E2<100pg/ml thì kích

thích buồng trứng với FSH/hMG, nếu chưa đạt, tiêm tiếp GnRHa.

-Tiêm phối hợp GnRHa (0,05mg) với FSH (Puregon 50 IU; 100 IU.

-Siêu âm từ 2-3 lần nhằm theo dõi kích thước và số lượng nang trứng. Theo

dõi hoocmone (LH, E2) từ ngày thứ 6 sau kích thích.

-Tiêm hCG (Pregnyl 5000 IU) khi xuất hiện ít nhất 2 nang trứng lớn nhất đạt

12

kích thước siêu âm 17mm nhằm kích thích trưởng thành nõan.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

-Chọc hút trứng 35-36h sau khi tiêm hCG.

Chọc hút trứng là quá trình chọc hút các dịch nang trứng từ 2 buồng trứng. Dịch nang trứng ngay sau khi chọc hút sẽ được chuyển ngay cho phòng lab IVF, các chuyên viên phôi học sẽ tìm trứng trong dịch nang này dưới kính hiển vi. Trứng và các tế bào bao quanh trứng (hình 1) thu nhận được sẽ được rửa trong môi trường thích hợp, rồi được chuyển ngay vào đĩa có môi trường chuyên biệt và ủ trong tủ ủ có CO2.

Hình 1. Phức hợp trứng – tế bào hạt

b.Gây rụng trứng nhiều:

- Kích thích chín và rụng trứng hàng lọat bằng hoocmon để thu nhiều trứng

chín một lúc.

Mục đích: thu nguồn trứng và cho thụ tinh tự nhiên để thu nhận nguồn phôi.

Sử dụng PMSG (huyết thanh ngựa chữa) để gây chín trứng nhanh và FSH (chiết từ tuyến yên cừu/heo) kết hợp với hoocmon HCG (bò sữa sử dụng PMSG, FSH và HMG)

FSH (Follicle Stimulating Hormone) là hóc-môn của thuỳ trước tuyến yên

13

có tác dụng chủ yếu là kích thích tế bào trứng phát sinh và phát triển.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

LH (Luteinising Hormone) là hóc-môn của thuỳ trước tuyến yên có tác dụng tăng cường quá trình phát dục của trứng, làm cho trứng chín và rụng, đồng thời bảo đảm cho sựhình thành thể vàng.

Huyết thanh ngựa chửa - PMSG (Pregnant Mare Serum Gonadotropin)- là kích tố của nhai thai ngựa có chức năng sinh lý tương tự như FSH và LH của thuỳ trước tuyến yên. Tuy nhiên hoạt tính của nó giống FSH nhiều hơn.

- Kích tố của nhau thai người - HCG (Human Chorionic Gonadotropin) - là

kích tố của phụ nữ có chửa. Chức năng sinh lý của HCG gần giống với LH.

c. Thu nhận trứng:

Từ ống dẫn trứng sau khi rụng, từ nang trứng của buồng trứng, bằng nội soi- siêu âm hoặc bằng giải phẫu con vật còn sống sử dụng dụng cụ thu nhận trứng rụng

Kỹ thuật thu nhận trứng

+ Phương pháp chọc hút

+ Phương pháp rạch-múc

+ Phương pháp cắt nghiền buồng trứng

+ Kỹ thuật soi ổ bụng

+ Siêu âm xuyên qua niệu đạo

+ Phương pháp rửa nang trứng

Để có được trứng của buồng trứng, trước tiên cần nội soi ổ bụng. Phẫu thuật nội soi là thương hiệu mới trong năm 1970 và được cho là một cách ít gây tổn thương vào bụng (buồng trứng).

14

Chọc hút trứng được làm tại phòng Thụ tinh trong ống nghiệm. Trứng được lấy qua một kim chọc hút trứng gắn vào một bộ phận lắp kim của đầu dò âm đạo dưới hướng dẫn của siêu âm.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Siêu âm công nghệ tốt hơn nhiều, trứng và các nang không xâm lấn nhau. Vì vậy, bây giờ hầu như tất cả các phương thu nhận trứng trên thế giới diễn ra được thực hiện bằng phương pháp siêu âm. Cách đơn giản nhất để làm điều này là sử dụng đầu dò siêu âm qua âm đạo được sử dụng để quan sát buồng trứng. Siêu âm được thực hiện các thủ thuật như sinh thiết bằng kim, là thủ thuật đưa kim vào để lấy một mẫu tế bào từ các nang và dịch nang trứng, và trứng có thể được lấy ra.

d. Quan sát và phân loại trứng:

Kỹ thuật:

+Làm dẹp phức hợp OCC (phức hợp trứng) để gây xung động mạnh đĩa nuôi

dưới KHV

+Phân tách khối cumulus bằng enzyme: phức hợp OCC đặt trong đĩa bốn giếng chứa môi trường thu trứng có bổ sung 0,4% BSA và hialuronidase 80 IU/ml tại 370C trong 30-60 giây, dùng pipiette tách lớp cumulus khỏi phức hợp OCC sau đó rửa trứng vài lần bằng dung dịch thu trứng bổ sung 10% huyết thanh

Tiêu chí đánh giá

+Túi mầm: có nhân lớn (túi mầm) hiện diện→các TB bao quanh không phát

triển rộng và bám chặt vào xung quanh là trứng chưa trưởng thành.

Metaphase I: trứng bao lớp TB chặt chẽ và có lớp cumulus bám chặt xung

quanh, ĐK gấp 5 lần ĐK trứng

Metaphase II: Trước khi rụng trứng (từ nang Graff): TB vành corona áp dính

lên trứng,thể cực được đẩy ra. Lớp cumulus mở rộng thành một khối

Trưởng thành: trứng thấy rõ, lớp cumulus nhiều, cô đặc lớp TB cumulus, có

các giọt đen nhỏ bằng vành corona tái hình thành vây kín xung quanh TB trứng

Hòang thể hóa: TB mờ nhạt, lớp cumulus bị phá vỡ và trở thành một khối

keo xung quanh trứng

. Sẹo hóa: TB hạt bị phân mảnh, giống dây buộc, phân bố lệch về một phía

TB trứng

15

e. Nuôi trứng trưởng thành:

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Trứng thu nhận, rửa và làm ấm 370C, nuôi trên môi trường có đệm HEPES, huyết thanh và heparin (đã ủ ở 370C), tiếp tục rửa bằng môi trường nuôi chín sau đó đưa vào các giọt môi trường nuôi trên đĩa petri, chứa 1-10 TB trứng/giọt.

Môi trường cho IVM gồm 2 loại:

+Đơn giản: hệ thống đệm bicacbonate chứa các chất như pyruvate, lactate và

glucose

+Phức tạp: thêm một số yếu tố như amino acid, VTM, purine và những chất

khác.

3.2. Chuẩn bị tinh trùng:[3,5]

3.2.1. Thu nhận tinh trùng

a. Phương pháp kích thích cơ học.

Các bước tiến hành:

- Chuẩn bị: Dụng cụ khai thác tinh dịch gồm có: găng tay bằng cao su mỏng, lọ (hay bình) hứng tinh.

Rửa sạch phần bụng, sát trùng bộ phận sinh dục đực, phần mông của giá

- nhảy, lọ hứng tinh và găng cao su.

- Dùng khăn tẩm nước nóng từ 35-37oC, vắt khô, xoa vào vùng bẹn và bao dương vật của heo đực để gây kích thích.

- Thu tinh dịch: Dùng tay kích thích vào bao đầu dương vật để heo đực hưng phấn, nhảy lên ôm giá nhảy. Khi dương vật của heo đực bắt đầu thò ra, dùng lòng bàn tay nắm nhẹ vào đầu dương vật (đoạn xoắn mũi khoan) và lái cho qui đầu dương vật lệch ra ngoài giá nhảy. Lúc này, dương vật của heo đực sẽ giao cấu trong lòng bàn tay. Bàn tay của người khai thu tinh cần nắm nhẹ dương vật ( giữ nguyên tư thế, lòng bàn tay), các ngón tay gây cử động nhẹ để gây kích thích. Khi kích thích cao độ heo bắt đầu xuất tinh. Người thu tinh trùng dùng tay kia cầm lọ hứng tinh kề gần vào qui đầu để hứng tinh dịch chảy ra.

Chú ý:

16

- Không nắm dương vật của heo quá chặt làm heo đau và sợ hãi, cũng không nên nắm úa lỏng lẻo vì có thể làm cho dương vật tuột ra ngoài tầm tay.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Không được để qui đầu chạm vào giá nhảy hoặc lọ hứng tinh vì dễ gây sây sát, chảy máu làm cho heo sợ hãi, thậm chí dẫn tới ức chế phản xạ xuất tinh. Sau khi heo xuất tinh xong mới nới lỏng bàn tay nắm dương vật để heo tự co dương vật lạivà tụt khỏi giá nhảy.

 Ưu điểm:

- Khi hứng tinh phải để cho tinh chảy nhẹ theo thành lọ.

- Không cần nhiều trang thiết bị, dụng cụ.

 Nhược điểm:

- Người thu tinh dịch có thể quan sát trực tiếp được các pha trong quá trình xuất tinh, từ đó đưa ra quyết định hứng tinh ở “pha” nào là tốt nhất, đặc biệt là trong quá trình khai thác tinh dịch heo.

- Cần có sự luyện tập và thích ứng của đực giống.

- Dễ bị nhiễm bẩn cơ quan sinh dục hoặc lây bệnh cho người thu tinh dịch nếu không vô trùng tốt hoặc các dụng cụ bảo hộ không đảm bảo an toàn vệ sinh.

- Kích thích không khoái cảm cho con đực dẽ gây ức chế khó xuất tinh và tinh dịch thu được có số lượng và chất lượng tinh trùng thấp.

b. Phương pháp dùng âm đạo giả.

Nguyên lý của phương pháp này là cho con đực giao phối và xuất tinh trong một loại dụng cụ gọi là âm đạo giả có các điều kiện (nhiệt độ, áp suất, độ nhớt,…) tương tự như trong đường sinh dục con cái động dục. Đây là phương pháp khai thác tinh cổ điển sản xuất.

Ưu điểm:

- Thu được toàn bộ lượng tinh dịch trong một lần xuất tinh.

- Không gây ảnh hưởng xấu đến cơ quan sinh dục đực.

 Nhược điểm:

- Không cần sự có mặt của con cái động dục.

17

- Phương pháp này cần có một số dụng cụ nhất định, công tác chuẩn bị lâu, thao tác khi tiến hành thu phức tạp.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Để tiến hành thu được tinh dịch bằng phương pháp âm đạo giả, người ta phải huấn luyện cho con đực có phản xạ nhảy giá và giao phối trong âm đạo giảnhưng hiện nay vẫn đang được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu.

Khi trứng lớn, chúng sẽ được hút ra khi đã chín nhưng chưa tự phóng. Hormone gondotropins, loại hóc môn gây tắt kinh nguyệt của người được dùng để kích thích rụng trứng. 36 giờ sau, bào tương (chứa tế bào trứng) sẽ được lấy ra bằng đường âm đạo (bằng kim và siêu âm). Các trứng trong bào tương sẽ được thụ tinh với tinh trùng đã lấy từ trước, và 2 trứng đã thụ tinh sẽ được đưa lại vào tử cung người phụ nữ.

3.2.2. Thụ tinh trong ống nghiệm [7]

3.2.2.1. Khái niệm

Thụ tinh là quá trình kết hợp tế bào tinh trùng với tế bào trứng để tạo ra một tế bào mới gọi là " hợp tử ", hợp tử sẽ phát triển thành cơ thể mới. Quá trình kết hợp này thường xẩy ra trong cơ thể mẹ và tại 1/3 phía trên của ống dẫn trứng.

Thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro Fertilization - IVF) là quá trình kết hợp giữa tinh trùng với trứng để tạo ra hợp tử, được thực hiện bên ngoài cơ thể mẹ, tại phòng thí nghiệm (trong hộp lồng, hộp petri). Tuy xảy ra ngoài cơ thể, nhưng các điều kiện cho quá trình IVF như môi trường, nhiệt độ, độ ẩm, độ nhớt .v.v... cùng các chỉ tiêu sinh học khác phải giống như trong cơ thể mẹ.

Ý nghĩa của IVF:

- Khai thác được tiềm năng sinh sản ở những gia súc cái cao sản, đặc biệt với những con cao sản nhưng vì lý do nào đó bị loại thải.

- Cung cấp vật liệu và làm cơ sở cho những nghiên cứu, lai ghép phôi, chuyển cấy gen, cắt phôi nhân phôi .v.v . . .

- Giúp cho việc đánh giá con vật sớm hơn (rút ngắn được khoảng cách thế hệ).

18

- Tạo nhiều phôi, giá rẻ từ đó giảm giá thành công nghệ phôi, thành lập ngân hàng phôi, trứng và làm cơ sở cho việc bảo tồn, lưu giữ phục hồi lại các giống gia súc và các độngvật quý hiếm nhưng ít có giá trị về kinh tế.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Khắc phục tình trạng vô sinh ở các con cái tốt, có buồng trứng hoạt động bình thường nhưng bị tắc ống dẫn trứng hoặc do điều kiện nào đó mà trứng và tinh trùng không gặp nhau được ở trong cơ thể.

IVF được tiến hành lần đầu tiên trên thỏ bởi Dauzier và cộng sự (1954), sau đó là Thibault và Dauzier (1960, 1961). Kỹ thuật này được Brackett áp dụng và phát triển vào chăn nuôi bò từ 1981. Từ đó, IVF được nghiên cứu và ứng dụng rộng trong những nước chăn nuôi phát triển (Mỹ, Pháp, Anh, Nhật, Đức...). Các bảng dưới đây phản ánh một phần lịch sử phát triển và mức độ thành công củaIVF

Bảng 1. Một số động vật đã được IVF

Động IVF Kết quả Động IVF Kết quả

vật vật Tạo phôi Sau cấy

Tạo phôi Sau cấy phôi phôi

Thỏ + + + Bò + + +

Chuột + + + Lợn + + +

+ + + Cừu + + +

Người *

Mèo + +/- - Ngựa + + +

 Đến nay đã có trên 10.000 em bé được ra đời bằng kỹ thuật IVF. Ca đầu tiên thành công năm 1978 ở Anh (do Steptoe và Edward tiến hành). ở Việt Nam , ngày 30/4/1998, 3 em bé đã ra đời nhờ IVF (đến nay đã lên đến vài chục em).

Chó + - -

19

Bảng 2. Những kết quả đầu tiên về IVF ở động vật

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Năm Tác giả Năm Tác giả

Động vật Động vật

Bò 1982 Braket và cs. Thỏ

Dauzier, Thibault Chang 1954- 1959

và Dê 1981 Kim và Irtani 1963

Chuột túi má Yanagimathi Chang

và Cừu 1983 Wright và 1969

Bondioli Chuột nhắt Ywamatsu Chang

Người 1978 và Lợn 1986 Cheng và cs.

Steptoe Edward

3.2.2.2.Các bước của IVF

Gồm 4 khâu chủ yếu:

- Thu thập trứng chưa thụ tinh

- Nuôi trứng chín

- Cho trứng thụ tinh với tinh trùng

- Nuôi trứng đã thụ tinh cho đến giai đoạn phôi.

a. Thu thập tế bào trứng (0ocyte collection)

Thu thập tế bào trứng từ buồng trứng của con vật: có thể từ con vật còn sống (qua nội soi hoặc giải phẫu), hoặc từ lò mổ (những con vật cao sản được giết thịt).

20

Các kỹ thuật để lấy trứng: mổ nang trứng (Follicle dissection), chọc nang trứng (Follicle puncturing); hút nang trứng (Follicle aspiration) hoặc cắt buồng trứng thành từng lát mỏng (Ovary slicing). Cắt buồng trứng thành lát mỏng sẽ cho số lượng trứng chưa thụ tinh nhiều hơn các phương pháp khác (Pawshe, 1994). Tuy vậy, các trứng chưa thụ tinh này thường không đồng nhất và rất khó phát triển thành trứng chín, tỷ lệ thụ tinh của chúng cũng thấp (quãng 18,18%), trong khi đó, tỷ lệ này ở phương pháp mổ nang trứng là 29,07%. Số lượng trứng

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

thu được có khác nhau là do khác nhau về cá thể, phương pháp và mùa vụ thu hoạch. Nếu dùng phẫu thuật, một năm 1 bò có thể cho 100 trứng/buồng trứng (Kruip, 1991). Nếu dùng cách hút, chỉ thu được 2,4-3,0 trứng/lần, (Lenergan, 1991). Bằng phương pháp cắt lát buồng trứng thu được từ lò mổ, chúng tôi thu được 10-30 trứng/2 buồng trứng của gia súc.

Cách đánh giá phân loại trứng chưa thụ tinh (lấy từ buồng trứng): theo sự

hiện diện hoặc độ dầy, mỏng của tế bào cumullus (Cumullus cell).

Loại A: trứng có tế bào Cumullus bao vây hoàn toàn.

Loại B: trứng có tế bào Cumullus bao vây một phần loại B : chỉ có 1 đám rất

mỏng: tế bào Cumullus hoặc chỉ còn lại dấu vết của lớp tế bào này).

Loại C: trứng không có tế bào Cumullus bao quanh mà bao bọc chúng là các

sợi tơ huyết (fibrin).

Thường chỉ dùng trứng loại A và B để nuôi cấy và IVF. Tất nhiên việc thu nhận buồng trứng từ lò mổ hoặc lấy trứng từ buồng trứng (bằng kỹ thuật phẫu thuật hoặc nội soi) phải theo quy trình tương ứng với các môi trường nuôi cấy nhất định.

b. Nuôi trứng chín (In vitro Maturation)

Sau khi thu thập, trứng được đánh giá phân loại theo mức độ tốt xấu. Trứng đạt tiêu chuẩn sẽ được đưa vào môi trường nuôi cấy trứng chín. Sự chín của trứng chưa thụ tinh có nghĩa là sự thay đổi hình thái học, sinh hoá học ở tế bào chất, ở nhân tế bào và các bộ phận khác của tế bào để các trứng này có khả năng thụ tinh và sau đó, sẽ phát triển thành phôi, thành cơ thể. Thời gian thành thục và chín của trứng chưa thụ tinh thường từ 18-28h.

c. Cho trứng thụ tinh với tinh trùng (In vitro Fertilisation)

21

Để tiến hành quá trình thụ tinh (cho trứng gặp tinh trùng), người ta đưa tinh trùng đã được hoạt hoá vào môi trường thụ tinh đã có trứng nuôi cấy chín. Giọt môi trường thụ tinh đã để sãn trong hộp lồng. Sau khi đưa tinh trùng vào môi trường nuôi trứng nói trên, chuyển hộp lồng vào tủ ấm nuôi cấy có 5% C02, nhiệt độ 38-38,50C và độ ẩm 80%. Thời gian đảm bảo cho quá trình thụ tinh 4- 6h (thường là 5h). Tỷ lệ thụ tinh của trứng phụ thuộc vào khả năng hoạt hoá (capitation) của tinh trùng và độ chín của trứng. ở chuột nhắt, tỷ lệ thụ tinh có

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

thể đạt 80% với sự có mặt của 2 tiền nhân (Maudlin và Faraser, 1987). Tỷ lệ thụ tinh của các vật nuôi khác thì thấp hơn. Có thể nâng cao tỷ lệ thụ tinh bằng cách sử dụng hoạt chất cafein và heparin trong quá trình hoạt hoá tinh trùng.

Tinh trùng dùng cho IVF: tinh trùng tươi dạng lỏng hoặc tinh trùng đông lạnh. Đối với trứng: thường là trứng mới lấy từ lò mổ hoặc từ phẫu thuật nội soi sẽ cho kết quả cao hơn trứng đã được đông lạnh. Michaelis Rubin và Halin (1984) đã thí nghiệm trên trứng đông lạnh của chuột nhắt đạt được 60%, còn trứng không đông lạnh đạt 72%. Kielm, 1987 đã thí nghiệm trên trứng đông lạnh của chuột cống, tỷ lệ thụ tinh đạt 70%. Theo Daniel và Tuneja 1987, có thể lấy trứng chưa thụ tinh từ buồng trứng được đông lạnh để IVF.

Số lượng tinh trùng cần thiết khi IVF: thường từ 5 đến 100 x 105/ml. Trên thực tế, số lượng này là 50 x 105/ml sẽ cho kết quả tốt hơn về tỷ lệ thụ tinh và phát triển thành phôi (Shioya, 1993).

Ngày nay, bằng kỹ thuật vi tiêm, người ta tiêm thẳng tinh trùng vào buồng

trứng. Bằng cách này chỉ cần tiêm 1 tinh trùng cho 1 trứng.

d. Nuôi trứng đã thụ tinh phát triển thành phôi (In vitro culture)

Trứng đã thụ tinh được chuyển sang các môi trường nuôi cấy (thường dùng môi trường TCM199 có bổ sung huyết thanh bò). Trong môi trường nuôi cấy, các tế bào Cumulus và các tế bào ống dẫn trứng có ảnh hưởng tích cực đến quá trình phát triển của phôi. (Seidel và cs, 190; Shioya và cs., 1993).

3.2.2.3. Kỹ thuật IVF[2,9]

a. Thu nhận trứng và nuôi trứng chín

22

- Buồng trứng được thu nhận từ các lò mổ, đặt trong nước sinh lý ấm (25-300C) có bổ sung 100 UI penicillin và 100 mg streptomycin/ml. Sau đó được chuyển về phòng thí nghiệm trong vòng 2-3h.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Dùng xơranh với kim 18G hút các tế bào trứng từ các nang trứng nhỏ kích thước 2mm.

- Dung dịch hút được đưa vào môi trường PBS có bổ sung huyết thanh bò đực giống .v.v. . . và kháng sinh.

- Soi trứng, đánh giá phân loại trứng thu được qua kính hiển vi soi nổi. Căn cứ vào vùng tế bào Cumulus để đánh giá chất lượng trứng.

- Chuyển các tế bào trứng đảm bảo chất lượng sang môi trường nuôi trứng chín. Trứng được đưa vào tủ ấm ở 38-390C, với hỗn hợp không khí: 5% C02, 95% không khí thường, thời gian để trứng phát triển thành thục và chín kéo dài 20- 30h.

b. Chuẩn bị tinh dịch để thụ tinh

- Giải đông 1-2 cọng rạ tinh dịch ở nhiệt độ 35-370C, hoặc dùng tinh tươi.

- Trộn với 6ml dung dịch rửa tinh dịch trong ống ly tâm sau đó ly tâm với vận tốc 1800 vòng/phút trong 5 phút.

- Hút dịch ở trên đầu ống bằng pipet vô trùng.

- Cho thêm 0,5-0,8 ml dung dịch rửa tinh dịch để trầm tích và đo lường thể tích. Thể tích ban đầu vào khoảng 0,6-0,8 ml.

- Kiểm tra sức kháng của tinh trùng bằng nước muối sinh lý và xác định nồng độ tinh trùng bằng buồng đếm hồng cầu Newbauer.

Điều chỉnh nồng độ tinh trùng đạt 25x106/ml bằng cách cho thêm vào dung dịch rửa tinh dịch (pha loãng lần 1) sau đó điều chỉnh nồng độ tinh trùng đạt 12x106/ml bằng cách tiếp tục cho thêm vào dung dịch rửa tinh dịch (pha loãng lần 2).

- Xác định liều lượng thụ tinh, chuẩn bị 4 giọt (100 ml) trong đĩa hộp lồng đường kính 35 mm, phủ bằng dầu vi lượng (mineral oil) và giữ ở trong tủ ấm.

c. Thụ tinh

- Chuẩn bị 2 đĩa hộp lồng ( 35 mm) với dung dịch rửa trứng chưa thụ tinh được phủ dầu vi lượng.

23

- Chuyển 20-25 trứng chưa thụ tinh đến các giọt tinh trùng đã chuẩn bị sãn.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Đưa vào tủ ấm trong khoảng 5-6h.

d. Thu hồi và nuôi cấy trứng đã thụ tinh

- Thu trứng đã thụ tinh từ các giọt chứa tinh trùng (giọt môi trường thụ tinh).

-Rửa trứng đã thụ tinh 3 lần trong môi trường nuôi trứng chín(TCM-199) đã chuẩn bị sãn.

Đặt đĩa đã có trứng thụ tinh vào tủ ấm có nhiệt độ 380C với 5% C02 trong 48h.

e. Nuôi cấy và kiểm tra trứng đã thụ tinh

- Sau khi đã thụ tinh, trứng được tiếp tục nuôi trong môi trường TCM-199 - 1 giọt 5% FCS với nhiệt độ 3805 và 5% khí C02.

- Trong ngày thứ nhất, động nhẹ tay (gõ) lên đĩa hộp lồng để tác động làm rời bỏ các tế bào cumulus bao quanh noãn.

- Cứ 48h kiểm tra sự phát triển của phôi 1 lần.

- Từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 10 quan sát sự phát triển của túi phôi.

- Đánh giá sự phát triển của phôi qua các mức độ: 2-4 tế bào, >4 tế bào (phôi dâu, phôi nang) và phôi thoái hoá.

-Từ sau ngày thứ 7, kiểm tra phôi ngày 1 lần, phôi ở độ tuổi này trở đi hoặc đem cấy chuyển ngay hoặc đem đông lạnh và cấy sau này.

3.2.2.4. Các môi trường dùng cho IVF

a. Dung dịch đệm Dulbeccos – PBS

STT Thành phần Công thức g

1 Sodium chloride NaCl 8,00

2 Potasium chloride KCl 0,20

3 1,15 NaH2P04.2H20

24

Sodium dihydrogen Orthophosphate

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

0,20 4 Na2HP04.2H20

Disodium hydrogen Orthophosphate

Glucose 1,00 5 C6H1206

Sodium pyruvate 0,036 6

Calcium chloride 0,132 7 CaCl2.2H20

0,121 8 MgS04.7H20

Magnesium sulphate

- 0,400 9

Lyopholized BSA

G. ** 10

Penicilin Sodium

0,05 11

Streptomicin sulphate

lần *** 12

Nước cất 2 vừa đủ

Chú thích:

* Lọc thanh trùng bằng màng vi lọc 0,2 - 0,4 m

** 100UI/ml

***1000ml

25

b. Môi trường cơ sở BO (Bracket and Oliphant)

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Dung dịch A Dung dịch B

Thành phần Hàm lượng Thành phần Hàm lượng

NaCl 4,3092 g NaHCO 2,5873 g

KCl 0,1974 g 0,04 ml

Phenol đỏ (dung dịch 0,5%) 0,2171 g CaCl2.2H20

cất tinh Vừa đủ 200 ml 0,0840 g NaH2P04.2H20 Nước khiết

0,0697 g MgCl2.6H20

0,1 ml

Phenol đỏ (dung dịch 0,5%)

cất tinh

Nước khiết Vừa đủ 500 ml

Chú thích: dung dịch A và B là dung dịch gốc

c. Môi trường nuôi chín (TCM-199)

STT Thành phần Hàm lượng

1 TCM-199 3,8 ml

2 Huyết thanh 2,0 m

3 Penicillin 4000 IU

4 Streptomycin 4,0 mg

Ghi chú: Môi trường TCM-199 bổ sung huyết thanh bê và lọc vô trùng bằng màng lọc kích thước 20-22 m.

26

d. Môi trường nuôi cấy tế bào trứng

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Thành phần MW g/L mOsm

NaCl 58,4 5,540 189,19

KCl

308,3 0,527 5,13 Ca-Lactate 5H20

136,1 0,162 2,38 KH2P04

246,5 0,294 2,38 MgS04.7H20

84,0 2,106 50,14 NaHC03

Na Pyruvate 110,0 0,028 0,50

Na Lactate 112,1 2,416 43,10

Glucose 1,00 5,56

BSA 1,00

Kháng sinh * 10,00 ml

1000 ml

Nước cất vừa đủ

Chú thích:

MW: Khối lượng phân tử

mOsm: Milliosmole

27

e. Môi trường BO

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Dung dịch A:

: 76 ml

Sodium pyruvate

: 0,01375 g

Sodium pyruvate

Penicillin : 10.000 IU

Streptomicin : 10 mg

Dung dịch B: : 24 ml

Ghi chú: Khi dùng mới pha, Sodium pyruvate và kháng sinh hoà vào dung dịch A và sau đó pha loãng với dung dịch B. Vô trùng bằng màng lọc.

f. Dung dịch nuôi tế bào trứng

Dung dịch BO: 40 ml; BSA (Bovine Serum Albumin): 400 ml

g. Dung dịch pha loãng tinh trùng

Dung dịch BO: 10 ml ; BSA (tinh thể) : 200 mg

h. Men trypsin cho IVF (Dùng để loại bỏ vành phóng xạ xung quanh tế bào trứng):

Sodium chloride: 6,0 g

Tricine [N-Tris (hydroxymenthyl) methyl glycine]: 1,79 g

Trisodium citrate: 2,9 g

Phenol red: 0,005 g

Nước cất: 1000 ml

Phương pháp tiến hành

 Quấy đều cho hoà tan hết

28

 Điều chỉnh pH về 7,8

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

 Lọc qua giấy lọc Whatman No1

 Hấp khử trùng

3.2.3.Kháng thể kháng tinh trùng [8]

Quá trình hình thành tinh trùng bắt đầu từ thời điể m dậy thì và tiếp diễn liên tục cho đến suốt đời. Ở người, mỗi tinh hoàn chứa khoảng 400-600 ống sinh tinh. Ống sinh tinh là cấu trúc gồ m các thành phần: màng đáy, biểu mô sinh tinh và các tế bào Sertoli. Các tế bào Sertoli và phức hợp liên kết giữa chúng tạo nên hàng rào máu-tinh hoàn. Hàng rào này ngăn cản không cho tinh trùng và các sản phẩm thoái hoá của chúng đi vào cơ thể. Khi hàng rào máu tinh hoàn bị tổn thương thì tinh trùng và các sản phẩ m thoái hoá của chúng tiếp xúc với máu, có thể kích hoạt tạo kháng thể kháng tinh trùng

Ở na m kháng thể kháng tinh trùng (antisperm antibodies) có thể tìm thấy trong huyết thanh, tinh dịch và trên bề mặt tinh trùng. Ở nữ có thể tìm thấy trong huyết thanh và chất nhầy cổ tử cung-âm đạo .

Kháng thể kháng tinh trùng gồm 2 loại

Kháng thể bất động tinh trùng (immo bilizing – cell toxic)

Kháng thể ngưng kết tinh trùng (agglutinating antibody)

Dạng kháng thể trong máu và hệ bạch huyết chiế m ưu thế là IgG trong khi ở những nơi tiết dịch thì IgA chiế m ưu thế hơn (Marshburn và Ketteh, 1994; Mazumdar và Livine, 1998), thực tế kháng thể IgA ảnh hưởng đến khả thụ tinh khi nó hiện diện ở màng của đầu tinh trùng, dạng IgM ít được tìm thấy trong đường sinh dục của na m giới.

Cơ chế hình thành kháng thế kháng tinh trùng

• Giảm số lượng hoặc giảm hoạt tính các tế bào ức chế - T trong dường sinh dục • Thiếu hoặc không có các yếu tố trong chất tiết đường sinh dục nam, chất cần thiết để ức chế tế bào

29

• Kháng nguyên tinh trùng thay đổi, không đủ để ức chế đáp ứng miễn dịch

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

a. Nguyên nhân hình thành kháng thể kháng tinh trùng.

Có nhiều nguyên nhân hình thành kháng thể kháng tinh trùng như tinh hoàn ẩn, giãn tĩnh mạch tinh (varicocele), chấn thương đường sinh dục …, nhưng nguyên nhân chiếm hàng đầu là thắt ống dẫn tinh (vasectomy)

Thắt ống dẫn tinh:

Witkin và cs đã tìm thấy kháng thể kháng tinh tinh trùng sau thắt ống dẫn tinh vài tháng vì thế tỷ lệ người thắt ống dẫn tinh có kháng thể kháng tinh trùng trong máu chiếm từ 50-80%

Sinh thiết tinh hoàn:

Sinh thiết tinh hoàn cũng là nguyên nhân hình thành kháng thể kháng tinh trùng, khi phẫu thuật làm tổn thương hàng rào máu - tinh hoàn. Theo báo cáo của Hijort và cs, trong 35 trường hợp nam giới sinh thiết tinh hoàn có 6 trường hợp xuất hiện kháng thể khánh tinh trùng ( chiếm 17%)

Tinh hoàn ẩn:

Tinh hoàn ẩn là nguyên nhân gây tổn thương tinh hoàn, nó có thể làm tăng nguy cơ hình thành kháng thể kháng tinh trùng. Theo Koskimies và Hovatta trong 23 trường hợp nam giới có tinh hoàn ẩn có 3 trường hợp có kháng thể kháng tinh trùng chiếm 13%). Trên lâm sàng, người ta quan tâm đến kiểu tinh hoàn ẩn, thực tế 10% đàn ông có tinh hoàn ẩn một bên và 70% - 80% tinh hoàn ẩn hai bên bị vô sinh

Nhiễm khuẩn đường sinh dục:

Tỷ lệ hình thành kháng thể kháng tinh trùng ở nhóm đàn ông có tiền sử nhiễm khuẩn đường sinh dục tăng cao so với nhóm không có nhiễm khuẩn ( theo Andrada và cs)

30

b. Ảnh hưởng của kháng thể kháng tinh trùng đối với tinh trùng.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Khi không có đầy đủ bổ thể và đại thực bào (opsonize macrophage), kháng thể kháng tinh trùng sẽ gắn vào bề mặt tinh trùng làm cho tinh dịch không ly giải hoặc gây bất động tinh trùng tạo nên hiện tượng kết dính tinh trùng

Kháng thể kháng tinh trùng có thể ảnh hưởng đến khả năng thụ tinh bằng cách làm giảm sự di động và tăng số lượng tinh trùng bất động, ngoài ra kháng thể này còn tác động đến sự xâm nhập của tinh trùng qua chất nhầy cổ tử cung, làm thay đổi phản ứng cực đầu, can thiệp vào phản ứng giữa tinh trùng và trứng (Haas và cs, 1980)

* Chỉ định:

Xét nghiệm tìm kháng thể kháng tinh trùng áp dụng cho các trường hợp: • Tinh trùng kết dính trong tinh dịch

• Tỷ lệ tinh trùng sống thấp

• Thắt ống dẫn tinh

• Phản ứng tinh trùng – chất nhầy cổ tử cung kém

c. Chẩn đoán xác định kháng thể kháng tinh trùng.

Có nhiều kỹ thuật xác định kháng thể kháng tinh trùng: kỹ thuật ngưng kết tinh trùng, kỹ thuật gắn hạt miễn dịch, kỹ thuật huỳnh quang, kỹ thuật ELISA…, nhưng kỹ thuật gắn hạt miễn dịch có giá trị nhất

31

Kỹ thuật gắn hạt miễn dịch: hạt miễn dịch là những hạt hình cầu làm bằng chất polyacrilamiden đã được gắn globulin miễn dịch của kháng thể người, giúp phát hiện cùng lúc kháng thể IgA và IgG

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Tinh trùng được rửa khỏi tinh tương bằng cách ly tâm nhiều lần, sau đó trộn với dung dịch đệm. Huyền phù tinh trùng này với dung dịch hạt miễn dịch, nhỏ một giọt huyền phù này lên lame, phủ lamlle, quan sát dưới vật kính 40x với kính hiển vi phản pha.

Những tinh trùng di động có kháng thể kháng tinh trùng sẽ ngưng kết với

các hạt miễn dịch.

Kết quả được xem là dương tính khi tỷ lệ tinh trùng di động ngưng kết > 10%

* Điều trị

Điều trị vô sinh nam có kháng thể kháng tinh trùng bằng các phương pháp như: • Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch (sử dụng steroids)

• Thụ thai nhân tạo bằng cách bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) sử dụng các phương pháp chuẩn bị tinh trùng nhằm làm giảm tác dụng của kháng thể kháng tinh trùng (antisperm antibodies - ASA)

• Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), hoặc tiêm tinh trùng vào tương của trứng (ICSI)

4. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản [1,3]

32

4.1. Dẩn tinh nhân tạo

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Thụ tinh nhân tạo là một trong những hình thức của công nghệ hỗ trợ sinh sản mà những cố gắng để thụ thai có thể lựa chọn để cải thiện cơ hội mang thai. Bơm tinh trùng vào ống dẫn trứng (ITI) là một trong bốn loại của thụ tinh nhân tạo có sẵn cùng với bơm tinh trùng vào trong tử cung (IUI), bơm tinh trùng vào vòi trứng (IFI) và bơm tinh trùng vào trong âm đạo (IVI)

4.1.1.ITI (Intra Tubal Inseminations): bơm TT vào ống dẫn trứng

Bơm tinh trùng vào ống dẫn trứng (ITI) là một trong 4 loại của thụ tinh nhân tạo. Nói chung, phương pháp này mục đích để đặt tinh trùng vào hệ thống sinh sản của phụ nữ không thông qua quan hệ tình dục mà hoặc là không thể hoặc khó khăn để đạt được.

Tinh trùng được thu thập và làm sạch trước khi được đặt trong một ống tiêm. Quá trình này được thực hiện bằng cách đặt tinh trùng trực tiếp vào một hoặc cả hai ống dẫn trứng. Một ống thông (ống mỏng) được đưa vào tử cung qua đường âm đạo. Các tinh trùng được rửa sạch sau đó được tiêm vào ống và đẩy vào một trong các ống dẫn trứng. Bơm tinh trùng vào ống dẫn trứng có thể mang lại cơ hội tốt hơn cho việc mang thai, kể từ khi tinh trùng không phải bơi qua cổ tử cung để thụ tinh cho trứng. ITI không thường được thực hiện để điều trị vô sinh vì chi phí cao.

Có hai loại bơm tinh trùng vào ống dẫn trứng (ITI):

thụ tinh trong vòi fallop (IFI) Thụ tinh trong vòi fallop (IFI) thường được thực hiện bởi một nội tiết sinh sản tại phòng khám khả năng sinh sản của bạn. Tinh trùng được thu gom và rửa sạch trước khi được đặt vào một ống tiêm vô trùng. Một ống thông được đưa vào thông qua âm đạo vào tử cung trong khi bệnh nhân được gây tê tại chỗ. Tinh dịch được đẩy qua ống thông và gửi vào một trong hai hoặc cả hai ống dẫn trứng.  Chuyển giao tinh trùng trong vòi fallop (SIFT)

Chuyển tinh trùng trong vòi fallop (SIFT) là một phương pháp điều trị vô sinh đòi hỏi kỹ thuật cao và được thực hiện trong bệnh viện hoặc tại một bệnh viện khả năng sinh sản. SIFT đòi hỏi phẫu thuật nội soi ổ bụng. Ban đầu mẫu tinh trùng của nam giới được thu thập và chuẩn bị. Người phụ nữ lúc này được gây tê cục bộ, rạch một vết rạch nhỏ trên bụng và một máy ảnh nhỏ được đưa vào xương chậu để xác định vị trí các ống dẫn trứng. Sau đó ống thông được đưa vào các ống dẫn trứng và tinh trùng được đưa qua một ống tiêm vô trùng để vào ống dẫn trứng.

33

ITI và các vấn đề vô sinh

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

ITI có thể giúp các cặp vợ chồng đang gặp vấn đề vô sinh khi các hình thức khác của quy trình thụ tinh nhân tạo như IUI không thành công. Bơm tinh trùng vào ống dẫn trứng có thể giúp điều trị vô sinh cho các vấn đề về khả năng sinh sản sau đây:

  Vấn đề rụng trứng  Không rõ nguyên nhân: vô sinh

Rối loạn chức năng xuất tinh Chất nhầy cổ tử cung bị cản trở

4.1.2.Intra- thụ tinh trong âm đạo (IVI)

Phương pháp này ít phổ biến hơn so với các phương pháp khác vì nó đơn giản và có khả năng đạt kết quả không cao. Nó nhằm mục đích đưa tinh trùng đặt bên trong âm đạo để tăng cơ hội thụ tinh.

Follicular (Intra

4.1.3.IFI Inseminatio): bơm TT vào vòi trứng

34

IFI liên quan đến việc tiêm tinh trùng trực tiếp vào các nang buồng trứng trước khi rụng trứng. IFI yêu cầu can thiệp ít hơn so với thụ tinh ống nghiệm và xung quanh các vấn đề khả năng thụ tinh của IUI. IFI đã được đề xuất 20 năm trước đây, nhưng hàng loạt trường hợp đã báo cáo tỷ lệ thành công bất cứ nơi nào giữa 2% và 28% - gây cản trở phát triển của nó. Các bước thực hiện: người đàn ông có tinh trùng và phân tích tinh dịch và người phụ nữ có một hysterosalpingogram (HSG) để đảm bảo phù hợp cho thủ tục. Phụ nữ trải qua một cuộc kiểm tra để kiểm soát buồng trứng (FSH tái tổ hợp, HMG gonadotropin con người mãn kinh, hoặc cả hai) bị ức chế tăng LH (acetate buserelin hoặc các ganirelix). Sau khi kiểm tra nội tiết tố và siêu âm cho thấy nang của buồng trứng có đường kính ít nhất là 18 mm, phụ nữ nhận được một shot kích hoạt hCG. Tinh dịch được thu thập và ly tâm và tinh trùng có thể cử động dể dàng trong dung dịch muối vô trùng. Tinh trùng được tiêm trực tiếp vào nang buồng trứng của tất cả nang có đường kính trên 18 mm, phục hồi tế bào trứng (quá trình này được hướng dẫn bởi siêu âm).

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

4.1.4. IUI (Intra uterine Inseminatio): bơm TT vào cổ tử cung

Tinh trùng tươi thu được từ người đàn ông thông qua xuất tinh hoặc nếu đông lạnh, làm tan băng, kích thích tinh trùng hoạt động lại trước khi được tiêm vào cổ tử cung của người phụ nữ.

 Bị chặn ống dẫn trứng  Bị hư hỏng ống dẫn trứng  Chất lượng trứng kém  Sự rụng trứng có vấn đề

Thụ tinh trong tử cung (IUI) dường như là phương pháp điều trị phổ biến nhất trong 4 kỹ thuật thụ tinh nhân tạo. Đây là một kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) là phù hợp cho cả nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên, họ sẽ phải trải qua bài kiểm tra về khả năng sinh sản trước để xác định xem đây là thủ tục phù hợp nhất cho họ. Nếu người một đàn ông có số lượng tinh trùng thấp, IUI không phải là một sự lựa chọn tốt để tinh trùng của ông này người tìm thấy một quả trứng và thụ tinh. Nếu người phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung thì điều trị này có thể không là một lựa chọn mặc dù phụ thuộc vào mức độ tình trạng của bạn. Các yếu tố khác của người phụ nữ bao gồm:

35

Tỷ lệ thành công của IUI Có một khả năng thụ thai xảy ra trong 10 đến 20% các trường hợp cung cấp các điều kiện để thụ thai được thuận lợi. Con số này giảm dần theo tuổi là một phụ nữ lớn tuổi là ít những quả trứng được sản xuất. Nếu 2 hoặc 3 chu kỳ của IUI không thành công sau đó điều trị thụ tinh ống nghiệm sẽ được khuyến cáo. Quá trình IUI Bước 1

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Ở người phụ nữ: để bắt đầu, họ sẽ trải qua một loạt các bài kiểm tra bao gồm siêu âm. Điều này cho phép các chuyên gia kiểm tra kích thước của nang trứng để xem họ có khả năng sản xuất trứng trưởng thàn hay không.. Tiếp theo, người phụ nữ sẽ được quy định thuốc kích thích khả năng sinh sản để kích thích rụng trứng. Như vậy cơ hội thụ thai sẽ tăng lên. Các thuốc này sẽ được sử dụng vào lúc bắt đầu của chu kỳ kinh nguyệt của bạn vì đây là thời gian tốt nhất để kích thích buồng trứng sản xuất trứng trưởng thành.

Ngoài phương pháp sử dụng thuốc, có thể tiêm hormone (HCG) cho người phụ nữ để giúp kích thích sự rụng trứng. Hormone này có thể gây ra trứng được giải phóng khỏi buồng trứng trong vòng 30 đến 40 giờ. Sau đó quá trình thụ tinh phải diễn ra từ 24 đến 48 giờ sau khi tiêm hormone này. Sự tăng trưởng của buồng trứng sẽ được theo dõi qua siêu âm và xét nghiệm máu để kiểm tra mức độ estrogen. Oestrogen là hormone chịu trách nhiệm cho sự tăng trưởng và phát triển của trứng. Một yếu tố quan trọng trong tất cả những điều này là thời gian. Thời gian quan trọng nhất khi tinh trùng phải được tiêm cùng một lúc như rụng trứng diễn ra. Điều này sẽ đảm bảo cơ hội tốt nhất có thể để thụ tinh.

Bước 2 Ở người đàn ông: họ được yêu cầu sản xuất một mẫu tinh trùng có thể được thực hiện tại nhà. Lý tưởng nhất là người đàn ông không nên xuất tinh 3 ngày trước khi sản xuất mẫu này mặc dù đã kiểm tra với phòng khám. Nếu không có tinh trùng tươi thì sau đó có thể được sử dụng tinh trùng thay thế. Tinh trùng sẽ được đưa đến phòng thí nghiệm của bệnh viện để rửa, tách tinh trùng khỏe mạnh và loại bỏ tinh trùng kém chất lượng, yếu.

Bước 3 Ở người phụ nữ: bước tiếp theo liên quan đến việc tiêm tinh trùng vào tử cung. Chuyên gia đặt một mỏ vịt bên trong âm đạo để cho phép tiếp cận vào cổ tử cung. Một ống thông (ống mỏng) được đưa vào tử cung qua đường âm đạo. Tinh trùng được tiêm vào ống này, nơi nó sẽ nhập vào tử cung. Thủ thuật này không đau, mất khoảng 30 phút. Kết quả của phương pháp sẽ được theo dõi qua siêu âm và xét nghiệm thai kỳ.

Tác dụng phụ của IUI

36

Một vài rủi ro:  Co thắt tử cung  Nhiễm trùng  Chuyển bệnh hoa liễu từ các nhà tài trợ tinh trùng  Mang thai nhiều (có thể gây ra rủi ro đối với mẹ và em bé)

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

 Thất bại điều trị

Ngoài ra có nguy cơ hội chứng siêu kích thích buồng trứng (OSS), gây ra các buồng trứng dể phóng to kích thước. Điều này có thể là một kết quả của thuốc khả năng sinh sản, mặc dù nó hiếm khi xảy ra. Nếu điều này xảy ra sau đó IUI sẽ được dừng lại cho đến khi nó đã được điều trị. Thụ tinh nhân tạo thành công

Tỷ lệ thành công thụ tinh nhân tạo đã được xác định. Nói chung, tỷ lệ thành công của thụ tinh nhân tạo được coi là có từ 5 đến 30% cho mỗi chu kỳ. Một số chuyên gia về khả năng sinh sản tin rằng tỷ lệ thành công cao hơn rất nhiều, tuy nhiên những con số này đang được tranh luận.

4.1. Thụ tinh invitro

Thông thường, một quả trứng và tinh trùng được thụ tinh bên trong cơ thể của một người phụ nữ. Nếu trứng được thụ tinh gắn với niêm mạc của tử cung và tiếp tục phát triển, một em bé được sinh ra khoảng 9 tháng sau đó. Quá trình này được gọi là thụ thai tự nhiên hoặc không được trợ cấp.

Thụ tinh trong ống nghiệm ( IVF ) là một quá trình mà theo đó các tế bào

trứng được thụ tinh bởi tinh trùng bên ngoài cơ thể.

IVF là một hình thức của công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART). Điều này có nghĩa là các kỹ thuật y tế đặc biệt được sử dụng để giúp đỡ một người phụ nữ mang thai. Thụ tinh ống nghiệm đã được sử dụng thành công từ năm 1978. Nó thường được thử kỹ thuật khác, khả năng sinh sản ít tốn kém đã thất bại.

Thành công đầu tiên ra đời của một "em bé ống nghiệm", Louise Brown , xảy ra vào năm 1978. Robert G. Edwards , nhà sinh lý học phát triển điều trị, đã được trao giải thưởng Nobel Sinh lý và Y khoa năm 2010.

Thụ tinh ống nghiệm có thể được sử dụng để giúp giải quyết vấn đề vô sinh

37

nữ do các vấn đề của ống dẫn trứng , thụ tinh trong cơ thể khó khăn. Nó cũng có thể hỗ trợ trong vô sinh nam, nơi có khiếm khuyết chất lượng tinh trùng , và trong những trường hợp như vậy phương pháp tiêm tinh trùng (ICSI) có thể được sử dụng, một tế bào tinh trùng được tiêm trực tiếp vào tế bào trứng. Điều này được sử dụng khi tinh trùng gặp khó khăn khi thâm nhập vào trứng, và trong những trường hợp đối tác hoặc tinh trùng của một nhà tài trợ có thể được sử dụng. ICSI cũng được sử dụng khi số lượng tinh trùng rất thấp. ICSI kết quả về tỷ lệ thành công của thụ tinh ống nghiệm.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Đối với thụ tinh ống nghiệm để thành công nó thường đòi hỏi trứng khỏe mạnh , tinh trùng có thể thụ tinh, tử cung có thể duy trì một thai kỳ .Do chi phí của thủ tục, thụ tinh ống nghiệm thường được cố gắng chỉ sau khi lựa chọn ít tốn kém đã thất bại. Thụ tinh ống nghiệm cũng có thể được sử dụng với việc hiến trứng hoặc đẻ thuê nơi người phụ nữ cung cấp trứng không phải là cùng một người sẽ mang thai. Điều này có nghĩa rằng thụ tinh ống nghiệm có thể được sử dụng cho những phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn kinh, hiến tặng tế bào trứng có. Nếu thụ thai thành công, phôi sẽ được chuyển vào tử cung, trong đó nó có thể cấy ghép.

Thụ tinh ống nghiệm cũng có thể được kết hợp với chẩn đoán di truyền preimplantation (PGD) để loại trừ sự hiện diện của các rối loạn di truyền . Một thử nghiệm tương tự nhưng nói chung đã được phát triển gọi là Preimplantation Genetic Haplotyping

Phương pháp

Về mặt lý thuyết, thụ tinh trong ống nghiệm có thể được thực hiện bằng cách thu nhận trứng từ ống dẫn trứng hoặc tử cung của người phụ nữ sau khi rụng trứng tự nhiên, trộn với tinh dịch và đưa vào tử cung. Tuy nhiên, không có kỹ thuật bổ sung, cơ hội mang thai sẽ vô cùng nhỏ. Kỹ thuật bổ sung thường xuyên được sử dụng trong thụ tinh ống nghiệm bao gồm buồng trứng siêu trứng để lấy nhiều trứng, siêu âm hướng dẫn phục hồi tế bào trứng qua âm đạo trực tiếp từ việc chuẩn bị buồng trứng, trứng và tinh trùng, cũng như văn hóa lựa chọn và kết quả phôi trước khi phôi chuyển vào tử cung. Kích thích buồng trứng mang nguy cơ kích thích quá mức.

Chỉ định của kỹ thuật TTTON – cho trứng

1. Suy buồng trứng sớm

2. Suy buồng trứng sau phẫu thuật

3. Không quan sát được buồng trứng do dính

4. Đáp ứng kém với kích thích buồng trứng

5. Thất bại trên 4 chu kỳ TTTON

6. Tuổi tiền mãn kinh

7. Mãn kinh sinh lý

38

8. Bất thường di truyền

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

9. Hội chứng kháng buồng trứng

Tiêu chuẩn người cho trứng

1. Tuổi 18 – 35

2. Đã có gia đình và có ít nhất một con bình thường khoẻ mạnh

3. Con nhỏ nhất lớn hơn 12 tháng

4. Không mắc bệnh lý nội ngoại khoa, bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh lý di truyền nào

5. Test HBsAg, HIV, BW âm tính

6. Xét nghiệm nội tiết đánh giá chức năng buồng trứng bình thường

7. Không có tiền căn phẫu thuật trên buồng trứng

8. Không có khối u buồng trứng, lạc nội mạc tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang 9. Không đang cho con bú

10. Không đang sử dụng nội tiết tránh thai

Tiêu chuẩn người nhận trứng

1. Tuổi từ 18 – 45

2. Vô sinh cần thực hiện kỹ thuật TTTON – cho trứng do có một trong các chỉ định kể trên.

Quy trình thực hiện

1. Thủ tục pháp lý: theo Nghị định của Chính phủ về Sinh con theo phương pháp khoa học tháng 2/2003 và Thông tư hướng dẫn cuả Bộ Y tế tháng 6/2003, người cho và nhận trứng phải thực hiện các cam kết trên nguyên tắc tự nguyện cho và nhận trứng.

39

2. Khám tổng quát và thực hiện các khảo sát để nhận những người cho và nhận trứng đúng tiêu chuẩn

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

3. Sử dụng nội tiết để điều chỉnh chu kỳ kinh nguyệt của người cho và nhận trứng cho giống nhau.

4. Kích thích buồng trứng của người cho trứng song song với chuẩn bị nội mạc tử cung của người nhận trứng bằng nội tiết.

5. Chọc hút lấy trứng của người cho trứng

6. Tinh trùng của chồng người nhận được lấy cùng ngày với ngày chọc hút trứng 7. Thụ tinh trong ống nghiệm trứng người cho với tinh trùng chồng người nhận 8. Chuyển phôi vào buồng tử cung người nhận trứng. Hỗ trợ giai đoạn hoàng thể 9. Thử thai và hỗ trợ nội tiết thai kỳ nếu có thai.

Rủi ro

Thụ tinh ống nghiệm đòi hỏi phải có một ý nghĩa vật lý, cam kết tình cảm, tài chính và thời gian. Căng thẳng và trầm cảm phổ biến trong số các cặp vợ chồng đối phó với vô sinh. Một phụ nữ dùng thuốc khả năng sinh sản có thể có đầy hơi, đau bụng , thay đổi tâm trạng, đau đầu, và tác dụng phụ khác. Nhiều loại thuốc thụ tinh ống nghiệm phải được tiêm, thường nhiều lần trong ngày. (Nhóm chăm sóc y tế sẽ dạy cho các cặp vợ chồng làm thế nào để kết hợp các loại thuốc và cung cấp cho một shot.) Tiêm lặp đi lặp lại có thể gây ra vết thâm tím.

Trong một số trường hợp hiếm gặp, khả năng sinh sản các loại thuốc có thể gây ra hội chứng buồng trứng hyperstimulation (hội chứng OHSS). Tình trạng này gây ra một chất lỏng trong bụng và ngực. Các triệu chứng bao gồm đau bụng, đầy hơi, tăng cân nhanh chóng (10 kg trong vòng 3-5 ngày), giảm đi tiểu mặc dù uống nhiều chất lỏng, buồn nôn, nôn mửa và khó thở . Những trường hợp nhẹ có thể được điều trị với nghỉ ngơi tại giường. Trường hợp nghiêm trọng hơn yêu cầu tiêu thoát nước của chất lỏng với một cây kim.

Nghiên cứu y khoa cho đến nay đã kết luận rằng thuốc khả năng sinh sản không

liên quan đến ung thư buồng trứng.

Rủi ro của trứng thu hồi bao gồm phản ứng để gây mê, chảy máu, nhiễm trùng

và tổn thương đến cấu trúc xung quanh buồng trứng, ruột và bàng quang.

40

Có một nguy cơ mang thai nhiều khi có nhiều hơn một phôi được đặt vào tử cung. Thực hiện nhiều hơn một em bé tại một thời điểm làm tăng nguy cơ sinh non và sinh thiếu cân. (Tuy nhiên, ngay cả một em bé sinh ra sau khi thụ tinh ống nghiệm có nguy cơ cao bị sinh non và trọng lượng sinh thấp.) Đó là chưa rõ liệu IVF làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh.

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

IVF là rất tốn kém. Một số, nhưng không phải tất cả các bang đều có luật nói rằng công ty bảo hiểm y tế phải cung cấp một số loại hình bảo hiểm. Tuy nhiên, kế hoạch bảo hiểm không bao gồm điều trị vô sinh. Lệ phí cho một chu kỳ thụ tinh ống nghiệm duy nhất - bao gồm cả chi phí cho thuốc, phẫu thuật, gây mê, siêu âm, xét nghiệm máu, chế biến trứng và tinh trùng, lưu trữ phôi, cấy truyền phôi có thể nhanh chóng thêm lên. Tổng số chính xác của một chu kỳ thụ tinh ống nghiệm khác nhau với mỗi cá nhân, nhưng có thể chi phí nhiều hơn $ 12.000 - $ 17.000.

 Tỷ lệ có thai phản ánh số lượng phụ nữ mang thai sau khi thụ tinh ống

Sau khi các thủ tục thống kê khác nhau từ một phòng khám khác và phải được giải thích một cách cẩn thận.

 Tỷ lệ sinh sống phản ánh số lượng phụ nữ sinh ra một đứa trẻ sống.

nghiệm. Nhưng không phải tất cả thai dẫn đến sinh sống.

 41-43% cho phụ nữ dưới 35 tuổi  33-36% cho phụ nữ tuổi 35 - 37  23-27% cho phụ nữ tuổi từ 38-40  13-18% đối với phụ nữ ở độ tuổi trên 41

Theo Hiệp hội Công nghệ hỗ trợ sinh sản (SART), cơ hội gần đúng của sinh một em bé sống sau khi thụ tinh ống nghiệm là như sau:

c. Vi thụ tinh

Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) được thực hiện thành công từ nằm 1978, đến nay, trên thế giới đã có trên 1 triệu em bé ra đời. Trong quá trình phát triển đó, đã có rất nhiều tiến bộ và kỹ thuật mới đã được đưa vào ứng dụng nhằm mở rộng chỉ định điều trị và gia tăng hiệu quả thành công. Trong đó, kỹ thuật tạo nhiều thay đổi và ảnh hưởng lớn nhất là kỹ thuật ICSI.

Sự phát triển của kỹ thuật ICSI

Từ ICSI được viết tắt từ Intra-cytoplasmic Sperm Injection, có nghĩa là tiêm tinh trùng trực tiếp vào noãn để tạo phôi. Kỹ thuật được thực hiện thành công đầu tiên vào những năm đầu thập niên 90. Chỉ vài năm sau đó, ICSI đã được triển khai khắp các nơi trên thế giới và cho đến nay đã trở thành một trong những kỹ thuật điều trị phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Hiện nay, trên thế giới đã có hàng trăm ngàn em bé được sinh ra từ kỹ thuật ICSI.

41

Chỉ định

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

• Tinh trùng bất thường về: số lượng, độ di động hoặc hình dạng

• Vô sinh do không có tinh trùng, phải lấy tinh trùng bằng phẫu thuật

• Bất thường thụ tinh (tinh trùng và noãn bình thường, nhưng không thụ tinh được)

• Thất bại nhiều lần với TTTON bình thường

Với những chỉ định được mở rộng như trên, khuynh hướng áp dụng ICSI trên thế giới ngày càng tăng. Tại châu Âu, thống kê gần đây nhất tại 537 trung tâm TTTON cho thấy có 95.221 chu kỳ ICSI trên tổng số 220.591 chu kỳ điều trị, chiếm tỷ lệ 43%. Một khảo sát tại Mỹ cũng cho thấy, chỉ trong vòng 5 năm (từ 1995 đến 2000), tỷ lệ các chu kỳ điều trị có thực hiện ICSI đã tăng lên từ dưới 10% lên đến xấp xỉ 50%. Số liệu riêng còn cho thấy tại một số trung tâm ở Bỉ, Hy lạp, Ý… số chu kỳ có áp dụng ICSI có thể đạt xấp xỉ 60%.

Hiệu quả của ICSI

Theo báo cáo thống kê ở Mỹ và châu Âu, tỉ lệ có thai của ICSI thường cao hơn một ít hoặc tương đương với kỹ thuật TTTON bình thường. Số liệu tại Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ cũng có kết quả tương tự. Số liệu công bố năm 2002 cho thấy tại châu Âu, tỷ lệ thai lâm sàng (trên chu kỳ chuyển phôi) từ các chu kỳ ICSI thay đổi từ 22%-35%, tùy theo trung tâm. Trong khi đó, theo một thống kê gần đây nhất của Hiệp hội sinh sản Hoa kỳ, với số liệu từ khoảng 28.000 chu kỳ ICSI, tỷ lệ thai lâm sàng đạt được là 36.6%.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng, ngoại trừ những trường hợp dị dạng tinh trùng nặng, thì dù tinh trùng lấy trong tinh dịch, trong mào tinh hay trong tinh hoàn, tỉ lệ có thai đạt được cũng gần tương đương. Hay nói một cách khác, tỉ lệ thành công của ICSI ít phụ thuộc vào chất lượng và nguồn gốc tinh trùng. Như vậy, kỹ thuật ICSI có thể giúp một nam giới có chất lượng tinh trùng kém, thậm chí không có tinh trùng vẫn có khả năng có con như một nam giới có chất lượng tinh trùng tốt.

42

Một số nghiên cứu cho thấy rằng ICSI có thể giúp tăng tỉ lệ thụ tinh, tăng số phôi có được, nhờ đó có thể giúp tăng tỉ lệ thành công. Với kỹ thuật TTTON bình thường, một số trường hợp tinh trùng không thể tự thụ tinh noãn do bất thường về thụ tinh, dẫn đến không có phôi để chuyển vào buồng tử cung. Với kỹ thuật ICSI, chúng ta có thể tránh gần như hoàn toàn các trường hợp trên. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn thấy rằng phôi hình thành từ kỹ thuật ICSI, khi trữ lạnh có khả năng sống cao hơn phôi hình thành từ kỹ thuật TTTON bình thường. Do các ưu

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

điểm trên, nhiều trung tâm trên thế giới hiện có khuynh hướng áp dụng ICSI cho tất cả các trường hợp điều trị vô sinh.

Một số các nguy cơ tìm ẩn của kỹ thuật ICSI

Từ khi kỹ thuật ICSI ra đời đến nay, đã có nhiều quan ngại về một số nguy

cơ có thể có đối với kỹ thuật ICSI như:

• Noãn có thể bị tổn thương khi tiêm tinh trùng và ảnh hưởng đến chất lượng phôi.

• Các trường hợp vô sinh nam có thể có nhiễm sắc thể và bệnh lý di truyền cao hơn bình thường. Khoảng 5-10% vô sinh nam do bất thường tinh trùng nặng (mật độ tinh trùng <5 triệu/ml), là có liên quan đến bệnh lý di truyền. Các bất thường này, có thể truyền sang con. Những bất thường này có thể truyền sang cho trẻ sinh sau này. Những bất thường này thường không gây ảnh hưởng đến sức khỏe, mà chủ yếu là trên khả năng sinh sản sau này

• Tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra do kỹ thuật ICSI có thể tăng nhẹ, đặc biệt ở các trường hợp tinh trùng yếu nặng, dị dạng. (Ở dân số bình thường, tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể thường khoảng 2%).

Các trẻ sinh ra đầu tiên từ kỹ thuật này trên thế giới đến nay đã trên 10 tuổi. Nhiều khảo sát về sự an toàn của kỹ thuật ICSI đã được thực hiện, có những khảo sát lớn thực hiện trên hàng ngàn trẻ, hầu hết đều cho thấy đây là một kỹ thuật tương đối an toàn, không làm tăng tỉ lệ dị tật bẩm sinh. Các nghiên cứu gần đây đều cho thấy các bé sinh ra từ kỹ thuật ICSI phát triển bình thường. Ngoài ra, sự phát triển của các trẻ này vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu tại nhiều trung tâm trên thế giới.

5. Cấy truyền phôi [4] 5.1. Khái niệm:

công nghệ cấy truyền phôi là một quá trình đưa phôi được tạo ra từ cá thể bò mẹ

này (bò cho phôi) vào cá thể bò mẹ khác (bò nhận phôi). Phôi vẫn sống, phát triển bình

thường trên trạng thái sinh lý sinh dục của bò nhận phôi phù hợp với trạng thái sinh lý

sinh dục của bò cho phôi hoặc với tuổi phôi (sự phù hợp này gọi là sự đồng pha).

Ý nghĩa của phương pháp cấy truyền phôi

43

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Cấy truyền phôi phổ biến và nhân nhanh giống tốt, những đặc tính quý hiếm ra thực

tế sản xuất trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng di truyền của những cá thể cái cao sản

thông qua việc lấy, bảo quản phôi và cấy truyền phôi của chúng.

Nâng cao cường độ chọn lọc, đẩy mạnh công tác giống trên cơ sở tăng nhanh tiến

độ di truyền hằng năm.

Hạn chế tối thiểu mức gia súc từ đó giảm chi phí đi kèm khác như : chuồng trại, vật

tư, nhân lực.Giúp con người dễ dàng, thuận lợi trong việc xuất khẩu,vận chuyển, trao đổi

giống giữa các nước, các vùng, các địa phương.

Một số phương pháp giữ gìn, bảo tồn con giống dưới dạng trứng, phôi, tinh trùng –

phương pháp giữ gìn vật liệu di truyền.

Hạn chế một số dịch bệnh và nâng cao khả năng chống chịu bệnh, khả năng thích

nghi của con vật trong môi trường mới : không lây truyền bệnh, tăng sức đề kháng,..

Làm cơ sở thúc đẩy mạnh việc nghiên cứu và phát triển một số nghành khoa học có

liên quan : sinh lý, di truyền, thú y,..

5.2. Phương pháp cấy truyền phôi ở bò

44

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

1. Chọn bò cho phôi

2. Chọn bò nhận phôi

3. Gây động dục hàng loạt

5. Bò nhận phôi động dục

4. Gây rụng trứng ở nhiều bò cho phôi

8. Cấy phôi cho bò nhận

6. Phôi giống với đực giống tốt

7. Thu hoạch phôi

10. Bò nhận phôi có chửa

11. Đàn con mang tiềm năng di truyền tốt của bò cho phôi

9. Bò cho phôi trở lại bình thường chờ chu kỳ sinh sản tiếp theo

5.2.1.Chọn bò cho phôi:

Bò cái có năng suất cao về một hoặc vài tính trạng mong muốn và các tính trạng

đó phải được di truyền cho thế hệ sau.

Yêu cầu của bò cho phôi:

 Năng suất về tính trạng mong muốn đặc biệt cao, di truyền cho thế hệ sau, ưu tiên

những tính trạng có hệ số di truyền cao và giá trị thương phẩm tương đối lớn.

 Không mắc bất cứ một khuyết tật hay bệnh di truyền nào.

 Khả năng sinh sản tốt, quá trình sinh sản bình thường. Cổ tử cung dể dàng khi đưa

dẩn tinh quản, súng cấy phôi và đặc biệt là dụng cụ gội rửa phôi.

 Thể trạng, sức khỏe tốt, vật nhanh nhẹ, không hung dữ và được tiêm phòng tất cả

bệnh.

 Không quá già (không nên quá 10 tuổi).

45

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

 Chu kỳ động dục bình thường, biểu hiện chu kỳ rõ ràng.

 Buồng trứng hoạt động tốt.

5.2.2.Bò nhận phôi

Bò cái nhận phôi không đóng góp về kiểu di truyền của con nhưng có tác động đến

kiểu hình của con non trong thời gian mang thai và nuôi con.

Yêu cầu của bò nhận phôi:

 Sinh trưởng và phát triển bình thường, không khuyết tật, thể trạng tốt, không quá

gầy và không quá béo.

 Không mắc bệnh di truyền và bệnh truyền nhiễm (Brucellois, Trichomoniasis,..),

phải được tiêm chủng định kỳ các bệnh đầy đủ.

 Trạng thái sinh lý sinh sản bình thường.

Yêu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng bò nhận phôi:

 Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.

 Chủ động theo dõi quá trình mang thai, can thiệp nếu có sự cố xảy ra như : sẩy

thai, đẻ non, đẻ khó,...

 Số lượng bò nhận phôi gấp đôi số phôi cần cấy.

5.2.3. Gây động dục đồng pha

Gây động dục đồng pha là quá trình kích thích cho con cái nhận phôi động dục

đúng vào thời điểm động dục của con cái cho phôi.

Đồng pha giữa cái nhận phôi và cái cho phôi còn có nghĩa trạng thái sinh lý sinh

dục của con cái nhận phôi phù hợp với tuổi phôi.

Mục đích của gây động dục đồng pha là tạo ra được nhiều bò nhận có thời gian

động dục đồng thời với bò cho phôi hoặc phù hợp với tuổi phôi.

5.2.4. Gây rụng trứng nhiều

Đây là một quá trình kích thích buồng trứng để tạo ra nhiều nang trứng rụng và rụng nhiều trứng hơn bình thường. Để khai thác tiềm năng di truyền siêu trội hoàn toàn của một con cái tốt, sử dụng cấy truyền phôi có thể thu được nhiều phôi nhất có thể từ

46

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

một con cái. Vì bò bình thường chỉ rụng một trứng sau mỗi lần động dục, đây là một quá trình không có hiệu quả. Có nhiều kỹ thuật để kích thích tăng số nang trứng có thể rụng trứng ở bò cái.

Những áp dụng của cấy truyền phôi

Những áp dụng khi kết hợp với gây rụng trứng nhiều của con cho phôi như sau:

- Tăng số đời con của những bò cái có tiềm năng di truyền siêu trội.

- Tăng tốc độ kiểm tra đời sau.

- Giảm khoảng cách thế hệ bằng cách gây rụng trứng nhiều của những bò cái hậu bị trước lúc khi thành thục về tính và cấy phôi cho những con nhận đã trưởng thành. Điều này có thể làm tăng tốc độ chọn lọc di truyền.

- Vận chuyển phôi từ nước này sang nước khác do đó có thể vượt qua được các vấn đề lây truyền bệnh tật và giảm thời gian kiểm dịch. Điều này cũng loại bỏ stress và giá vận chuyển gia súc sống.

- Tạo sinh đôi.

- Có thể thu phôi từ những bò cái vô sinh mà những bò cái đó không có khả năng duy trì quá trình có chửa bình thường.

- Cấy truyền phôi có thể được dùng làm công cụ nghiên cứu.

5.2.5. Thu phôi - Phôi được dội rửa từ tử cung của bò cho phôi và ngày thứ 6,7 hay 8 sau khi phối

giống.

- Thu phôi được thực hiện bằng phương pháp không phẫu thuật có sử dụng catheter hai chiều, và phôi được tách ra khỏi dung dịch rửa bằng việc sử dụng các phin lọc phôi có bán sẵn.

- Con cho phôi được phong bế thần kinh tủy sống để loại bỏ sự co bóp của trực tràng

trong lúc thu phôi.

- Dung dịch dùng để thu phôi được bán sẵn trong các túi nilon để dùng ngay. Albumin huyết thanh bò có thể được bổ xung để giảm nguy cơ phôi bị dính vào các dụng cụ thu phôi.

- Tử cung có thể được dội rửa bằng cách đặt catheter vào thân tử cung và dội rửa thân tử cung và cả hai sừng tử cung cùng một lúc, hay đặt catheter vào sừng tử cung, dội rửa một sừng tử cung đó, sau đó lấy catheter ra và đặt vào sừng tử cung khác và lặp lại kỹ thuật.

47

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

- Cần khoảng 500ml dung dịch dội rửa cho mỗi con cho và xoa bóp dung dịch trong tử cung để tách phôi khỏi thành tử cung vào dung dịch và sau đó dung dịch đội rửa được hút ngược trở lại vào phễu lọc.

5.2.6. Cấy phôi

- Phôi được cấy cho con nhận mà con nhận đó động dục càng gần với thời gian động

dục của bò cho phôi càng tốt. Sai lệch 24 giờ có thể chấp nhận được.

- Con nhận cần phải được sờ khám trước khi lấy phôi để kiểm tra xem nó có thể

vàng chức năng tốt không.

- Con nhận phải có chức năng sinh dục bình thường và tăng trọng trong tháng trước

khi cấy phôi thì có thể đạt được tỷ lệ có chửa tốt.

- Phôi có thể được cấy bằng phương pháp phẫu thuật hay không phẫu thuật.

- Cấy phôi không phẫu thuật bao gồm đưa phôi vào cọng rạ 0,25ml, và dùng pipettes cấy phôi có bán sẵn, đặt phôi vào đầu sừng tử cung tương ứng với phía buồng trứng có thể vàng chức năng.

- Nhìn chung, phong bế thần kinh tuỷ sống thường được sử dụng trong cấy phôi không phẫu thuật để loại bỏ co bóp trực tràng và do đó cho phép đặt phôi chính xác hơn và ít gây tổn thương hơn.

- Cấy phôi phẫu thuật được thực hiện thông qua vết cắt tương ứng với phía buồng trứng có thể vàng chức năng. Phôi được cấy bằng catheter nhỏ vào đầu sừng tử cung cùng phía. Vết cắt được gây mê cục bộ trong lúc phẫu thuật.

- Cấy phôi bằng phẫu thuật nhìn chung được thực hiện khi rất khó đưa qua tử cung và kỹ thuật cho phép chính xác hơn và cấy phôi ít tổn thương hơn vào sừng tử cung. Vì thế nhiều con nhận hơn có thể được sử dụng thành công và nhìn chung tỷ lệ có chửa cao hơn. Tuy nhiên, kỹ thuật này tốn nhiều thời gian.

6. Chuyển phôi

48

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Chuyển phôi

Chuyển hợp tử

Chuyển phôi giai đoạn 2 tế bào đến giai đoạn morula

Chuyển phôi giai đoạn blastocys

Chuyển phôi 1- 12 tế bào vào trong buồng tử cung

Phôi sau 5-7 ngày, nuôi qua giai đoạn blastocys để thuận lợi bám vào màng nội mạc tử cung để tăng tỷ lệ mang thai

Đặt một phôi (hợp tử tạo bên ngoài cơ thể) vào trong ống dẩn trứng thông qua kính soi ổ bụng.

7. Một số kỹ thuật liên quan [8,9]

7.1.Bảo quản phôi, giao tử 7.1.1. Đông lạnh phôi

Đông lạnh phôi là trữ lạnh phôi ở nhiệt độ cực thấp (-196oC) trong nito lỏng sẽ làm ngưng hoàn toàn các phản ứng enzyme nội bào, hô hấp tế bào, chuyển hóa, phát triển,... giúp lưu giữ chúng trong thời gian rất dài, mà sau khi rã đông những phôi này vẫn phát triển bình thường.

Có 2 phương pháp đông lạnh phôi:

 Phương pháp làm chậm  Phương pháp làm nhanh (Phương pháp thủy tinh hóa)

Nguyên tắc chung:

Để trữ tế bào sống trong thời gian dài thì tất cả các hoạt động chức năng bên trong tế bào phải ngừng lại. Ở nhiệt độ nito lỏng (-196oC) hầu hết các phản ứng hóa học không xảy ra được. Các phân tử nước tồn tại dưới dạng kết hợp, tinh thể hoặc dạng kính. Thời gian như ngừng trôi đối với tế bào được trữ. Yếu tố duy nhất có thể ảnh hưởng đến tế bào trữ lạnh là bức xạ môi trường. Tuy nhiên trong thực tế, yếu tố này không quan trọng và một nghiên cứu cho thất tế bào phôi chuột trữ lạnh sau khi được chiếu một lượng tia xạ tương đương với thời gian trữ là 2000 năm vẫn có thể phát triển bình thường sau khi rã đông và chuột con sinh ra không có dị tật bẩm sinh nào. Giai đoạn chính ảnh hưởng đến sự thành công của trữ lạnh chính là làm lạnh và rã đông. Các bước tiến hành trong quá trình đông lạnh phôi:

49

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

 Chọn phôi: phôi được chọn trữ lạnh phải có chất lượng cao để chúng sống sót và phát triển thai tốt trong giai đoạn giải đông. Theo Kenedy và cộng sự vào năm 1983, chất lượng phôi được xếp thành 5 mức độ khác nhau, phôi tốt nhất là phôi loại 1.

 Môi trường đệm: cũng giống như môi trường nuôi cấy tế bào động vật, trong đông lạnh phôi cũng cần có dung dịch đệm. Đối với những loài động vật khác nhau thì môi trường đệm cũng khác nhau. Ví dụ: PBS chứa 20% huyết thanh bê là môi trường đệm thường được dùng cho đông lạnh phôi bò. Ở các loài động vật khác môi trường đệm hay dùng là HEPES với 10 – 15% huyết thanh bê. Ở người môi trường đệm HEPES thay thế cho hệ đệm bicarbonat và có thể thêm 0,5 -1% HAS hay 10 – 15% huyết thanh của người nhận.

 Chất bảo quản: Glycerol, DMSO, ethylen glycon, polyvinyl prolydine (PVP) và sucrose thường được sử dụng bổ sung như các chất bảo vệ chống lại sự đông lạnh phôi. PVP và sucrose sẽ khử nước tự do bên trong tế bào nhưng chúng không xâm nhập vài tế bào. Trong khi đó, Glycerol, DMSO và ethylen glycon khử nước tự do trong nội bào và tế bào giúp bảo vệ cytoplasm đi vào trong.

Ở người chất bảo quản phôi thường được sử dụng là 1,2- propannediol

(PROH) và dimethyl sufoxide DMSO.

Khả năng sống sót của phôi liên quan đến nồng độ các chất bảo quản đông lạnh được thêm vào, phương pháp thêm chúng, nhiệt độ mà tại đó được thêm vào và cuối cùng là thời gian cân bằng.

 Dụng cụ chứa phôi trong đông lạnh: có thể là các ống nhựa nhỏ, ống thuốc tiêm

hay các cọng rạ dùng cho đông lạnh tinh trùng.

 Thiết bị làm lạnh và đông: trong phương pháp làm lạnh và đông có thể sử dụng ancohol đặt vào vật chứa như là môi trường làm sạch, sau đó đưa vào đá khô hay nito lỏng. Trong các thiết bị chuyên dùng làm lạnh là nito lỏng nhưng nguồn điện cũng được sử dụng để hạ nhiệt. Một số thiết bị hiện đại có thể được chương trình hóa tốc độ giảm nhiệt, nên việc đông lạnh trở nên dể dàng và hiệu quả cao.

 Tốc độ làm lạnh: <= 1oC/1 phút

7.1.2. Đông lạnh tinh trùng a.Chất bảo quản lạnh (Ở người):

 Thành phần dung dịch đệm cơ bản bao gồm 3 thể tích 0,1M sodium citrate, 1 thể

tích 0,33M fructose và 1 thể tích 0,33M glucose.

 Môi trường đông lạnh: 4ml lòng đỏ trứng thêm vào 3ml glycerol và 13ml dung đệm cơ bản, bất hoạt ở 56oC trong 30 phút và để lạnh. Cuối cùng 200mg glyceril được thêm vào và chỉnh pH về 7,2 – 7,3.

b.Đông lạnh và giải đông:

50

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

 Đông lạnh nhanh: đặt cọng rạ chứa dung dịch vào hơi (khí) nito lỏng trong 8- 30

phút, sau đó đặt thẳng cọng rạ vào nito lỏng.

 Đông lạnh chậm: giảm nhiệt từ -5oC đến -9oC, -40oC đến -80oC, đặt cọng rạ vào

nito lỏng. 7.1.3. Đông lạnh trứng a.Đông lạnh trứng:

Trứng rửa với dung dịch ấm PBS +30%HSA, chuyển sang 1,5M propannediol +

0,2M sucrose và cân bằng 15 phút trước khi nạp vào cọng rạ. b.Giải đông trứng:

Các cọng rạ giải đông nhanh ở 30oC trong bể ổn nhiệt với 40 giây, chất bảo quản

lạnh tách tách bỏ theo từng bước pha loãng ở nhiệt độ phòng.

 0,1M propannediol + 0,2M sucrose, 5 phút  1,5M propannediol + 0,2M sucrose, 5 phút  0,2M sucrose, 10 phút  Dung dịch PBS :10 phút tại nhiệt độ phòng.  Chuyển vào môi trường nuôi ở 36oC

7.1.4. Xác định giới tính phôi

7.1.4.1.Xác định giới tính của phôi bằng phương pháp di truyền tế bào

a. Barr body

Gardner và Edwards (1968) đã báo cáo rằng có thể xác định giới tính bằng sử dụng Barr body của phôi nang (6-8 ngày tuổi) ở thỏ nuôi. Tuy nhiên, nhìn chung, rất khó quan sát Barr body của tế bào phôi vật nuôi bởi vì sự có mặt của những hạt nhỏ (granule) trong nguyên sinh chất (cytoplasm). Trong một số trường hợp, phôi cái có thể bị nhầm thành phôi đực. Vì thể, phương pháp này không thể áp dụng trong sản xuất.

b. Phân tích nhiễm sắc thể của tế bào phôi

Ở phương pháp này, một mẩu nhiễm sắc thể của một tế bào của phôi được sử dụng và giới tính của phôi được xác định bằng việc xác định thành phần của nhiễm sắc thể giới tính. Rất may là nhiễm sắc thể của bò gồm những nhiễm sắc thể giới tính acrocentric và metacentric. Vì thế, rất dễ dàng để phân biệt giới tính của phôi bằng việc kiểm tra thành phần hình thái cùa các nhiễm sắc thể giới tính (XY hay XX) nếu các mẫu nhiễm sắc thể được chuẩn bị tốt. các phương pháp phân tích nhiễm sắc thể được phân loại thành ba phương pháp bởi giai đoạn phát triển của phôi hay bởi phương pháp lấy vật liệu để phân tích.

51

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

(1) Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể sử dụng các tế bào trophoblast của phôi

15 ngày tuổi không có màng trong suốt.

Hare và cs (1976) là những người đầu tiên sử dụng phương pháp phân tích nhiễm sắc thể của các tế bào phôi để xác định giới tính của phôi. Đầu tiên, họ lấy một phần (0,5mm) phôi 14-15 ngày tuổi bằng sử dụng panh và kéo nhỏ. Sau đó, họ thu vật liệu để phân tích nhiễm sắc thể bằng việc cắt phôi 11-15 ngày tuổi (kích thước <9mm) bằng một lưỡi dao thép không gỉ. Họ đã báo cáo rằng tỷ lệ thành công của phân tích nhiễm sắc thể dao động với kích thước của phôi (Hare và cs 1978). Tỷ lệ thành công là 9,0% (n=11), 63,6% (n=55) và 68,7% (n=32) khi phôi có kích thước <0,9mm, 0,9-4mm và >4,9mm, tương ứng. Wintenberger-Torres và Popescu (1980) đã cắt rời 1/3-1/10 phôi 13 ngày tuổi bằng kéo Wecker để dùng cho phân tích nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, phương pháp này không được áp dụng rộng rãi bởi vì phôi 7 ngày tuổi vẫn còn ở trong màng trong suốt được dùng để cấy truyền phôi bò.

(2) Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể bằng sử dụng một phần tế bào của phôi

6-7 ngày tuổi

Ở phương pháp này, 10-20 tế bào được lấy ra khỏi phôi ở giai đoạn phôi dâu hay phôi nang sớm bằng thao tác dưới kính hiển vi và các tế bào được sử dụng để phân tích nhiễm sắc thể.

Chỉ một số lượng nhỏ các tế bào, 10-20, được lấy ra khỏi phôi. Để lấy được ít nhất một hay hai đĩa nhân của pha giữa (metaphase) cần thiết để phân tích nhiễm sắc thể từ một mẫu, hơn 10% tế bào phải ở pha giữa. Theo Singh và Hare (1980), số tế bào trung bình ở phôi dâu 6 ngày tuổi là 50,2 và chỉ số phân bào (mitotic) trung bình là 8,9. Vì vậy, họ đã báo rằng xác định giới tính bằng việc sử dụng các tế bào lấy ra từ phôi dâu là phức tạp hơn và ít thành công hơn so với việc xác định giới tính sử dụng các tế bào trophoblast của phôi 12-15 ngày tuổi.

(3) Phương pháp phân tích nhiễm sắc thể bằng việc sử dụng một nửa phôi 6-8

ngày tuổi mà phôi đó được chia đôi.

Gần đây, với sự phát triển của kỹ thuật cắt phôi, một nửa phôi được chia đôi có thể được sử dụng để phân tích nhiễm sắc thể. Nửa còn lại có thể được bảo quản trong thời gian ngắn hay đông lạnh đến khi kết quả của phân tích nhiễm sắc thể được biết. Sau khi giới tính đã được xác định, cấy phôi được thực hiện.

Giai đoạn phát triển của phôi sử dụng ở phương pháp này tương tự như ở với giai đoạn phát triển của phôi được sử dụng rộng rãi trong cấy truyền phôi. Hơn nữa, từ khi

52

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

một nửa số tế bào tạo nên một phôi được sử dụng như vật liệu để phân tích nhiễm sắc thể thì dễ dàng thu được đĩa nhân của pha giữa và tỷ lệ thành công của xác định giới tính là cao. Bên cạnh một số thí nghiệm sử dụng phương pháp này ở Nhật Bản, Rall và Leibo (1987) đã báo cáo những kết quả của những thí nghiệm đã sử dụng nhiều phôi. Họ nhận thấy trung bình 2,64 đĩa nhân của pha giữa trong các mẫu hay ít nhất 1 trong 84,7% tất cả các mẫu các kết quả đủ tốt để cho phép áp dụng phương pháp này cho sản xuất trong tương lai.

(4) Phương pháp tạo mẫu nhiễm sắc thể phôi

Về cơ bản, các phương pháp thực hiện cùng một kỹ thuật như khi tạo mẫu nhiễm sắc thể của các mô tế bào thông thương. Đầu tiên số lượng tế bào tăng lên do nuôi cấy trước; những sợi spindle của tế bào bị phá huỷ do sử lý bằng colchicine hay colcemid để ngăn cản nhiễm sắc thể di chuyển về phía cực tế bào trong quá trình phân chia và giữ cho sự phân chia tế bào ở pha giữa (metaphase) đến giai đoạn giữa (mid-stage); sau đó các tế bào giãn nở do sử lý bằng dung dịch hypotonic để phân tán nhiễm sắc thể trong tế bào và làm cho việc kiểm tra dễ hơn, và ở bước cuối cùng, các tế bào được đặt trên phiến kính (slide glass) cùng với chất cố định và được làm khô nhanh chóng. Sau đó, các tế bào gắn vào phiến kính có thể kéo rộng nhờ sức căng bề mặt và sau đó được nhuộm.

Để nâng cao tỷ lệ thành công về xác định giới tính bằng phương pháp này, các tế bào nên được nuôi cấy để đạt được một số lượng đĩa nhân ở pha giữa mà nhiễm sắc thể của nó dễ kiểm tra. Sau đó, các mẫu làm nhiễm sắc thể mà karyotypes cần được phân tích. Trong tương lai, thời gian cần thiết để phân biệt giới tính nên được rút ngắn và phương pháp bảo quản phôi để cấy truyền cần phải được cải tiến để nâng cao tỷ lệ sống sót của chúng.

7.1.4.2.Xác định giới tính phôi bằng các phương pháp miễn dịch

Xác định giới tính phôi bằng sử dụng kháng thể H-Y

Trong các thí nghiệm ghép da có sử dụng một dòng chuột cận huyết, ghép da được chuyển từ một con chuột cùng giới tính và chuyển từ chuột đực sang chuột cái đã được chấp nhận thành công. Mặt khác, ghép da chuyển từ chuột đực sang chuột cái bị từ chối bởi vì đã gây nên phản ứng miễn dịch (Eichiward và Silmeser, 1955). Hiện tượng này dường như gây nên bởi phản ứng của gen trên nhiễm sắc thể Y, mà nhiễm sắc thể này chỉ có ở con đực (Billing và Silvers, 1960). Kháng nguyên gây nên hiện tượng này được gọi là kháng nguyên Y hoà hợp tế bào, kháng nguyên H-Y.

53

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Krco và Goldberg (1976) nuôi cấy phôi chuột trong một môi trường nuôi cấy có chứa những kháng thể này và chất bổ xung. Một số tiếp tục phát triển và một số dừng phát triển. Những phôi mà tiếp tục phát triển là phôi cái, nghĩa là, những phôi không bị ảnh hưởng bởi kháng thể đực. Những phôi dừng phát trển là phôi đực (Strzeminski, 1979; Esptein và cs, 1980). Do đó, những nghiên cứu về xác định giới tính hay tách giới tính những con vật thí nghiệm đã được thúc đẩy. Các thí nghiệm xác định giới tính hay tách giới tính những phôi gia súc như bò và dê cũng đã được tiến hành.

Wachtel (1984) thực hiện xác định giới tính trên 75 phôI bò 7-11 ngày tuổi bằng phương pháp kháng nguyên huỳnh quang gián tiếp có sử dụng kháng nguyên monoclon. 34 phôi có huỳnh quang dương tính, 31 âm tính và 10 không rõ. Ngoài số này ra, 7 phôi đã được xác định giới tính đã được cấy cho 7 con nhận, 6/7 bê sinh ra đúng với giới tính đã được dự đoán trước.

White và cs (1984) đã thực hiện xác định giới tính ở phôi bò 6-7 ngày tuổi (16 tế bào đến giai đoạn phôi nang sớm). Họ đã áp dụng phương pháp kháng nguyên huỳnh quang gián tiếp bằng việc sử dụng kháng huyết thanh H-Y tạo ra từ chuột: Trong số 125 phôI được kiểm tra, 89% những phôi đã được xác định giới tính sẽ là đực và 30% những phôi được xác định là cái phù hợp với kết quả xác định nhiễm sắc thể giới tính.

Gần đây, White và cs (1987) đã thực hiện cấy truyền phôi theo phương pháp sau: Họ xác định giới tính của phôi bằng phương pháp kháng nguyên huỳnh quang gián tiếp và sau đó chia đôi phôi để cấy cho con nhận. Tỷ lệ sống (tỷ lệ phôi tạo ra bê thành công) của những phôi đã được xác định giới tính là 36% (n=86) và những phôi chưa được xác định giới tính là 38% (n=156). Tỷ lệ sống sót của hai nhóm phôi hầu như không có sự khác biệt nào. Hơn nữa, giới tính của 84% phôi được xác định là chính xác.

54

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Tài liệu tham khảo

[1]http://ivfhungvuong.com.vn/modules.php?name=Shoping&op=display_product &pid=79&newlang=vietnamese

[2] http://www.vcn.vnn.vn/PrintPreview.aspx?ID=3531

[3] dong-lanh-15-nam-van-song.35D5E8C7.html)

[4]http://www.vcn.vnn.vn/PrintPreview.aspx?ID=3847

http://yume.vn/tothinhut/article/thu-nhan-va-bao-quan-tinh-trung-tinh-trung-

[6]http://www.gettingpregnant.co.uk/intratubal-insemination.html

[5] http://www.ivftudu.com.vn/article/1254/

[7] http://www.medic8.com/healthguide/infertility/infertility-treatment/iti.html [8] technology-intrafollicular-insemination-ifi/

[9] http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/ency/article/007279.htm [10] http://www.vcn.vnn.vn/PrintPreview.aspx?ID=4153

55

http://solutionsfromnest.wordpress.com/2011/06/03/emerging-infertility-