Tiu luận
LCH SỬ NGHỀ GM VIỆT NAM
GVHD: Th.s Vĩnh Linh
SVTH : Phạm Thị Tuyết Vân
1. Buổi đầu sơ khai của kỹ thuật gốm đất nung
1.1.Sơ đồ khái quát sự phát triển của gốm
Gốm thô
Gốm đất nung
Gốm men ngọc
Gốm men → Gốm hoa nâu
Gốm hoa lam
Đồ s
1.2.Sự ra đời của gốm
- Nghgốm xuất hiện ở Việt Nam vào thời văn hóa Bắc Sơn
- Gốm được nhào tđất sét với t để nặn ơng gốm nhưng trong cát
lẫn tạp chất, nhưng không được lọc vì thế mặt gốm nung không
được nhẵn mịn. Tuy vậy đồ gốm còn ít và hình dáng thô, độ nung
chưa cao, sản xuất chủ yếu để phục vụ đời sống cư dân.
- Giai đoạn đầu thì cư dân làm gốm sau đó đem phơi rồi ng được gọi
gm thô chưa nung. Sau đó rất lâu dân mới biết đến việc nung
gốm để sản phẩm bền hơn và ít thấm nước được gi là gm đất nung.
- Vào giai đoạn đầu thì cư n làm gốm bằng cách đan khuôn nan theo
ý mình rồi trác đất sét đã nhồi vào n trong khuôn nan rồi đem phơi
khô sau đó thì nung.
1.3.Bước phát triển của đồ gốm làm bng bàn xoay
- Đây là bước tiến cực kỳ quan trọng.
- Giai đoạnch mạng đá mới nghề làm gm giữ vị trí quan trọng trong
đời sống và sn xuất, hình thành các trung tâm m gốm,sx đgốm
với kỹ thuật làm bằng tay hoặc bằng bàn xoay nhưng chưa phbiến.
- Kthuật làm gm bằng bàn xoay chthực sự phbiến vào thời văn
hóa Phùng Nguyên. Người ta dùng bàn xoay không đtạo dáng mà
còn to cả hoa văn trên gốm, đó các hoa văn đường chỉ chìm chạy
song song rất đều quanh miệng, quanh thân hoặc quanh đế.
- Đến giai đoạn này tđgốm nước ta tiến lên mt bước mới , một
ớc tiến về chất lượng và mthuật.
+ Nguyên liệu : gốm đươc m từ đất sét tương đối mịn, tạo ra loại gốm
mỏng, trau chut và v mặt bề ngoài rất mịn. Đặc biệt vào thời văn hóa
Mun đất sét và chất pha trn được chọn lọc kỹ, trộn thêm nhiều hạt
các to thc vật vào đất sét đ khi nung gốm không bị rạn nứt
+ Hoa văn trên gốm rất đa dạng :các đồ án hoa văn lấy đối xứng làm li
trang trí chđạo.đỉnh cao của hoa n thời phùng nguyên loại hoa văn
khắc vạch chấm dải. Đây là loại hoa văn phức tạp, đối xứng và sinh động.
Các nghệ nhân dùng thủ pháp in lăn bằng con lăn cuộn thừng mịn, chấm ấn bằng
dấu que nhiều răng vết lõm ràng. Hay hoa văn kiểu khuôn nhạc đơn giản,
đường tròn đồng tâm hay gấp khúc, đồ án chữ S c nối đuôi nhau, những
thanh đon thẳng cắt chéo nhau tạo thành hình vuông,…xuất hiện những hoa
văn bên trong miệng gốm
Đồ gốm giai đoạn này đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật chế tác. Đất sét và chất
pha tạp được chọn lọc k nên đ kết dính của xương gốm cao và chắc, gốm
được nung với nhiệt đ cao khoảng từ 800-900ºC gốm cứng, chắc và bền, ít
thấm nước,u sắc đẹp.
Các sản phẩm được thực hiện trên bàn xoay có ơng gốm mỏng đều, bên
cạnh gốm thô pha cát còn có gốm mịn. Đây là sản phẩm cao cp n, đất sét
được pha thêm mt loại t nhỏ, hạt đều và hỗn hợp sét cát được lọc ktrước
khi làm xương.
vào giai đoạn này người ta chưa biết đến men gốm nhưng lại tạo ra một thứ
tương tự như men gốm đó là áo gm. áo gốm được làm t loại đất sét tốt và qua
khâu tinh lọc loại bỏ tạp chất thì khi phủ lên mt ngoài gm mới mịn màng.
Gốm Phùng Nguyên được coi là mđầu cho một giai đoạn phát triển cao của
gốm đất nung Việt Nam.
1.4.Kỹ thuật nung gốm đất nung
- Giai đoạn Đá Mới, Đa Bút, Quỳnh Văn,…gốm được nung bằng cách
đơn giản nhất: nung ngoài trời, trong đống lửa, được nung trong
khong thời gian ngắn.
- Gốm hậu kỳ Đá Mới kỳ Đồng Thau về bn được nung trong
điều kiện kỹ thuật hơn. Phương thức nung trung gian giữa ngoài trời
trong đống lửa với nung trong lòphương thức nung trong hố hở.
- Gốm thời Đồng Thau kỳ đồ sắt được nung tốt hơn, có thể được
nung trong nhưng không phải là tất cả.(gốm Đồng Đậu, Gò
Mun,Qùy Chử…) cấu tạo đơn giản, buồng nung và buồng đốt
tách biệt, nhiên liu đốt là củi, thời gian đốt và ủ được kéo dài.
2.S xuất hiện và phát triển của các loi gốm men
2.1S xuất hiện của gốm men
-Gốm men xuất hiện vào thời Bắc thuộc. Do trong quá trình phát triển s
du nhp của gốm phía Bắc vào nước ta nên đòi hỏi các nghnhân phải học hỏi
tinh hoa của gốm từ Trung Quốc tràn vào những sáng tạo đtạo ra sản
phm mới lạ và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nên các nghệ nhân phải tìm tòi, tạo ra
các loại gốm đẹp và độc đáo hơn.
-Đồ gốm thời Bắc thuộc rất phát trin, đa dạng và phong phú về chủng loại và s
lượng.
+ Gốm đất nung có đăc điểm : nhẹ lửa màu trắng hồng hay sữa đục
+ Gốm sành : xương gốm màu đỏ, xám hay xám xanh
+ Gốm men : hầu hết là sành hay nửa sành nửa sứ có màu vàng nht
- Gốm men được làm t đất sét trắng có khả năng chịu nhiệt cao, có xương
mỏng, bóng, độ rắn cao và nhiều kích cỡ.
2.2Gm men ngọc
- Gốm men ngọc là loi gốm có xương gốm tốt, phủ bên ngoài mt lớp men dày
màu xanh mát, trong bóng như thủy tinh. Loại gốm này có vẻ đp trang nhã, tinh
tế và đầy tính vương quyền.
- Loi gốm này xuất hiện một số ớc phương Đông được nhiều nơi trên
thế giới ưa chuộng. Gốm men ngọc còn nhiều tên gi khác như : men Đông
Thanh, men Long Tuyền, men xanh đồ Tống,…Là mt loại gốm quý, trước đây
gốm men ngọc được cho là sản phẩm ra đời trên đất Trung Hoa rồi được đưa
sang Việt Nam đphục vcho quan lại Trung Hoa trong thời kỳ đô hộ. Sau đó
được du nhp theo con đường buôn bán đồ cổ. Vì vậy, gốm men ngọc được quy
vào những niên đại thuộc các thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh bên Trung Quốc.
- nước ta, gốm men ngọc xuất hiện vào thời và thịnh hành những thế kỷ
XI đến thế kỷ XIII. V loại hình, gm men ngọc thuộc loại sành trắng hoặc sành
xốp được phmột lớp men màu với nhiều sắc độ : màu đào non, màu xanh
nước biển, màu da tri, màu vàng nhạt,…Men gốm được tráng dày, có độ sâu
vào trong, svào thấy mát tay, nhìn thy dịu mắt. Loại gốm này rt giá tr
được dùng trong hoàng cung và xuất khẩu.
- ơng gm đất mịn, dày, nặng, nung trên khoảng 1200ºC. Thpháp trang trí
hoa n trên gốm bằng ch khắc chìm, khiến men dòn lại, tạo nên c đ dày
mỏng khác nhau và s lung linh cho họa tiết. Hoa văn đa phần là hoa sen ch
điệu và các loại hoa lá, chim phượng, một số ít có hình người lẫn trong hoa
được khắc chìm hoặc in ni hoặc hoa đắp.
2.3. Gốm hoa nâu
- Đây là tên gọi chung cho những sản phẩm gốm được tráng men màu trng ngà
hoa n u nâu hoặc được tráng men u nâu hoa văn màu trng
ngà,có kiểu dáng to,chắc chắn, cốt gốm dày t. Gốm hoa nâu xuất hiện vào
cui thnời đầu thời Trần và phát triển rực rỡ vào trong khoảng thời gian từ
thế kỷ XII XIV, cho tới khi gốm hoa lam xuất hiện thì gốm hoa nâu mới mất
dần vị trí độc tôn. Gốm hoa nâu được làm t đất sét trắng kết hợp với cao lanh.
- So với c loại gốm trước gm hoa nâu xuất hiện là mt bước tiến dài vkỹ
thuật. Phần lớn c loại men và màu ca gốm hoa nâu được làm tđá, đất, tro
trấu và vôi.
- Các thpháp được sdụng để trang trí là tráng men, khắc nét chìm, cạo men
u. Hoa văn trang trí trên gốm hoa nâu thường là hoa y chạy viền
quanh miệng gốm, đặc biệt hầu hết trên các sườn gốm hoa nâu có đắp ni hình
hoa, chim,thú,…rất sinh đng.Hoa văn trên gốm hoa nâu thời Trần khác hẳn
thời đó là hình rng mâp, khỏe, uốn khúc thoải mái, khác hẳn với con rồng
thời Lý thân hình thanh mnh, uốn khúc gò bó.
- Gốm được nung trong lò với nhiệt đkhá cao trên 1200ºC, gốm hoa nâu được
đánh giá cao vnghệ thuật tạo dáng và trang trí. Nó được coi là một trong những
sản phẩm giàu tính bản địa nhất vì có nhiều t riêng biệt, độc đáo so với các
loại gốm khác.
2.4 . Gốm hoa lam
- Gốm hoa lam là loai gốm phủ men trắng ngà, trang trí bằng những họa tiết hoa
văn xanh cobalt dưới men bằng kỹ thuật bút ng. Gốm xuất hiện Việt Nam
vào khoảng đầu hoặc nửa đầu thế kỷ XIV, thuộc loại sành trắng, xương đất mịn,
mỏng, cứng hơn gốm hoa nâu và gốm men ngọc do đất được luyện, lọc kvà
nung nhiệt độ cao.
- Đmàu men đp, điều cần thiết nhất phải cốt xương gốm tốt, màu lam
ới men lộ rõ sắc, men bám chặc vào xương đất có độ rắn cao. Men của gốm
hoa lam bao gồm tro trấu và một số bột đá được ng tương đối phổ biến nên
các sản phẩm có độ trắng cao, men chảy đều và bóng.
- Bắt đầu từ gốm hoa lam schuyển đổi kỹ thuật : ng t ng để vẽ hoa
văn bằng màu dưới men đã đem lại những t mới mẻ trong kỹ thuật trang trí
gốm Việt Nam. Phong cách phóng túng, sinh động của lối vẽ phóng bút và ng
bút, li vẽ nhẹ nhàng như thủy mạc thay thế lối khắc chìm trên xương đất và
màu. Gốm hoa lam khai thác triệt đcác yếu tố của hội họa, nhất là c yếu tố
tạo mảng, đậm nhạt trong một ha tiết làm tăng thêm khnăng diễn đạt của bút
pháp trang trí.V đẹp tiêu biu của gốm hoa lam là lối vẽ phóng bút trên các l
hoa, chân đèn,chân bát đĩa. Hoa văn thường là rng, phưng, mây, hoa sen,
- Nếu kỹ thuật chế tác gốm men ngọc và gốm hoa nâu bị thất truyền thì loi gốm
hoa lam1 trong 3 đỉnh cao của gốm cổ Việt” vẫn còn tn tại đến ngày nay, với
kthuật dùng t ng v trực tiếp các hoa văn màu xanh cobalt trên nền mộc
của xương gốm được c lò gốm Hải ơng và Phù Lãng kế thừa lưu truyền
đến ngày nay. Thợ vgốm bằng bút lông phải tay nghề cao, họa tiết hoa văn,
màu sắc cũng như đồ án trang trí phải hài hòa với dáng gốm.
3. Cách chế men và tráng men
3.1.Kỹ thuật chế men
- Thông men được chế theo hai cách : khô và ướt. Nhưng các thợ làm
gốm thường chế men theo kiểu men ướt.
- Men được làm tc nguyên liệu tự nhiên có sẵn. Thành phần chính của
men là tro, đất sét trắng, i sống và một số phụ gia khác.
-ng thức pha chế men tro theo kinh nghiệmn gian là :
2,5 bát đất sét trắng + 4,7 bát i sng + 12 t tro. Sau đó hòa vào nước
khuấy đều và lọc nhiều lần rồi thêm các phgia vào cho thích hp đánh
đều thành men.Muốn men màu vàng thì trn tro với đất màu vàng hoc
phù sa sông Hng, trộn tro với đất sét trắng tmen màu trắng ngà hoc
màu sữa, trộn tro với đất đthì có men màuu.
- Mt số cách pha chế men ở các làng gốm :
+ làng gm Bát Tràng : thế kỷ XIV XIX người thợ dùng 5 loại men,
nhưng phổ biến là men tro. Đây là loại men đặc sắc được pha chế t các thành
phần chính : đất sét trắng, i sống và tro trấu. Ngoài men tro n men
nâu sẫm gồm : đất sét trắng, tro trấu, vôi sống thêm 5% đá đỏ, men rạn
đưc điều chế từ vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hi,…
+ Làng Cậy : sản xuất gốm men với nguyên liệu là tro, tllà 1 thúng vôi,
9 thúng tro trấu. Trộn tro trấu với vôi đem hầm trong vài ngày rồi cho vào ci