intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Đồng nhân dân tệ: Sự lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái thả nổi

Chia sẻ: Hgnvh Hgnvh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:36

148
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Đồng nhân dân tệ: Sự lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái thả nổi trình bày sự cần thiết của hai công cụ chính sách: tỉ giá hối đoái và chi tiêu, lộ trình cân bằng cán cân thương mại, mối liên hệ với hiệu ứng Balassa-Samuelson.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Đồng nhân dân tệ: Sự lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái thả nổi

  1. TRƯỜNG ĐẠ I HỌC KIN H TẾ TPHC M KHOA SAU ĐẠI HỌC TIỂU LUẬN MÔN: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Đồng Nhân Dân Tệ: Sự lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái thả nổi. G VHD: PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa Thực hiện: Nhóm 9, lớp NH Đêm 5 - K18. Nguyễn Châu Hà Nguyễn Thị Bích H ạnh Nguyễn Hoàn g Lan Hương Lê Thị Thanh Loan Đoàn Viết Bửu Phương Ngô Thị Phượng Ôn Ngọc Minh Trí TPHCM, thá ng 1 năm 2010
  2. MỤC LỤC Dẫn nhập...................................................................................................................................1 1 Sự cần thiết của hai công cụ chính sách: tỉ giá hối đoái và chi tiêu. ...................4 2 Lộ trình cân bằng cán cân thương m ại .....................................................................6 2.1. Lộ trình cân bằng bên trong ...................................................................................8 2.2. Mục tiêu cho cán cân thanh toán tổng thể. .........................................................10 2.3. Tiến trình cân bằng cán cân thanh toán ..............................................................12 2.4. Sự hạn chế...............................................................................................................12 2.5. Tránh khủng hoảng tiền tệ ....................................................................................13 3 Mối liên hệ với hiệu ứng Balassa-Samuelson .........................................................15 3.1. Ước lượng cho năm 1990 .....................................................................................16 3.2. Ước lượng cho năm 2000 .....................................................................................18 3.3. Dùng phép hồi quy để tìm ra giá trị trung bình..................................................18 4 Kết luận ..........................................................................................................................22 4.1. Bản thông báo vào tháng 7 năm 2005 .................................................................22 4.2. Kết luận t óm tắt ......................................................................................................23 5 Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam ..................................................................................25 Tài liệu tham khảo..................................................................................................................25 Phụ lục .....................................................................................................................................29
  3. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi Đồng nhân dân tệ: Sự lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái cố định và tỷ giá hối đoái thả nổi. Dẫn nhập Tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi đều có những lợi ích riêng, và mỗi quốc gia có quyền lự a chọn cơ chế nào phù hợp với hoàn cảnh của quốc gia đó. Tuy nhiên, một số tranh luận được đưa ra nhằm bàn về quan điểm cho rằng việc neo đồng tiền hiện nay có thể m ang lại lợi ích đối với Trung Quốc như sau:  M ặc dù dự trữ ngoại hối là m ột tấm chắn bảo vệ hữ u ích đối với khủng hoảng tiền t ệ, hiện nay mức dự trữ của T rung Quốc hầu như đã khá đ ầy đủ, và tín phiếu kho bạc Mỹ không mang lại thu nhập cao.  Ngày càng khó khăn để hạn chế dòng tiền vào theo thời gian.  Cân bằng bên ngoài có t hể đạt được bằng cách cắt giảm chi tiêu, tăng lãi suất, duy trì chính sách hai mục tiêu (cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài), và điều này thường đòi hỏi sử dụng hai công cụ t ài chính độc lập (tỷ giá hối đoái thực và lãi suất).  M ột nền kinh tế lớn như Trung Quốc có thể điều chỉnh tỷ giá hối đoái thực thông qua tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái danh nghĩa bằng việc thả nổi giá cả.  Kinh nghiệm của các thị trường mới nổi khác chỉ ra hướng để tho át khỏi việc neo đồng tiền vào thời điểm thuận lợi và đồng tiền đang mạnh, hơn là chờ đến khi thời điểm xấu và đồng tiền đang bị t ấn công.  Trong viễn cảnh dài hạn, giá cả hàng hoá và dịch vụ của Trung Quốc thấp – không chỉ là thấp so với Mỹ (0.23), mà còn thấp theo tiêu chuẩn mà hiệu ứng Samuelson-Balassa đã đo lư ờng qua nhiều quốc gia (ước k hoảng 0.36). Trong trường hợp cụ thể này, vào năm 2000 đồng Yuan đã được đánh giá thấp hơn 35%, và hiện nay thì ở mứ c thấp nhất có thể. N ghiên cứu cho thấy rằng, sự cách biệt này đã được điều chỉnh nhưng không triệt để qua các thập kỷ sau đó. Sáu lập luận trên đây đối với tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái không hàm ý một sự thả nổi tự do. Trung Quốc là một ví dụ điển hình về việc ngăn cấm “lý thuyết góc” nổi tiếng đối với cơ chế tỷ giá hối đoái trung gian. Tuy nhiên, vào thán g 7/2005 Trung Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 1
  4. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi Quốc đã ban hành chính sách m ới nhưng vẫn chưa dẫn đến kết quả cuối cùng trong việc hủy bỏ cơ chế đồng t iền neo đô la. Đồng Nhân dân tệ “Tôi đã n ghe cả hai phía của cuộc tranh luận này. Tôi cho rằng: Những ngư ời ủng hộ tỷ giá hối đoái cố định thì đúng trong ngắn hạn. Và nhữ ng ai đồng thuận tỷ giá hối đoái thả nổi thì đúng trong dài hạn. Bạn sẽ hỏi ngắn hạn là bao lâu? Bạn cần biết Trung Quốc đã 8000 năm tuổi. Do đó khi tôi nói ngắn hạn thì nó cũng có thể là 100 năm.” – Li Ruogu, phó t hống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa, D alian, tháng 5/2004, đã phát biểu. “Dĩ nhiên chúng t a không m uốn… tình trạng nư ớc Mỹ thâm hụt thư ơng mại 6% GDP” - Li Ruogu, phó thống đốc N gân hàng Nhân dân Trung Hoa phát biểu trên tạp chí Finacial Times, trang 1, với tiêu đề “China Tells U S to Put its House in Order”. M ột tỷ giá hối đoái cố định phi chính thức đã p hù hợp với Trung Quốc suốt 8 năm qua. Tuy nhiên, bài viết này cho rằng đã đến thời điểm đồng Nhân dân tệ nên đư ợc định giá cao. Nhận định này được đưa ra bởi bốn nguyên nhân chính. T hứ nhất, các phép toán dự a trên hiệu ứng Balassa – Sam uelson cho rằng giá trị thự c của đồng Nhân dân tệ được đánh giá thấp trong một thời gian – không chỉ thấp khi so sánh với đồng đô la M ỹ hoặc nhữ ng nư ớc giàu khác, mà còn th ấp hơn giá trị cân bằng đối với một quốc gia đạt mứ c phát triển như Trung Quốc. Thứ hai, mặc dù lịch sử đã cho th ấy dự trữ ngoại hối là một tấm chắn hữ u ích chống lại khủng hoảng tiền tệ, mứ c độ cán cân thanh toán của Trung Quốc luôn thặng dư và lư ợng dự trữ hiện nay đã r ất cao trong nhiều năm, để quốc gia có thể bỏ ra mua ngay lập tức t ín phiếu kho bạc Mỹ bằng số tiền mang lại từ đầu tư nội địa. Thứ ba, vào năm 2002 trong khi các nhà chức trách thành công một cách đáng chú ý khi ngăn chặn dòng t iền vào, và sự de doạ của t ình trạng quá nóng t ồn tại vào năm 2004 dư ờng như biến mất vào năm 2006, ngư ời ta nghi ngờ rằng họ hoàn toàn có thể duy trì sự ngăn chặn trên quy mô này vô thời hạn. M ột chiến lược tiếp tục loại trừ sự định giá cao ra khỏi chính sách phản hồi tổng hợp ngày càng trở nên khó khăn. Thứ tư, kinh nghiệm của các thị trư ờng mới nổi cho thấy rằng thoát ra khỏi việc n eo đồng tiền khi thời điểm thuận lợi và lúc đồng tiền mạnh thì tốt hơn là chờ đợi cho đến khi thời điểm xấu đi và đồng tiền đang bị tấn công. Một quốc Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 2
  5. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi gia lớn như Trung Quốc có thể đòi h ỏi một cơ chế tỷ giá hối đoái với một vài tính linh hoạt, đây là thời điểm tốt để bắt đầu đi theo hư ớng đó. Điều này không có nghĩa là một sự chuyển biến sang t hả nổi hoàn t oàn. Một cơ chế trung gian chẳng hạn như khu vự c mục tiêu (t arget zone) có thể là thích hợp hơn trong thời điểm n ày. Quả t hực là trường hợp của Tr ung Quốc minh hoạ tốt cho sự giới hạn của “ Lý thuy ết góc” nổi tiếng. Lời khuyến nghị đối với việc định giá cao của tác giả trùng khớp với sự thôi thúc của các chính khách Mỹ là hoàn toàn trùng hợp ngẫu nhiên. Những sự thôi thúc này thường là sự phản ứng mang tính chính trị đến sự thiếu hiểu biết trong nước (ill- informed domestic) (m ặc dù có thể hiểu được) về nguyên nhân thâm hụt thương m ại và thất nghiệp tại Mỹ. Bất kỳ m ột quốc gia nào cũng có thể tự do lựa chọn neo đồng tiền nếu họ muốn. Do đó, luận điệu “lôi kéo tỷ giá hối đoái bất hợp pháp” là không thích hợp. Điều này thậm chí không đúng khi đánh giá cao đồng Nhân dân tệ so với đồng Đô la sẽ t ạo ra một tác động đáng chú ý ngay tức thời đến th âm hụt tài chính và thất nghiệp toàn nước Mỹ, mặc dù t ác động lên cán cân t hương mại Mỹ rốt cuộc chỉ ở mức độ vừa phải nếu nhữ ng nước châu Á khác cũng đáp trả bằng sự định giá cao đồng tiền của họ so với đồng Đô la M ỹ. Nhưng trong mọi trường hợp, luật lệ thư ơng m ại đầu tiên của Tr ung Quốc sẽ được đ ặt ra đ ể xác định chính sách nào phù hợp với lãi suất của họ. Dựa trên nhữ ng nền tảng đó, bài viết này ủng hộ gia tăng tính linh hoạt của tỷ giá đối đoái. Ở đây không phải cho rằng các quốc gia thặng dư không có quyền lợi gì trong hệ thống tiền t ệ quốc t ế, hoặc là không một quốc gia nào được yêu cầu tính vào lãi suất của quốc gia khác, như một bộ phận của hệ thống tương hỗ mang lại lợi ích cho t ất cả. Nhưng trong quan điểm của tác giả, không th ích hợp để sử dụng ngôn ngữ của sự vi phạm WTO cho câu hỏi cân bằng giữa nhữ ng ý kiến thuận và chống về tỷ giá hối đoái cố định, cái mà vốn đã không rõ ràng bằng câu hỏi cân bằng giữ a thuận và chống về tự do thương mại. Nên thừa nhận ngay từ đầu rằng một cơ chế tỷ giá hối đoái cố định có m ột số lợi thế. Có lẽ hai lợi thế của việc cố định tỷ giá trong trường hợp một đồng tiền lớn cụ thể như Đô la Mỹ là rất quan trọng. Đầu tiên là sự cung cấp một đồng neo danh nghĩa để ngăn chặn các chính sách tiền t ệ có th ể gây ra lạm phát sau đó. Như ng cũng có những ứng Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 3
  6. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi viên khác có thể thay thế cho đồng tiền neo danh nghĩa, bao gồm GDP danh nghĩa, CPI và chỉ số giá xuất khẩu. Thứ hai là tạo thuận lợi thư ơng mại với các nước sử dụng đồng Đô la, hoặc ít nhất là neo vào đồng Đô la. Lợi thế khác của tỷ giá cố định bao gồm t ạo điều kiện hội nhập tài chính, đầu cơ giá lên hay giá xuống cạnh tranh, và ngăn ngừa các loại bong bóng đầu cơ có thể làm tổn hại đến tỷ giá hối đoái thả nổi. Tất nhiên là có một danh sách về lợi thế của tỷ giá t hả nổi tư ơng ứng. Bài viết trình bày các lập luận về sự linh hoạt của tỷ giá trong một bối cảnh chung. Sự tự do định giá thấp khi cán cân thanh toán thâm hụt, hoặc sản lư ợng đã giảm dưới t iềm năng, cũng quan trọng như sự tự do định giá cao trong các trư ờng hợp ngư ợc lại. Nhưng ở đây chúng tôi nhấn m ạnh trường hợp cụ thể tình hình kinh tế vĩ mô của Trung Quốc, đặc biệt là các đặc điểm về thặng dư thanh toán và sự tăng trưởng nhanh chóng. Trong phần sau của b ài viết, chúng ta xem xét những tác động dài hạn của các hiệu ứng Balassa-Samuelson, và cung cấp một số tính toán đơn giản cho phép sai lệch tạm thời trong mối quan hệ Balassa-Samuelson mà hầu hết các tác giả không đưa vào. 1 Sự cần thiết của hai công cụ chính sách: tỉ giá hối đoái và chi tiêu. M ột số quan điểm cho rằng những thay đổi trong t ỉ giá hối đoái là không cần thiết hoặc không đủ để điều chỉnh cán cân thương mại. Trong một chừng mực nào đó, quan điểm này đúng, nhưng không phải khi nào nó cũng chính xác. Sự thật là những chính sách khác m ới quan trọng, đặc biệt là những chính sách tác động đến mứ c độ chi tiêu. Thực ra một sự thâm hụt thư ơng m ại có thể được ví như là m ột sự chi tiêu vư ợt quá thu nhập, và thặng dư thư ơng m ại thì ngư ợc lại. Do đó, những thay đổi trong chi tiêu có tác đ ộng đến cán cân thư ơng mại. Nhưng điều này không có nghĩa rằng thay đổi trong tỉ giá hối đoái cũng không quan trọng. Chúng ta thấy rằng, tỉ giá hối đoái thực đóng vai trò rất quan trọng bởi vì bất cứ một quốc gia nào cũng có những mục tiêu khác bổ sung vào việc điều chỉnh cán cân thương mại. Điều này cũng có nghĩa là tỉ giá hối đoái danh nghĩa cũng đóng vai trò quan trọng không kém đối với hầu hết các quốc gia – đặc biệt là đối với những quốc gia lớn như Tr ung Quốc. Lập luận cho rằng rằng việc điều chỉnh tỉ giá hối đoái là không quan trọng có thể bắt nguồn từ hai quan điểm thương mại mâu thuẫn nhau. Một bên thì cho rằng độ co giãn của thương mại, tức d iễn tả sự phản ứng của xuất khẩu và nhập khẩu trong mối quan hệ với giá cả, là rất thấp, và do đó nó ít tác động đến sự điều chỉnh cán cân thương Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 4
  7. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi mại. Quan điểm ngược lại thì cho rằng độ co giãn của thương mại là rất cao – cao đến mức mà các doanh nghiệp buộc phải điều chỉnh toàn bộ giá cả ngay lập tức để phản ứng lại sự dao động của t ỉ giá hối đoái hoặc nếu không sẽ phải đối m ặt với việc m ất toàn bộ khách hàng. Trên thực tế, lập luận này dựa trên hai thái cực. M ức giá cả sẽ điều chỉnh một phần đến sự thay đổi trong tỉ giá hối đoái, đặc biệt là trong ngắn hạn. Bài viết này sẽ tiếp tục dựa trên những giả định đó. Một mô hình đơn giản và chuẩn mực t ập trung vào sự khác biệt giữa những hàng hóa được trao đổi trên bình diện quốc tế và những hàng hóa không được trao đổi trên bình diện quốc tế. Giả định rằng sự điều chỉnh giá cả trong ngắn hạn sẽ ảnh hưởng t ới sự thay đổi của tỉ giá hối đoái là hoàn toàn nằm trong phạm vi khu vực hàng hóa thư ơng mại quốc tế, vì vậy tính biến đổi trong tỉ giá hối đoái thực hoàn toàn bắt nguồn từ khu vự c hàng hóa phi thương m ại quốc tế. Tôi mong rằng t ất cả các quan điểm trong bài viết này có thể đem ứng dụng vào các mô hình khác một cách dễ dàng, miễn là độ co giãn phải lớn hơn không nhưng ít hơn vô cự c, và mứ c giá trong ngắn hạn chỉ điều chỉnh một phần đến sự thay đổi trong tỉ giá hối đoái. Quan điểm chung là khuôn khổ các mục tiêu và công cụ chính sách cổ điển 1 Khuôn khổ đó có t hể lạc hậu và không phù hợp đối với một nền kinh tế năng động như Trung Quốc; nhưng đây chỉ là một giả định. Điểm giao nhau của hai đường, tức điểm biểu diễn cân bằng giữ a tỷ giá hối đoái thự c và sản lượng tiềm năng, s ẽ được quan sát khi nó dịch chuyển dần dần theo thời gian. Trong một quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng như Trung Quốc điểm giao nhau sẽ dần dần dịch chuyển về bên phải, khi mà sản lượng đầu ra tiềm năng tăng lên, và dịch chuyển dần dần đi xuống khi m à hiệu ứng Balassa - Sam uelson tác động dẫn đến việc nâng giá trị thự c. Đáng tiếc là hầu hết các phân tích hoặc chỉ xem xét đến sự thay đổi của đ iểm cân bằng liên quan đến m ối quan hệ Balassa - Sam uelson hoặc chỉ xem xét độ lệch trong ngắn hạn của nền kinh tế từ điểm cân bằng – biểu đồ Swam. Bài viết này cố gắng để xem xét trên cả hai khía cạnh, bởi cả hai đều quan trọng. Chúng t a bắt đầu với độ lệch trong ngắn hạn. Chính phủ có hai loại công cụ chính sách đó là: sự dịch chuyển trong chi tiêu (tỉ giá hối đoái thực) và cắt giảm chi tiêu (chính sách tài khóa và tiền tệ). Giả định cụ thể đối với Ngân 1 Xem lại khái niệm khuôn khổ các mục ti êu và công cụ chính sách trong Ti nbergen, Meade và Mundell (1968). Bài viết của chúng tôi dựa trên bi ểu đồ Swan (1963). Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 5
  8. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi hàng nhân dân Trung Hoa, ta thấy Ngân hàng nhân dân Tr ung Hoa có thể tùy ý sử dụng cả hai công cụ chính sách: tỉ giá hối đoái và lãi suất. Lãi suất được áp dụng nhanh chóng cho t ất cả các chính sách tiền tệ bao gồm tín dụng nội địa, mức dự trữ bắt buộc v.v…và quả thực là các chính sách khác đều tác động lên mứ c tiêu dùng nội địa. Hình 1 thể hiện hai công cụ chính sách tr ên hai trục. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến một mục tiêu chính sách, thì cuộc sống sẽ trở nên đơn giản. Xem xét m ục tiêu đầu tiên, cán cân thư ơng mại là một tiêu chuẩn cho sự cân bằng bên ngoài. Để cho đơn giản, chúng t a xem như mục tiêu cân bằng thương m ại là con số không. Thật ra, mục tiêu đó có vẻ phù hợp đối với một quốc gia đang phát triển nhanh chóng có tỷ lệ vốn/lao động thấp nhưng lại có lợi nhuận từ đầu tư cao dẫn đến thâm hụt thương mại và hỗ trợ bằng cách vay mượn từ nư ớc ngoài. Nhưng cho dù mức đ ộ mục tiêu là con số không hay con số nào khác nữ a thì cũng không quan trọng cho việc phân tích này. Hình vẽ 1: 2 Lộ trình cân bằng cán cân thương mại Có nhiều cách kết hợp khác nhau giữa tỉ giá hối đoái thự c và lãi suất thực phù hợp với cán cân thư ơng mại là con số không, và chúng được biễu diễn bởi đường thẳng EB dốc xuống như trong hình 1 (chúng ta đang xác định tỉ giá hối đoái thự c v à d anh nghĩa bằng giá của hàng hóa hoặc t iền tệ nước n goài được bán trong nư ớc tương đương, do Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 6
  9. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi đó một sự gia t ăng trong tỷ giá hối đoái cũng đồng nghĩa với sự định giá thấp đồng tiền trong nước). Để thấy rằng đường EB dốc xuống, hãy xem xét một sự thâm hụt quốc gia tại điểm D, ví dụ những nạn nhân của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 như Thái Lan hoặc Hàn Quốc (hay như Mỹ hôm nay!). Tại điểm D, các quốc gia có thể loại bỏ thâm hụt thư ơng m ại bằng cách hoặc là nâng giá trị thự c, m ột sự dịch chuy ển lên trên - hoặc là bằng cách cắt giảm chi tiêu, một sự dịch chuy ển về bên phải. Bây giờ hãy tư ởng tư ợng rằng một quốc gia nhận thấy rằng nó đang có thặng dư thương m ại rất lớn. Sau đó nó đư ợc xác định ở vị trí phía trên hoặc bên phải của đường cân bằng bên ngoài (đường EB), tứ c tại điểm C. Nó có thể quay trở lại điểm cân bằng bằng cách giảm tỷ giá hối đoái thự c ( E) hoặc là bằng cách giảm lãi suất (i). Lãi suất thấp sẽ kích thích gia t ăng tiêu dùng nội địa, một số sẽ tăng tiêu dùng hàng hóa nư ớc ngoài vì vậy nhập khẩu gia tăng (hoặc là tăng tiêu t hụ cả những hàng hoá lẻ ra phải được xuất khẩu), do đó làm giảm cán cân thương mại. Giảm tỷ giá hối đoái thực có thể đạt đư ợc hoặc là bằng việc định giá cao đồng tiền hoặc là cho phép giá cả hàng hóa gia tăng do đó hàng hoá trong nư ớc m ất khả năng cạnh tranh trên thị trư ờng thế giới và mục t iêu giảm cán cân thư ơng mại lại tiếp tục đạt được. Như vậy, Chính phủ có thể hoặc là hạ thấp lãi suất(i) hoặc là hạ thấp E; tức là tăng cái này thì phải giảm cái kia. M ột sự thỏa hiệp đảo ngư ợc giữa i và E đặc trư ng cho sự kết hợp của các điểm mà mang lại sự cân bằng trong cán cân thương m ại. Đó là mối quan hệ cân bằng bên ngoài. Cách nào để đạt được sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực thì được ưu thích hơn, giảm trong tỷ giá hối đoái danh nghĩa hay là gia tăng trong mứ c giá? Lựa chọn giữa tỷ giá hối đoái thả nổi và cố định phụ thuộc vào m ột số nhân tố khác, mà các nhân t ố này biến đổi theo từ ng trư ờng hợp. Nhiều tiêu chuẩn này thất bại trong phạm vi quyền sở hữu chung của lý thuyết đồng t iền khu vự c tối ưu. Một thứ rất nhỏ, rất mở rộng, nền kinh tế - đặc khu Hồng Kông – sẽ tìm thấy nó có mối quan hệ với việc t ốn rất nhiều tiền của để từ bỏ cái nút điều chỉnh tỉ giá hối đoái, và có thể tìm thấy nó dễ dàng hơn để cùng điều chỉnh mứ c giá thật sự. Trung Quốc là một quốc gia có thị trường nội địa Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 7
  10. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi lớn, điều đó chỉ ra rằng sự điều chỉnh t hông qua tỷ giá hối đoái có sự hấp dẫn đầu tư hơn2 Nếu cân bằng thư ơng mại là mục tiêu duy nhất, khi đó có lẻ sẽ không cần phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái thực. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa có thể được cố định - với tất cả những điều kiện thuận lợi nhất mà nó đòi hỏi. Có nghĩa sẽ không cần phải trải qua bất cứ sự thay đổi nào trong mức giá khác. Sự điều chỉnh có thể xảy ra trong mứ c chi tiêu, hơn là thông qua sự dịch chuyển chi tiêu. Trong điều kiện của các công cụ chính sách của N gân hàng Trung ương, chính sách tiền tệ có thể thự c hiện tất cả những việc trên. 2.1. Lộ trình cân bằng bê n trong Cân bằng thương m ại không phải là mục tiêu duy nhất, chính phủ nên thự c hiện tất cả những mục tiêu vĩ mô khác. Cái chúng ta cần quan tâm bây giờ là cân bằng bên trong. Bởi vì một quốc gia luôn có hơn một mục tiêu chính sách, cho nên nó sẽ cần nhiều hơn một loại công cụ chính sách để đạt đư ợc những mục tiêu đó. Chỉ có lãi suất thôi thì chưa đủ. (Về sau, chúng ta sẽ quay lại mục tiêu thứ 3: tài khoản vốn hoặc cán cân thanh toán toàn diện). M ục tiêu cân bằng bên tr ong có thể đư ợc xác định khi s ản lượng đầu ra bằng với sản lượng đầu ra tiềm năn g, hoặc khi việc làm bằng với tỷ lệ việc làm tự nhiên, hoặc khi lạm p hát ở mức mục t iêu hoặc không có áp lực giảm phát. M ột quốc gia nhận thấy sản lượng đầu ra trên mức tiềm năng, Y>Ῡ, tức có một sự dư thừa trong cầu về hàng hóa. Kết quả là nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Để giảm n hiệt nền kinh tế, Chính phủ có thể gia tăng lãi suất hoặc nâng giá trị thực của đồng tiền. Trong trư ờng hợp hình 1, chúng ta đang bàn về nền kinh tế m à tự nó nhận thấy nó đang nằm ở phần phía tr ên 2 Tầm quan trọng trên thị phần của giao thương hàng hóa trong nền kinh tế được biết đ ến như là ti êu chuẩn khu vực lưu hành ti ền t ệ tốt nhất có t ừ thời McKi nnon (1963). Thuật ngữ “khu vực l ưu hành tiền t ệ tốt nhất” t ự bản thân nó đã có thừ t hời Mundell (1961), ông đã tập trung vào tính di đ ộng của lao động qua biên gi ới bởi vì ti êuchuẩn của ông t ừ bỏ chính sách tiền tệ độc lập. Đánh giá bài báo này đ ã có quan điểm cho r ằng nguyên nhân để nghĩ rằng ti ền l ương và giá cả ở Trung Quốc là thả nổi, mặc d ù đất nước r ộng lớn và con đường lịch s ử cộng sản: b ởi vì nền kinh t ế quá năng động, tiền lương hay thay đổi, đứng tr ên quan đi ểm n ày cho thấy n ền kinh tế đang tăng tr ưởng mạnh tr ong đi ều ki ện bình thường, bất chấp lạm phát trong giá cả, bởi vì sản xuất tăng tr ưởng, cho nên ít có l ý d o để lo ngại cho n hững khó khăn không đáng kể Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 8
  11. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi bên trái đường Y=Ῡ, nó có thể quay trở lại điểm cân bằng bên trong bằng việc dịch chuyển về bên phải của hình 1, hoặc là dịch chuyển xuống dưới. Năm 2002, có một sự tranh cãi cho rằng Tru ng Quốc ở trạng thái Y = Ῡ, tại điểm C2002 , trong vùng thặng dư cung hàng hóa, m ột số chính s ách tiền tệ để giảm bớt sự thặng dư đư ợc đặt ra, nhằm gia t ăng tiêu dùng và trở lại lại điểm cân bằng bên trong. Tuy nhiên, vào năm 2004, Trung Quốc đã có sự dịch chuyển đến phía khác của đường thẳng, đến tại điểm C2004. Kết quả là một sự kết hợp nhằm gia t ăng lãi suất hoặc nâng giá trị thực được đưa ra. Vào năm 2006, hiểm họa do tăng trưởng nóng đã dịu bớt, và Trung Quốc đã quay trở lại sát với đường cân bằng bên trong. Điều này phụ thuộc sự gia tăng trong lãi suất của M ỹ và trong giá trị của đồng đô la năm 2004-05 hơn là do chính sách t hắt chặt tiền tệ của Tr ung Quốc vư ợt quá và cao hơn mức của thế giới. Chỉ có một điểm duy nhất trên đồ thị tại đó đạt được cả hai mục tiêu đòi hỏi, đó là điểm giao nhau của hai đường. Mấu chốt của b ài này là ở điểm đó, thông thường, người ta phải sử hai loại chính sách – cắt giảm chi tiêu và dịch chuyển chi tiêu, đư ợc biểu diễn bởi hai trục – để đạt được đồng thời cả hai mục đích. Kinh tế Tru ng Quốc hiện nằm ở vị trí góc phần tư phía trên của đồ thị: đó là sự kết hợp giữa thặng dư thương mại và và dư thừ a trong cầu hàng hóa. K hông có thông t in chính xác hơn thì không t hể biết chiều hướng di chuy ển của lãi suất được hình thành bởi sự kết hợp tối ưu của 2 công cụ điều chỉnh. Nó tùy thuộc vào Trung Quốc đang nằm ở góc nào của đồ thị. Nhưng có thể biết đư ợc chiều hướng di chuyển của tỉ giá hối đoái thự c: hướng xuống, tức là có sự nâng giá đồng tiền. (Rồi sau đó, chúng ta xem xét m ột tranh luận khác là tại sao sự di chuyển đến điểm cân bằng của Trung Quốc ngày nay hàm ý một sự nâng giá đồng nội tệ: mối quan hệ Balassa-Samuelson có thể đư ợc nghĩ đến như việc xác định giao điểm cân bằng trong dài hạn). Sự nâng giá thực diễn ra trong những năm 1990 dưới hình thức lạm p hát. Nhưng chắc chắn là họ không muốn sự nâng giá đồng nội tệ xảy ra t heo hình thứ c này. Lạm p hát thì không tốt chút nào. Đ ặc biệt, nếu lập luận cho rằng việc neo t ỉ giá là một công cụ chống lạm phát của chính sách tiền tệ, thì tranh luận về việc bỏ chế độ neo tỷ giá đư ợc ủng hộ nếu nền kinh tế lạm phát cao hơn cả mứ c neo tỷ giá. Tình trạng đó ở Trung Quốc làm tăng dự trữ quốc t ế của cơ sở tiền t ệ, ngư ợc lại với tài sản quốc gia ròng. Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 9
  12. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi Điều đó làm tăng thêm lạm phát. Vì thế, những tranh luận về một sự tăng giá danh nghĩa đư ợc thay thế. 2.2. Mục tiêu cho cán cân thanh toán tổng thể. Có 3 thành phần của thặng dư cán cân thanh toán lớn mà Trung Quốc đ ã trải qua từ năm 2002. Đầu tiên, cán cân thương mại thường xuyên trong tình trạng thặng dư (ngoại trừ m ột khoảng t hời gian ngắn trong đầu năm 2004). Điều này hẳn là đề tài tranh cãi vì Trung Quốc lẽ ra là đang trải qua thâm hụt thương mại (không chỉ bởi m ột đất nước tăng trưởng nhanh chóng như Trung Quốc thường được kỳ vọng thâm hụt thương mại, đư ợc tài trợ bằng vốn vay từ nư ớc ngoài m à còn bởi nhữ ng cam kết gia nhập WTO). Nhưng ngoài cán cân thư ơng m ại, vẫn có câu hỏi đặt ra cho cán cân thanh toán tổng thể, tổng của t ài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Thứ hai, các nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là đáng kể. Trong một thời gian dài, đây là sự thành công trong chiến lược phát triển của T rung Quốc, điều này thường được giải thích bởi nhu cầu nhập khẩu nhữ ng bí quyết công nghệ & q uản lý và sự hợp tác t ốt để bù đắp cho lự c lượng lao động sản xuất giá rẻ. Thứ ba, dù các dòng vốn đầu tư vào vẫn bị hạn chế bởi chính phủ Trung Quốc, nhưng các dòng vốn này vẫn đang tìm cách vào bằng đư ờng này hay đường khác. (Phần lớn, người dân Trung Quốc tích trữ đôla kiếm được ở hải ngoại trư ớc đây và bây giờ đang mang chúng trở về nước, đề phòng việc định giá lại tiền tệ). Thước đo cán cân bên ngoài nào là đúng? Không thể xác định chính xác cái nào đúng để có một mục tiêu cho tài khoản vãn lai, chứ không phải cho cán cân thanh toán tổng thể, hoặc ngư ợc lại. Cả hai thước đo đều là mối quan tâm của những nhà hoạch định chính sách. Tại sao lại đo lường cán cân thanh toán? Đối với bất kỳ quốc gia nào, sự bất lợi của thâm hụt cán cân thanh to án là ngân hàng Trung ương phải tiến hành giảm lượng tiền dự trữ. Nếu quy trình này cứ tiếp tục d iễn ra, rốt cuộc ngân hàng Trung ương sẽ phải điểu chỉnh hướng đi. Dư ới điều kiện thị trường vốn mở, nếu dự trữ t iến đến mức tới hạn (không đư ợc bằng 0), việc tăng dự trữ đột ngột có thể tác động làm cho việc điều chỉnh diễn ra nhanh chóng, và dưới điều kiện không mấy dễ chịu. Ví dụ như trong cơn khủng hoảng tại Đông Á năm 1997-1998, các nền kinh tế thự c hiện giảm dự trữ đã phải chịu khủng hoảng rõ rệt (Thái Lan, Hàn Quốc, v.v…), trong khi các nền kinh tế Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 10
  13. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi đang duy trì mức dự trữ cao là các nước có khả năng vượt qua cơn khủng hoảng (Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan). M ặt khác, điểm bất lợi của thặng dư cán cân thanh toán là việc dự trữ, mà điển hình là hình t hức công trái và trái ph iếu kho bạc M ỹ và các chứng khoán đôla khác, thường được chi trả một tỉ suất lợi nhuận t hấp. Lãi suất trái phiếu kho bạc M ỹ thấp là do thị trường bất ổn và sự vỡ nợ trong s uốt những năm 2001 - 2004, bởi Cục dự trữ liên bang đã đưa ra lãi suất ngắn hạn ở dưới mứ c thông thường trước đây. Các nhà chức trách Trung Quốc đã đa dạng hóa từ các công trái kho bạc sang các trái phiếu trung gian và những chứng khoán dài hạn khác có lợi nhuận cao hơn đôi chút. Nhưng điều chắc chắn là đồng đô la m ất giá trong 10 năm tới, không nhất thiết trong ngắn hạn, bởi sự thâm hụt thương mại ở Mỹ, nó sẽ làm giảm rất nhiều lợi nhuận từ việc nắm giữ chứng khoán đôla. (Sự đa dạng hóa sang đồng Euro hoặc tiền tệ khác rõ ràn g là chưa đi xa được). Đồng thời, Trung Quốc đang trả cho các nhà đầu tư nư ớc ngoài cho việc đầu tư vào trong nư ớc một mức lợi nhuận cao hơn là Trung Quốc kiếm đư ợc, có nghĩa là đã làm thất thoát của đất nước trong tổng thể. Tác giả cảm thấy rằng Trung Quốc không hề vô lý khi muốn t ích lũy dự trữ, bởi sự không ổn định đã diễn ra 10 năm nay. Theo đó, người ta có thể hợp lý hóa sự thặng dư cán cân thanh toán và sau đó là thặng dư thương mại, mặc dù tôi đoán rằng hàng suất khẩu và nhân công lao động là động lực thúc đẩy quan trọng hơn trong suy nghĩ của các nhà làm chính sách Trung Quốc khi họ can thiệp để duy trì cái neo phi chính thức (de facto peg). Thêm vào đó, hiện tại thì mức dự trữ khá cao - chẳng bao lâu sẽ vượt qua mốc 1 tỷ đôla mà trư ớc đây Nhật Bản đã trải qua - đến nỗi việc tích trữ vốn hơn nữa có vẻ không đạt được bằng cách tăng chứng khoán (security). Vì thế t ôi tóm t ắt lại bản phân tích rằng mục tiêu của cán cân thanh toán tổng thể là bằng không. Sự cân nhắc khác trong việc lựa chọn mức m ong m uốn của cán cân thanh toán t ổng thể là sự kết hợp các dòng dự trữ cho cơ sở tiền tệ (m onetary base). Nếu các nguồn dự trữ chảy vào thông qua thặng dư cán cân thanh toán, nó làm tăng áp lự c lên cơ sở tiền tệ. N gược lại, nếu các nguồn dự trữ chảy ra ngoài thông qua thâm hụt cán cân thanh toán nó làm giảm áp lực lên cơ sở tiền tệ. Nếu ngân hàng trung ư ơng m uốn làm cho những quyết định chính sách tiền tệ nội địa không bị trở ngại bởi các t hay đổi trong dự Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 11
  14. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi trữ ngoại hối thì điều đó có thể là điều tranh cãi cho mục tiêu zero trong cán cân thanh toán. 2.3. Tiến trình cân bằng cán cân thanh toán Bất chấp con số mục t iêu nào được chọn cho cán cân thanh toán tổng th ể, giao điểm giữa i và E trong biểu đồ 1 tương ứ ng với mục tiêu đó – như đối với cán cân thương mại – cũng dốc xuống. Chúng ta thấy rằng tỷ giá hối đoái thực và lãi suất có tác động cùng chiều lên cán cân thương mại (thông qua sự cạnh tranh và chi tiêu, một cách tương ứng) vì vậy nếu m ột cái tăng lên, cái kia phải giảm xuống để duy trì sự cân bằng. Nhưng thêm vào đó, chúng hầu như cũng có tác động cùng chiều lên tài khoản vốn: một sự tăng trong lãi suất sẽ tác động lên dòng vốn vào, nhữ ng cái khác không thay đổi, trong khi một sự tăng trong tỷ giá hối đoái cũng làm cho tài sản trong nư ớc hấp dẫn hơn (rẻ hơn) đối với ngư ời nước ngoài. M ột lần nữ a, nếu một thứ tăng lên thứ khác phải giảm xuống, nếu tài khoản vốn vẫn giữ nguyên ở một con số cụ thể nào đó. Do đó, mối quan hệ chủ yếu (relationship governin g) trong cán cân thanh toán tổng thể cũng có chiều dốc như mối quan hệ chủ yếu trong cán cân thương m ại. Nếu chúng t a thay thế mục tiêu cán cân t hanh toán cho mục tiêu cán cân thư ơng m ại, thì m ột lần nữa chúng ta nhận ra Trung Quốc hiện nay đang nằm nử a trên bên phải của biểu đồ, t ại một trong các điểm của C. Một lần nữ a, sự nâng giá tiền tệ được nhắc đến. 2.4. Vô hiệu hóa bằng chính sách tiền tệ (Ste rilization) Chúng ta vừa đề cập đến t hặng dư cán cân thanh toán hàm ý rằng yếu tố dự trữ đồng tiền cơ sở đang tăng lên. Một số chính sách tiền t ệ m ở rộng hoàn toàn th ích hợp, đặc biệt là trong một nền kinh tế tăng trưởng mạnh trong dài hạn đến 10%. Nhưng trong một nền kinh tế đang gặp nguy cơ vì nới lỏng tiền tệ quá mức, ngân hàng trung ương có thể cắt giảm nhữ ng dòng t iền vào, để làm chậm lại sự tăng nguồn cung tiền. Sự cắt giảm có thể đư ợc xác định rõ ràng, như ngân hàng trung ương giảm tài sản nội địa ròng, bằng cách bán trái phiếu, để giữ cho đồng tiền cơ sở không tăng lên. Hoặc sự cắt giảm có thể đư ợc xác định một cách chung chung, như hệ thống ngân hàng giảm lượng tiền gửi trong nước, chẳng hạn như tăng dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng, để giữ cho M1 không tăng. Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 12
  15. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi Sự vô hiệu hóa có t hể là một phản ứng tốt đối với dòng vốn vào, trong một giai đoạn nhất định. Nó có thể giúp đất nư ớc duy trì mục tiêu tỉ giá hối đoái m à không từ bỏ m ục tiêu về cung tiền hoặc lãi suất. Nhưng nó có thể trở nên khó khăn hơn sau đó, đặc biệt là nếu rào cản truy ền thống đối với dòng vốn dần dần bị xóa bỏ. Vấn đề là nó chỉ kéo dài sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán, vì nó bỏ qua cơ chế điều chỉnh tự động mà dòng tiền dự trữ tạo ra cho cán cân thanh toán. Một vấn đề t iềm ẩn khác là thâm hụt tài chính: nếu ngân hàng trung ư ơng phải trả lãi suất cao cho những người tự nguyện trong nước để thu hút “những trái phiếu bị hạn chế” (sterilization bonds), trong khi ngân hàng nhận được lãi suất thấp trên những chứng khoán kho bạc Mỹ, điều đó làm cho thâm hụt. Hơn nữ a, PBoC dường như gặp ít khó khăn hơn trong việc vô hiệu hóa, nó không phải trả lãi suất cao trong nước. Nhưng tình trạng tốt đẹp này có thể thay đổi. Chính phủ đang cố gắng đạt được thành công bằng cách ép những sterilization bonds này xuống ngân hàng mà không phải trả lãi suất thị trường - một hình thứ c kiềm chế tài chính – điều này làm yếu đi bảng cân đối của các ngân hàng và tạo thêm một cú đánh vào cuộc khủng hoảng ngân hàng. 2.5. Tránh khủng hoảng tiền tệ Các quốc gia Châu Á hiện đang xoay sở để tránh các cuộc khủng hoảng như đã từng xảy ra và gây nhiều th iệt hại cho châu lục trong khoảng 1997 – 1998. Nhiều nội dung trong chính sách này đề cập đến việc cố gắng để giảm thiểu khả năng xảy ra và những thiệt hại nghiêm trọng do khủng hoảng gây ra. Một số quyết định được đưa ra để giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng, ví dụ như t ăng tốc độ tự do hóa tài khoản vốn, tuy nhiên quyết định này thì đang gây tranh cãi. Những quy ết định khác thì được sự đồng thuận nhiều hơn, chẳng hạn như là cải cách ngân hàng, đảm bảo tỷ lệ dự phòng đầy đủ và chuyển từ dòng vốn ngắn hạn bị chi phối bởi đồng đô la sang dòng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và chứ ng khoán dài hạn. M ặc dù có nhiều quan điểm xung quanh vấn đề về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái, nhưng đến nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Cuối thập niên 1990, đã có nhiều sự đồng thuận cao với quan điểm “ Lý thuy ết góc”: cố định hay thả nổi tỷ giá, theo cơ chế nào thì phù hợp hơn. Như ng nhìn chung t ác giả vẫn còn hoài nghi về cách nhìn nhận này. Tru ng quốc là một thị trường quá lớn không th ể đô la hóa hoặc chấp nhận 1 hệ thống tiền tệ chung, nhưng có lẽ vẫn chưa sẵn sàng cho việc chấp nhận cơ chế điều Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 13
  16. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi hành tỷ giá thả nổi. Điều này dẫn đến 1 cơ chế mới, phù hợp hơn: hoặc là tỷ giá cố định có thể thay đổi, hoặc là lựa chọn đồng tiền chuẩn là đồng đô la hoặc 1 đồng tiền chung nào đó. Việc xác định sự ngang giá theo rổ tiền t ệ có khuynh hướng ít minh bạch và k ém tin cậy hơn xác định theo 1 loại tền tệ duy nhất. Châu Á hiện đang thiếu 1 loại tiền tệ đóng vai trò chuẩn mự c cho tất cả các quốc gia trong khu vự c. T rung quốc hiện vẫn chưa có thị trư ờng tài chính mở và phát triển đủ mức cần thiết để biến đồng Nhân dân tệ thành đồng tiền tiêu chuẩn trong khu vực; trong khi đó, đồng Yên của Nhật bản thì không ổn định so với đồng Đô la hoặc Euro. Tôi cho rằng theo lộ trình có thể thực hiện việc hợp nhất hệ t hống tiền tệ Châu Á, Singapore có thể đảm đư ơng vai trò vày. Và như vậy, những quốc gia trong khu vự c có thể sử dụng đồng đô la Singapore làm chuẩn đối với tỷ giá hối đo ái của mình. M ột số ngư ời cho rằng, nếu Trung Quốc muốn giảm thiểu khả năng xảy ra khủng hoảng th ì Trung quốc cần tránh việc định giá cao đồng Nhân dân tệ, Trung quốc cần giữ t ài khoản vãng lai càng nhiều càng tốt. Sự thật là, hệ thống tiền t ệ được định giá quá cao cũng là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997, mặc dù trư ớc đây, các nước phư ơng T ây đã khuyến khích việc đ ịnh giá cao đối với các quốc gia thặng dư . Việc định giá cao hầu như sẽ dẫn đến thâm hụt thương mại và vay nợ ròng từ nước ngoài, và nhữ ng quốc gia vay nợ nư ớc ngoài thì hầu như sẽ rơi vào khủng hoảng. Nhưng có 1 quan điểm khác mà theo đó chuyển sang cơ chế tỷ giá linh hoạt có thể làm giảm khả năng xảy ra khủng hoảng hơn là làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng. Nếu dòng vốn đầu tư đổ vào trở thành dòng vốn rút ra như là một phần trong chu kỳ mà các nước đang phát triển đã trải qua trước đây, thì điều quan trọng là không nên neo đồng t iền quá lâu. Nhiều quốc gia còn chần chừ, trì h oãn việc điều chỉnh tỷ giá, hoặc phá giá đồng tiền, hoặc cắt giảm chi tiêu. Khủng hoảng thường bắt đầu khi nguồn dự trữ ngoại tệ bị sụt giảm. Lúc này, bảng cân đối quốc gia quá yếu (có nhiều khoản nợ ngắn hạn bằng đồng Đô la) nên các lựa chọn để điều chỉnh không còn phù hợp nữ a: kết quả thư ờng dẫn đến sự suy thoái mạnh bất kể sự phá giá đồng tiền và cắt giảm chi tiêu. Bài học ở đây là đừng chần chừ. Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 14
  17. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi Trong nhiều năm qua, việc neo tỷ giá hối đoái mang lại hiệu quả kinh t ế và chính trị. Trường hợp của Mexico vào năm 1994 là một ví dụ điển hình. M ột bài học kinh nghiệm trước đây là chiến lược thoát vốn. Cơ chế điều hành tỷ giá cố định cuối cùng vẫn sẽ cần sự thay đổi mang tính linh hoạt cao hơn, điều này nên đư ợc t hực hiện khi cán cân thanh toán vẫn còn m ạnh và chủ động thự c hiện sớm. Nếu thời điểm thay đổi tỷ giá cố định là lúc thâm hụt cán cân thanh toán thì sẽ chịu áp lực lớn, kết quả là làm giảm độ tin cậy và bảng cân đối quốc gia suy yếu. Cho nên, để an toàn cần gia tăng sự linh hoạt của tỷ giá trư ớc bất kỳ sự cắt giảm luồng vốn đầu tư. Những điều này phần lớn được rút ra từ kinh nghiệm của nhữ ng thị trường m ới nổi như Colombia và Hàn quốc nhữ ng năm đầu thập niên 90. Trước khi tình hình trở nên qúa khó khăn, những quốc gia đó có thể ngăn chặn luồng vốn đầu tư trong một đến hai năm, dựa trên trái phiếu lãi suất cao và kéo dài dòng vốn đầu tư mạnh (như là mô hình vĩ mô chuẩn). Các quan chức Trung quốc có thể đúng khi cho rằng trư ờng hợp của họ có 1 chút khác biệt là d o hệ thống tài chính còn chưa mở nhiều và thiếu tính định hướng thị trường. Luồng vốn đầu tư thì bao gồm nguồn vốn từ các Hoa kiều ở nư ớc ngoài gửi về đầu cơ nhằm nâng giá tiền t ệ và cho đến nay chính quyền vẫn chưa cần trả lãi suất cao để ngăn chặn điều này. Họ đang quan ngại về việc n gày càng khó khăn hơn để ngăn chặn các luồng vốn tiếp theo sau này. 3 Mối liên hệ với hiệu ứng Balass a-Samuelson Ngang giá sức mua (PPP) được xem như là định hướng cho tỷ giá hối đoái, đối với Trung quốc và các nư ớc khác cũng vậy. Đa số là đánh giá về ngang giá sứ c m ua tương đối, dựa trên chỉ số giá cả. Không cần thiết phải chỉ ra rằng đồng nhân dân t ệ đang bị định giá quá thấp nhưng điều này có thể xảy ra bởi vì trư ớc đây nó đư ợc xem là thư ớc đo chuẩn, và đồng nhân dân tệ có thể đã bị định giá thấp trong quá khứ. Việc so sánh về mức giá giữ a các quốc gia thì thật sự khó khăn, bởi vì thông tin ngang giá sứ c mua tuyệt đối không tương thích với thông tin ngang giá sức mua tương đối (đối với những nước chỉ cần chỉ số giá và tỷ giá hối đoái). Nhưng 1 số thông tin thì tương t hích. Năm 1990, mứ c giá của Trung quốc chỉ bằng 0,119 mứ c giá tại Mỹ. Do vậy giá cả ở Trung quốc t hấp hơn không phải là điều đáng ngạc nhiên. Thậm trí nếu chúng t a nghĩ rằng, thị trường hàng hóa m ậu dịch quốc tế thì được hội nhập hoàn toàn, không có cơ chế nào để phân xử cho việc không ngang giá của hàng hóa phi mậu dịch. Rõ ràng là, theo Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 15
  18. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi 2 khía cạnh phân tích chéo và phân tích chuỗi thời gian, thì giá của hàng hóa phi mậu dịch và cũng là mứ c giá chung sẽ cùng tăng lên với việc t ăng năng suất sản suất, tiền lương thực tế và thu nhập thự c tế. Tính đều đặn cùng tăng lên này được gọi là hiệu ứng Balassa-Samuelson, và thường được giải thích là việc tăng năng suất đối với hàn g hóa mậu dịch thì nhanh hơn so với hàng hóa phi mậu dịch. 3.1. Ước lượng cho năm 1990 Giá cả tại Tr ung quốc không thấp, nhưng vẫn dưới mứ c dự đoán khi so sánh với các quốc gia khác, căn cứ trên quan hệ giữ a tỷ giá hối đoái thực tế và thu nhập nhập thực tế. Vào năm 1990, thu nhập bình quân trên mỗi dân Tr ung quốc bằng 0,125 so với M ỹ. Giáo sư Kenneth Rogoff đã thự c hiện phép hồi qui Rogoff (dữ liệu 1996) ước tính là, cứ 1% gia tăng thu nhập trên mỗi ngư ời (thu nhập thực) thì tỷ giá thực tăng 0,366% (hệ s ố tư ơng quan là 0,42), như vậy sẽ có nhiều trư ờng hợp ngoại lệ. Tr ung quốc là một trong s ố các trường hợp ngoại lệ. Thực hiện lại phép hồi quy cho năm 1990 (bảng dữ liệu năm 2000 của P enn World), kết quả là cứ mỗi 1% gia tăng trong thu nhập thự c thì tỷ giá thự c t ăng 0,317. Như vậy, có thể xác nhận rằng, Trung quốc là một ngoại lệ: hình như Trung quốc được đánh giá thấp hơn 42% (tính theo logarit) hoặc 34% (tính theo giá trị tuy ệt đối). Vài nhà kinh tế nhấn mạnh về việc đánh giá lại đồng nhân dân tệ theo công thức Balassa-Samuelson, một là: đồng nhân dân tệ sẽ có 1 cách nhìn nhận mới; hai là: công thức Balass a-Samuelson có cân nhắc đến các vấn đề khác, ví dụ như hiện trạng tài chính; ba là: kiểm tra lại độ tin cậy về dữ liệu về giá cả tại Trung quốc. Rất có thể, dữ liệu của Penn World đã được tổng hợp từ các nguồn ít tin cậy. Có khả năng xảy ra s ai sót trong khi đo lường về mứ c độ và tăng trưởng của GDP thực. Nếu Trung quốc thật sự tụt hậu so với các nư ớc khác thì Trung quốc đã cho phép hoặc k huy ến khích thu thập dữ liệu về giá cả hàng hóa một cách chi tiết, để từ đó, thực hiện các so sánh về mức giá, thu nhập thực của Trung quốc đối với quốc tế, nhờ vậy, nhìn nhận về Trung quốc đư ợc chuẩn xác hơn. Tuy nhiên, s ố liệu về sự mất cân bằng trong 1 t hời gian dài có thể phải được hiệu chỉnh đúng bằng cách này hay cách khác. Sự hiệu chỉnh không làm thay đổi tỷ giá hối đối danh nghĩa sẽ bao hàm sự lạm phát đáng kể, điều này không phù hợp với xu hướng Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 16
  19. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi dài hạn. Sử dụng công thức Balassa-Samuelson như là 1 bước chuẩn bị cho kế hoạch chuẩn đổi sang chế độ quản lý tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Đồng nhân dân tệ đã t ăng giá trong những năm 1990. Về danh nghĩa, nhân dân tệ giảm giá đáng kể, đặc biệt là trong năm 1994, khi tỷ giá chính t hức đồng nghĩa với việc định giá thấp với đồng nhân dân tệ. Năm 2000, tỉ giá hối đoái là 8.28 (mứ c cố định từ 1998), so với giá chính thức năm 1990 là 4.78. Tuy nhiên, lạm phát trong những năm 90 lớn hơn so với sự giảm giá, nghĩa là có 1 sự sụt giảm thực về giá trị nhân dân tệ. Như vậy, tỷ giá thực t ế được dự đoán bởi các công thức Balassa-Samuelson đã thay đổi. Sự khác biệt giữa tỷ giá hiện hành và mứ c độ thực tế được dự đoán bởi Rogoff là lớn (tính đến cuối thập kỷ), như đã nói ở trên. BẢNG 1: Tỷ giá hối đoái thực và thu nhập thực của Trung Q uốc, 1990 - 2000 Tỷ giá hối GDP thực GD P thực GDP thực trên M ức Năm đoái danh trên đầu trên đầu đầu ngư ời so giá nghĩa ngư ời người của Mỹ sánh với Mỹ 1990 4.7832 0.2351 1786.5474 26457.82 0.0675 1991 5.3234 0.2112 1975.3807 25897.92 0.0763 1992 5.5146 0.2154 2202.6613 26488.70 0.0832 1993 5.7620 0.2380 2455.4704 26956.07 0.0911 1994 8.6187 0.1925 2644.9477 27877.94 0.0949 1995 8.3514 0.2282 2818.1204 28408.86 0.0992 1996 8.3142 0.2433 2968.5394 29193.91 0.1017 1997 8.2898 0.2454 3109.6103 30190.34 0.1030 1998 8.2790 0.2396 3275.9917 31090.66 0.1054 1999 8.2782 0.2351 3414.9809 32127.90 0.1063 2000 8.2785 0.2314 3747.2977 33292.99 0.1126 Trung 7.2539 0.2287 2763.5953 28907.6 0.0946 bình Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 17
  20. Đồng Nhân dân t ệ: sự lựa chọn giữa t ỷ giá cố định và t ỷ giá t hả nổi 3.2. Ước lượng cho năm 2000 Bảng Penn World. Phiên bản 6.1, báo cáo dữ liệu PPP thực năm 2000. M ức giá tuyệt đối của Trung Quốc trong năm 2000 là 0.23 so với M ỹ và thu nhập thực trên đầu người là 3747.3 USD, khoảng 0.11 so với Mỹ. Chúng ta chạy mô hình hồi quy mới cho năm 2000 trên khoảng 118 quốc gia. M ô hình hồi quy đã cho ra một hệ số tư ơng quan là 0.382 trong mối tư ơng quan mức giá với thu nhập thực. Nói cách khác, cứ mỗi 1% t ăng lên trong thu nhập thự c bình quân đầu người làm tăng 0.38% trong việc định giá thự c. Mức giá P (so sánh với Mỹ) được dự đoán cho Trung Quốc bởi mô hình này là 0.362. Mức giá thự c tế của Tr ung Quốc là 0.231 so với M ỹ. Nói cách khác, mô hình hồi quy cho thấy đồng Nhân dân t ệ bị định giá thấp khoảng 44.8% trong năm 2000. Dựa trên sự tính toán này, chúng t a nên chấp nhận sự dao động trong tỷ giá hối đoái thực mà nó đã xảy ra từ năm 2000, năm cuối cùng của bảng Penn World. T hay đổi tích lũy qua 4 năm tiếp theo cho thấy mối tư ơng quan rất nhỏ, được minh họa trong bảng 2 và 4. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa hoàn toàn không thay đổi theo đồng Đôla, vì nó đã được cố định và mức giá của Tr ung Quốc cũng không vượt quá xa so với năm 2000 bởi vì giảm phát năm 2002 đã bù lại với sự lạm phát trong năm 2000, 2001 và 2003. Vì vậy, thật ngạc nhiên về mức độ thay đổi vượt trội trong tỷ giá hối đoái thự c: lạm phát ở M ỹ , từ năm 2000 đến 2002 tăng lên khoảng gần 5%. Thật là sai lầm nếu hoàn toàn tin tưởng vào con số này. M ột mặt, số liệu thống kê chính thức cho thấy lạm p hát ở Trung Quốc kéo theo lạm phát ở Mỹ tăng lên gần 5% (trong quý 4 năm 2003 và quý 1 năm 2004). Mặt khác, tốc độ tăng trư ởng t hực của Trung Quốc lại t ăng vọt lên, và mục t iêu tăng trưởng thậm chí còn xa hơn nữ a. M ục tiêu quan trọng và phải đánh giá lại cân bằng Balass a – Samuelson, m ở rộng từ dữ liệu năm 2000. 3.3. Dùng phép hồi quy để tìm ra gi á trị trung bình Để minh họa hiệu ứng Balass a – Samuelson, m ối quan hệ chặt chẽ giữ a tỷ giá hối đoái thực và thu nhập thực phải dựa trên các nước khác, nhưng dựa trên khoảng t hời gian nào đó thì tốt hơn, khảo sát trong khoảng thời gian 10 năm cũng đư ợc. Các nhà kinh tế học cho rằng tỷ giá hối đoái thực, trong dài hạn, bị ảnh hư ởng bởi hiệu ứng Balassa – Samuelson, nhưng tr ong ngắn hạn, bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong Nhóm 9 – NH đêm 5 - K18 Trang 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2