intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Máu và hệ bạch huyết

Chia sẻ: Phạm Thị Mỹ Hằng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

207
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Máu là một tổ chức di động được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương, chức năng chính của của máu là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức cũng như loại bỏ các chất thải trong quá trình chuyển hóa của cơ thể như khí Carbonic và Acid Lactic. Mời các bạn cùng tham khảo Tiểu luận Máu và hệ bạch huyết để hiểu hơn về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Máu và hệ bạch huyết

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ ­Máu là một tổ chức di động được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế  bào (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương. Chức năng chính của của máu  là cung cấp các chất nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức cũng như loại bỏ các chất  thải trong quá trình chuyển hóa của cơ  thể  như khí carbonic và acid lactic. Máu  cũng là phương tiện vận chuyển các của các tế  bào (cả  tế  bào có chức năng bảo   vệ   cơ   thể   lẫn   tế   bào   bệnh   lý)   và   các   chất   khác   nhau   (các   amino   acid,   lipid,   hormone) giữa các tổ  chức và cơ  quan trong cơ  thể.  Máu cùng với các dịch thể  khác của cơ thể: dịch bạch huyết, dịch nội bào, dịch gian bào, dịch não tủy và các  dịch tiêu hoá. Là môi trường sống của tất cả các loại tế bào trong cơ thể và được   gọi là nội bào. Nội môi luôn được  ổn định và cân bằng đã đảm bảo cho các quá   trình sống của cơ thể diễn ra một cách bình thường và do đó cơ thể mới được tồn  tại,sinh trưởng và phát triển tốt. ­Các rối loạn về  thành phần cấu tạo của máu hay  ảnh hưởng đến sự  tuần  hoàn bình thường của nó có thể  dẫn đến rối loạn chức năng của nhiều cơ  quan   khác nhau. ­Nhận thức được vai trò của máu là vô cùng quan trọng  đối với sức khoẻ của  con người,  cá nhân em xin trình bày một số  tìm hiểu của mình về  cấu tạo cũng   như chức năng của máu, hệ  tuần hoàn máu và bạch huyết cùng một số  bệnh liên  quan về  máu, qua đó để  có biện phát phát hiện và phòng tránh kịp thời...hy vọng   được thầy góp ý. Các ý kiến đóng góp của thầy là những bài học kinh nghiệm vô   cùng quý giá đối với em.
  2. I. MÁU: Máu được xem là mô liên kết đặc biệt với chất căn bản  ở  thể  lỏng, đảm   nhận chức năng quan trọng: vận chuyển các chất, cân bằng nội môi và bảo vệ cơ  thể. 1. Huyết tương: 1.1 Thành phần: ­Màu vàng nhạt, trọng lượng riêng 1,028 ­ 1,030, bao gồm nước (80 ­ 90%),  protein (6,5 ­ 8 mg%), lipid (0,5 ­ 0,6 mg%), glucid (0,8 ­ 1,2 g/l).  ­Ngoài ra còn có các muối kim loại, các chất dinh dưỡng, enzyme, hormon,   kháng thể....  ­Các protein của huyết tương là albumin,  α­,  β­ và  γ­ globulin, lipoprotein và  fibrinogen. 1.2 Vai trò: ­ Albumin chủ yếu duy trì áp suất thẩm thấu của máu.  ­ Kháng thể của máu là γ­ globulin (globulin miễn dịch). ­Fibrinogen   là   tiền   chất   tạo   các   sợi   fibrin   trong   quá   trình   đông   máu;   vận   chuyển các chất ít tan như  acid béo và các hợp chất lipid khác, do chúng liên kết   với albumin hay α­, β­ globulin.  2. Huyết cầu (tế bào máu): Trên các tiêu bản nhuộm màu, dưới kính hiển vi quang học (KHVQH) căn cứ  vào hình dạng nhân, đặc điểm cấu tạo của bào tương. 2.1 Hồng cầu: 2.1.1 Cấu tạo:
  3. ­Ở người hồng cầu không có nhân, hình đĩa, hai mặt lõm, đường kính 7,5µm,   viền dày 2,5µm, vùng trung tâm dày 1µm.  ­Tổng diện tích hồng cầu lưu thông trong máu khoảng 3.800m2. Phân biệt:  Đường kính trên 9µm ­ là đại hồng cầu (macrocyte), đường kính ­ trên12µm ­ hồng   cầu khổng lồ (megalocyte), đường kính dưới 6µm ­ là tiểu hồng cầu (microcyte).  ­Ở người trưởng thành, số lượng hồng cầu vào khoảng 3.800.000 ­ 4.200.000  trong 1mao mạch3, ở trẻ em số lượng hồng cầu cao hơn từ 5.000.000 ­ 7.000.000  hồng cầu trong 1mao mạch3 máu ­Hồng cầu có một màng gồm protein, lipo­ và glyco­protein, dày 10 nm, bán  thấm, tạo nên sự  chênh lệch nồng độ  Na+  và K+  giữa huyết tương và bên trong  hồng cầu. ­Mặt trong hồng cầu có lưới xơ  ngắn gồm xơ spectrin, xơ actin và 2 protein  liên kết chúng để  tạo thành khung xương của hồng cầu, đảm bảo tính bền vững   của hồng cầu.  ­Phía mặt ngoài hồng cầu có glycocalyx, lớp này có tính chất của một kháng   nguyên và quyết định nhóm máu.  ­Trên màng hồng cầu của một số người có kháng nguyên A, số khác có kháng  nguyên B, hay có cả A và B, một số khác không có A mà cũng không có B.  Từ đó phân biệt 4 nhóm máu như sau: +Nhóm máu A (β) hồng cầu mang kháng nguyên A, huyết thanh có kháng thể  β tương kỵ với kháng nguyên B.
  4. + Nhóm máu B (α) hồng cầu mang kháng nguyên B, huyết thanh có kháng thể  α tương kỵ với kháng nguyên A. +Nhóm AB (0,0) hồng cầu mang cả  hai kháng nguyên A và B, huyết thanh   không mang cả 2 kháng thể α và β. +Nhóm O (α,  β) hồng cầu không mang kháng nguyên A và B, huyết thanh có   cả kháng thể α và β.  ­Hàm lượng Hb trung bình mỗi hồng cầu khoảng 30x10 ­12g, gọi là hệ số màu  (HbE). Mỗi phân tử  gồm 4 chuỗi polypeptid gắn với dẫn xuất porphyrin có chứa  sắt (nhóm Hem).  ­Thành phần hóa học của hồng cầu gồm nước 60%, Hb 33%, một số protein   khác, các enzyme, lipid 0,9%, muối khoáng 1,5%, thiếu ty thể và các bào quan khác.  2.1.2 Chức năng của hồng cầu ­Hb vận chuyển O2 và CO2. Khi kết hợp với O2 tạo ra oxyHb, với CO2 hình  thành carbaminoHb.  ­Oxy gắn với sắt trong phân tử Hb mà hóa trị  không thay đổi nên không phải  là sự  oxy hóa. Sự  kết hợp này không bền nên khi tới các mô, nó sẽ  bị  tách oxy   (không phải là sự khử oxy).   ­Hồng cầu có thể tồn tại 120 ngày trong cơ thể người, các hồng cầu chết sẽ  bị  phá hủy bởi các tế  bào thực bào  ở  lách và tủy xương. Khung porphynin bị  phá  hủy ở gan, Hb được tái sử dụng. ­Sự  tan huyết là trường hợp hồng cầu bị  căng phồng và màng rách để  thoát   Hb, lúc này hồng cầu được gọi là hồng cầu ma, chúng chỉ còn lại 50 ­ 60% protein  và 30 ­ 40% lipid. Tất nhiên là các hồng cầu ma không duy trì được chức năng của   mình. 2.2 Bạch cầu: Cách phân loại không thống nhất: Căn cứ  vào sự  có hạt hay không hạt trong  bào tương ­ bạch cầu không hạt và bạch cầu có hạt; Căn cứ vào số  lượng nhân ­   bạch cầu đơn nhân hay bạch cầu đa nhân; Căn cứ vào nguồn gốc ­ bạch cầu dòng   tủy hay bạch cầu dòng limpho.
  5. ­ Bạch cầu có hạt:  Bào tương có các hạt đặc hiệu, nhân không đều. Phân  thành bạch cầu hạt trung tính hay bạch cầu hạt ưa acid (ưa eosin), bạch cầu có hạt   ưa base. Tất cả  bạch cầu có hạt không có khả  năng biệt hóa nhưng có khả  năng  thực bào. ­ Bạch cầu không hạt: Trong bào tương không có hạt đặc hiệu, có các hạt   ưa azure (khi nhuộm bắt màu da trời). Theo hình dạng của nhân và tính chất bắt   màu của bào tương có thể  chia bạch cầu không có hạt thành 2 loại là bạch cầu  đơn nhân và lympho bào. ­Số lượng bạch cầu ít hơn hồng cầu. Ở người lớn, 1mao mạch 3 máu có 6.000  ­ 7.000 bạch cầu.  ­Tỷ  lệ  bạch cầu trong máu ngoại vi (công thức bạch cầu)  ở  người khỏe là:   bạch cầu trung tính 55 ­ 56%; bạch cầu  ưa acid 2 ­ 4%; bạch cầu  ưa base 0,5%;   bạch cầu nhân hình đũa 2 ­ 3%; lympho bào 20 ­ 40%; bạch cầu đơn nhân 4 ­ 7%.  ­Công thức bạch cầu và số  lượng tuyệt đối của chúng trong một đơn vị  thể  tích máu ngoại vi là các dẫn liệu quan trọng để đánh giá các biến đổi về sinh lý và   bệnh lý ở người. 
  6. 2.2.1 Bạch cầu trung tính :Chiếm 55% trong máu ngoại vi, đường kính 12 µm,  nhân dạng đũa hay nhiều thùy.  Bào tương chứa 50 ­ 200 hạt đặc hiệu, hạt có màng bao bọc, cách màng bào   tương từ 3 ­ 5µm, hạt ưa cả thuốc nhuộm acid và thuốc nhuộm base.     ­Ở  bạch cầu trung tính già, tính bắt màu của hạt giảm nhiều, bào tương có  lưới nội chất thưa thớt, ít ribosom, ít hạt glycogen. ­Bạch cầu trung tính có vai trò đáp ứng miễn dịch, gọi là tiểu thực bào. Chúng  vận động mạnh nhờ chân giả, dễ dàng lách qua thành mạch để xâm nhập vào mô  liên kết và tập trung tại các ổ viêm nhiễm.  ­Khi thực bào, hạt đặc hiệu sẽ  nhập với tế  bào vi khuẩn, sau đó hạt không  đặc hiệu sẽ  tiết enzyme phân hủy vi khuẩn. Xác bạch cầu và vi khuẩn tập trung   tại ổ nhiễm thành mủ.  ­Bạch cầu đa nhân trung tính tham gia diệt vi khuẩn bằng cách tạo ra các chất   do hoạt động thực bào như  hydroperoxyd và gốc CH­, tạo nên hypochlorid có tác  dụng diệt khuẩn cao.  Trong y học: 1. Các bạch cầu trung tính còn non có thể  đi vào tuần hoàn máu, nhân không  phân chia hình móng ngựa. Bạch cầu trung tính già tương đương với sự  tăng số  lượng các thùy nhân dưới điều kiện bình thường. Số  lượng các bạch cầu trung   tính tăng lên trong máu để đáp ứng sự xâm nhập của vi khuẩn.  2. Bạch cầu trung tính tìm kiếm vi khuẩn, bao vây chúng bởi các chân giả và  tiêu diệt chúng: Các hạt đặc biệt tan ra và chất chứa bên trong chúng chảy vào thể 
  7. thực bào, pH của các không bào thấp dưới 5,0, giúp cho enzyme lysosome hoạt   động thuận lợi.  2.2.2 Bạch cầu ưa acid: ­Tỷ  lệ  khoảng 1 ­ 4%, đường kính trên 12µm, nhân có 2 thùy, bào tương có   lưới nội chất, ty thể, thể Golgi, các hạt đặc hiệu ưa thuốc nhuộm eosin. Hạt đặc   hiệu có tinh thể, ở người, hạt đặc hiệu ưa acid, chủ yếu có 1 tinh thể. ­Chuyển động kiểu amip, có thể thực bào nhưng chậm và chọn lọc. Bạch cầu  ưa acid có chứa profibrinolysin, có vai trò quan trọng cân bằng trạng thái thể  dịch  của máu.  ­Bạch cầu  ưa acid xuất hiện nhiều  ở  các vùng dị   ứng xảy ra như  biểu mô   ruột, phổi, chân bì da, trong đờm, dịch...  ­Bạch cầu  ưa acid rời tủy xương, vào máu, lưu hành trong hệ  tuần hoàn  khoảng  từ 6 ­ 10 giờ, vào mô liên kết và tồn tại ở đó khoảng 8 ­ 12 ngày. Trong y học: ­ Sự tăng số lượng bạch cầu ưa acid trong máu liên quan đến các phản ứng dị  ứng và sự xâm nhập của ký sinh trùng.  ­Bạch cầu  ưa acid được tìm thấy trong mô liên kết nằm dưới lớp biểu mô  của phế quản, ống tiêu hóa, tử cung và âm đạo và bao quanh giun ký sinh. Các mô   này   sản   xuất   cơ   chất   để   điều   chỉnh   sự   viêm   nhiễm   do   sự   khử   leucotrien   và   histamin được sản xuất bởi các tế  bào khác. Chúng cũng là phức hợp thực bào  kháng nguyên, kháng thể.     
  8. ­Hormone   corticosteroid   của   phần   vỏ   tuyến   thượng   thận   làm  giảm  nhanh  lượng bạch cầu  ưa acid, có thể  gây phiền phức cho sự  giải phóng bạch cầu  ưa   acid từ tủy xương vào máu.  2.2.3 Bạch cầu ưa base: ­Trong máu ngoại vi chỉ  chiếm 1%, là loại bạch cầu bé nhất, đường kính 10   µm, nhân lớn. Trong bào tương có nhiều hạt bắt màu base, kích thước lớn hơn các   hạt của các bạch cầu khác. Dưới kính hiển vi điện tử  (KHVĐT), các hạt ưa base  bắt màu dị sắc, tương tự như dưỡng bào, chứa histamin và heparin.    ­Các bệnh da liễu được gọi là bệnh bạch cầu quá mẫn cảm của da. Nơi tập  trung nhiều bạch cầu ưa base là nơi có viêm nhiễm nhiễm.  ­Bạch cầu ưa base vận động kiểu amip, không có khả năng thực bào. Vai trò chính   của bạch cầu  ưa base là tạo ra heparin. Đời sống bạch cầu ưa base chỉ  khoảng 1   ngày, xuất hiện ở vùng quá mẫn của da. 2.2.4 Lympho bào: ­Trong máu ngoại vi, lympho chiếm 20 ­ 40% số lượng bạch cầu, là các bạch cầu   không có hạt và hình dạng không thuần nhất. Đường kính 6 ­ 8µm, nhân lớn. Dưới  KHVĐT cho thấy màng nhân có chỗ  lõm sâu vào bên trong khối nhân, không có   lưới nội chất nhưng có nhiều ribosom tự do.  ­Có 2 loại là lympho bào T và lympho bào B, không sai khác về  hình thái  nhưng sai khác nhau về  nơi cư  trú, quá trình phát triển, về  cấu tạo phân tử, thời   gian sống và chức năng.Lympho bào sống có khả  năng vận động khá mạnh, có  hình vợt bóng bàn, đầu phình to chứa nhân. Chúng có thể lách qua tế bào biểu mô 
  9. ruột, nội mô của thành mạch. Các lympho bào đóng vai trò quan trọng của phản  ứng miễn dịch đặc hiệu     Hình 6 Lympho bào (từ Luiz, 2005) 2.2.5 Bạch cầu đơn nhân: ­Là bạch cầu không có hạt, ít di chuyển trong máu, chiếm 4 ­ 5% tổng số  bạch  cầu. Kích thước lớn nhất, đường kính 12 ­ 20µm, nhân lệch về  một phía, có 1 ­ 3   hạt nhân.  ­Trong tế bào có nhiều lysosom, ty thể, thể Golgi, ít lưới nội chất và ribosom. Trên   bề mặt bạch cầu đơn nhân có nhiều vi nhung mao.  ­Khi ra khỏi tủy xương, bạch cầu đơn nhân lưu hành trong máu một thời gian   ngắn (20 giờ),  ở  mô nhiều tháng, biệt hóa thành các đại thực bào  ở  nhiều vị  trí  khác nhau như ở lách, hạch, tủy xương, gan, thành phế nang... Vai trò quan trọng là   thực bào. 2.3 Tiểu cầu (tấm máu): Là khối bào tương nhỏ hình cầu hay hình trứng, đường kính 2 ­ 5µm, hình thành từ  mảnh rời ra của bào tương tế  bào nhân khổng lồ   ở  tủy xương. Về  cấu tạo mỗi   tiểu cầu có thể phân biệt: a) Vùng ngoại vi  có bào tương thuần nhất, nhiều  ống siêu vi và xơ  actin làm  khung chống đỡ, tạo thành chân giả  v/động. Phía ngoài màng tiểu cầu có 1 lớp  glycocalyx (gồm glycoprotein và glycosaminoglycan) dày 15 ­ 20nm tạo khả  năng  kết dính các tiểu cầu. b) Vùng trung tâm  chứa ty thể, ribosom, vi  ống và vi túi thông ra ngoài, hạt có  đường kính 0,5 ­ 1,5µm, chứa serotonin và ATP, hạt lysosom, glycogen.
  10. ­Ở người trưởng thành, trong 1 mao mạch3 máu có 200.000 ­ 400.000 tiểu cầu. Khi  bị  chảy máu, tiểu cầu giải phóng serotonin gây co rút tế  bào cơ  trơn thành mạch,   làm cho máu chảy chậm hay ngừng chảy. ­Tiểu cầu có khả năng gắn với các sợi collagen, tạo hạch tiểu cầu, có thể  bịt kín  thành mạch. Sau khi cục máu đông được giải phóng thì chúng bị phân hủy.  3. Sự tạo máu ­Ở  người trưởng thành có 200 triệu hồng cầu và 10 triệu bạch cầu trung tính và  các loại bạch cầu khác được tạo ra mỗi ngày trong tủy xương ­ sự tạo huyết cầu. Lympho bào cũng được tạo từ tủy xương, cư trú tại tuyến ức, tại đây lympho bào   T sản sinh và biệt hóa. Một số  khác đi đến lách, nang bạch huyết, tại đây các  lympho bào B tăng số lượng, phát triển và biệt hóa.  ­Sự tạo máu ở người từ rất sớm, và kéo dài suốt cuộc đời, có thể chia ra:  3.1 Thời kỳ phôi thai  3.1.1 Giai đoạn nguyên đại hồng cầu: ­Vào tuần lễ thứ 3 của phôi, các tiểu đảo tạo máu xuất hiện ở trung mô trong phôi  và ngoài phôi. Các tế  bào ngoại vi tiểu đảo biệt hóa thành các nguyên bào mạch,   các tế  bào trung tâm tiểu đảo hình thành tế bào tự do hình cầu, là các nguyên bào   máu (hồng cầu nguyên thủy).  ­Các nguyên bào mạch nối lại với nhau để  hình thành các đoạn mạch đầu tiên và   máu lưu thông đầu tiên trong mạch chỉ có dòng hồng cầu. 
  11. ­Từ  nguyên đại hồng cầu, sinh ra các tế  bào có bào tương nhiễm Hb, cuối   cùng là hồng cầu có đường kính khá lớn. Sau sự sinh ra hồng cầu nguyên thủy là   sự tạo máu thứ sinh có đầy đủ huyết cầu (hình 8). Hình 8 :Sự hình thành và di chuyển của hồng cầu, bạch cầu từ tủy xương  (từ Luiz, 2005) 3.1.2 Giai đoạn gan – lách: ­Từ tuần thứ 5, trung tâm tạo máu chính của phôi là các đảo tạo máu giữa tế  bào   gan và thành mạch máu, sinh ra các tế bào máu thuộc dòng hồng cầu và dòng bạch   cầu. Tháng thứ 5 của phôi là đỉnh cao của tạo máu và chấm dứt vào tháng thứ 7.   ­Sự tạo máu ở lách từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 7 của phôi, tế bào máu sản sinh ở  đây là dòng hồng cầu, dòng bạch cầu và tiểu cầu. Lách là nơi trực tiếp sinh ra  lympho bào, kéo dài suốt đời con người.   ­Từ tháng thứ sáu của phôi, tuyến ức và bạch huyết, lympho bào sinh sản và phát  triển. Hạch bạch huyết tạo lympho bào suốt cuộc đời con người.   3.1.3 Giai đoạn tủy xương : Giữa tháng thứ 2 và tháng thứ 3 của phôi, tủy xương bắt đầu tạo máu và đến tháng  thứ 5 của phôi toàn bộ tủy xương đều tạo máu (chủ yếu là hồng cầu, bạch cầu có  hạt, bạch cầu đơn nhân, ít lympho bào).  3.2 Sự tạo máu sau khi trẻ ra đời: Hồng cầu và bạch cầu có hạt hình thành và phát triển trong tủy xương. Lympho   bào chủ yếu sinh ra từ bạch huyết, lách, tuyến ức. 3.2.1 Tủy xương:
  12. ­Trọng lượng tủy xương  ở  người khoảng 2.600 gam, gồm tủy vàng và tủy đỏ  (hình 9). Tủy vàng giàu tế  bào mỡ, khi thiếu máu hay thiếu oxy máu thì tủy vàng  nhanh chóng biến thành tủy đỏ. Tủy đỏ  có thành phần chủ  yếu là tế  bào thuộc   dòng hồng cầu.  ­Ở trẻ sơ sinh, toàn bộ tủy xương là tủy đỏ, ở người trưởng thành một nửa là tủy  vàng. Về cấu tạo mô, tủy xương gồm các xoang mạch xen với khoang tạo máu 3.2.2 Tế bào nguồn tạo máu : Chia thành 3 nhóm chính dựa vào khả năng phân chia, biệt hóa hình thành các loại  tế bào máu khác.  a) Tế  bào nguồn tạo máu giàu tiềm năng (PHSC): Chiếm tỷ  lệ  rất nhỏ  (0,2%  tế bào có nhân), rất giống lympho bào. Vừa có khả năng tự phân chia đổi mới, vừa   có thể tạo thành các tế bào nguồn. b) Tế bào tiền thân tạo máu đa tiềm năng (PHPL): 1) Bao gồm tế bào đa tiềm  năng tạo cụm lympho, sinh ra tế  bào lympho T và tế  bào nguồn lympho B; 2) tế  bào đa tiềm năng tạo cụm dòng tủy sinh ra các tế bào định hướng dòng tủy. c) Tế  bào tiền thân định hướng dòng: Sinh trưởng mạnh nhưng không có khả  năng tự đổi mới, là tiền thân của các dòng tế bào sau: 1) Dòng hồng cầu; 2) Dòng  bạch cầu ưa acid, ưa base, trung tính, lympho T và lympho B... 
  13. 3.2.3 Dòng hồng cầu: Phát triển có thay đổi hình thái tế bào sau:   1) Thể tích tế bào giảm dần qua các giai đoạn 2) Hạt nhân nhỏ đi  3)  Chất nhiễm sắc trở nên đậm đặc, nhân tế  bào kết đặc và cuối cùng bị tống ra  ngoài  4) Polysom giảm, lượng Hb tăng dần  5) Ty thể giảm dần 3.2.4 Dòng bạch cầu có hạt: Phát triển lần lượt qua các dạng sau:  1) Nguyên tủy bào 2) Tiền tủy bào 3) Tủy bào 4) Hậu tủy bào 5) Bạch cầu có hạt nhân hình đĩa 6) Bạch cầu có nhân hình thùy. 3.2.5 Dòng lypho bào:  Tế bào nguồn dòng lympho sinh ra từ tủy xương, di cư đến quan bạch huyết. Bao   gồm các giai đoạn sau: 1) Nguyên bào lympho sinh ra tế bào nguồn 2) Tiền lympho bào có đường kính nhỏ. 3.2.6 Dòng bạch cầu đơn nhân:  Tế bào nguồn của dòng bạch cầu có hạt sinh ra các tế bào đầu dòng bạch cầu đơn  nhân. Bạch cầu dòng đơn nhân gồm: 1) Nguyên bạch cầu đơn nhân có đường kính 20 ­ 30µm 2) Tiền bạch cầu đơn nhân có đường kính khoảng 10 ­ 20µm 3) Bạch cầu đơ;n nhân 3.2.7 Dòng tiểu cầu:
  14. Dòng tiểu cầu xuất hiện trong tủy đỏ do sự tự chia cắt bào tương của tế bào nhân  khổng lồ  trưởng thành. Tế  bào nhân khổng lồ  được biệt hóa từ  nguyên bào nhân  khổng lồ. 1) Nguyên bào nhân khổng lồ có đường kính khoảng 15 ­ 50µm 2) Tế bào nhân khổng lồ có đường kính 35 ­ 150 µm (hình 10). 4. Bạch huyết và dưỡng trấp: 4.1 Bạch huyết ­Là một dịch lỏng, hơi vàng, lưu thông trong hệ tuần hoàn bạch huyết, vào hệ tuần  hoàn máu, qua các hạch bạch huyết.  ­Thành phần hóa học tương tự  như  huyết tương, có thay đổi tùy theo chế  độ  ăn.  Sau khi chảy qua hạch bạch huyết, mang theo nhiều bạch cầu đơn nhân, nhất là  lympho bào. ­Bạch huyết có chức năng nhận và trả protein đã thoát ra khỏi mạch cho máu, hấp  thu chất dịch từ thanh mạc, bảo vệ cơ thể.  4.2 Dưỡng trấp (chất dinh dưỡng được hấp thu) ­Là loại bạch huyết trắng như  sữa vì chứa nhiều hạt mỡ  đã được hấp thu qua   thành ruột. Dưỡng trấp được hình thành liên tục, tạo thành dòng, bắt nguồn từ  mạch máu (có áp suất cao), qua khoảng gian bào niêm mạc ruột, vào mao mạch  (mao mạch) bạch huyết trung tâm (áp suất thấp).  ­Sự hấp thụ mỡ của cơ thể qua mạch dưỡng trấp ở thành ruột.
  15. II. HỆ TUẦN HOÀN MÁU: ­Hệ tuần hoàn máu gồm tuần hoàn nhỏ (tuần hoàn phổi), dẫn máu đến hay đi khỏi   phổi và tuần hoàn lớn (tuần hoàn hệ thống) phân phối máu đến các mô và các cơ  quan của cơ thể.  ­Cả 2 vòng tuần hoàn này máu được bơm từ tim vào động mạch và vào lưới mao  mạch. Máu được dẫn về tim nhờ các tĩnh mạch có đường kính từ nhỏ đễn lớn.  1. Động mạch:  1.1 Cấu tạo chung: ­Các động mạch lớn xuất phát từ  tim đi tới các lưới mao mạch, càng xa tim thì   động mạch càng nhỏ  dần, đoạn động mạch nhỏ  nhất nối tiếp lưới mao mạch   được gọi là tiểu động mạch.  ­Cấu trúc chung của các động  mạch thường được chia làm các lớp áo đồng tâm từ  trong ra ngoài (hình 11).  1.1.1 Áo trong: Từ trong ra ngoài có 3 lớp là:  ­ Lớp tế bào nội mô được phủ bởi 1 hàng tế bào, có bào tương rộng, phần chứa  nhân lớn thường lồi vào trong lòng mạch, đứng trên màng đáy. Hình 11 Cấu tạo động mạch­ các lớp áo (từ McGraw ­ Hill) ­ Lớp dưới nội mô là mô liên kết thưa chứa glycosaminoglycan, giữa các sợi tạo   keo mảnh là các tế bào cơ trơn chạy dọc thành mạch. ­ Màng đàn hồi trong được tạo bởi từ sự đan nhau của các sợi đàn hồi, hình thành   1 màng mỏng chạy xoắn quanh  lòng mạch, giới hạn lớp áo trong và lớp áo giữa. 1.1.2 Áo giữa: 
  16. ­Gồm những sợi cơ trơn và sợi đàn hồi chạy vòng với các động mạch lớn, là thành   phần dày nhất. Tuỳ theo tỷ lệ giữa sợi cơ trơn và sợi đàn hồi mà chia động mạch  thành động mạch đàn hồi và động mạch cơ.  ­Ở động mạch lớn, phần phía ngoài của lớp áo giữa còn có các nhánh mạch nuôi  mạch đi từ lớp áo ngoài vào. Bên ngoài là màng đàn hồi ngoài.  1.1.3 Áo ngoài : Chiếm phần lớn bởi các sợi tạo keo chạy dọc theo chiều dài của mạch và các sợi  đàn hồi chạy dọc.  Ngoài ra ở các động mạch lớn còn có các mạch nuôi mạch và hệ thống bạch hạch,  các sợi thần kinh. 1.2 Phân loại động mạch: Có thể chia động mạch thành 3 loại:  1.2.1 Ðộng mạch đàn hồi (động mạch chun): ­ Là các động mạch lớn, gần tim, đàn hồi cao, thích nghi với sự  thay đổi áp lực   máu, tạo nên thế năng đàn hồi làm máu chảy liên tục trong lòng mạch. ­Có cấu tạo chung gồm 3 lớp như  đã mô tả   ở  trên. Ðiểm nổi bật là lớp áo giữa   chiếm đa số  bởi sợi đàn hồi, tạo bởi những sợi chạy quanh lòng mạch hình lượn   sóng.  ­Cơ trơn chiếm 35% thể tích áo giữa, đó là những lớp tế bào xếp xen kẽ giữa các   sợi đàn hồi và chạy quanh lòng mạch.  ­Lớp áo ngoài là mô liên kết tạo bởi bó sợi tạo keo chạy dọc lòng mạch. Có các  mạch máu xuất phát từ lớp áo ngoài. 1.2.2 Ðộng mạch cơ: ­Còn gọi là động mạch phân phối, là động mạch trung bình và nhỏ  thuộc hệ  tuần   hoàn máu. Ðặc trưng là lớp áo giữa dày nhất, chiếm đa số  bởi sợi cơ  trơn, màng   đàn hồi trong rõ ràng, màng đàn hồi ngoài ở những động mạch cơ lớn liên tục, có   thể đứt đoạn ở những động mạch cơ nhỏ và thường ít dày đặc hơn màng đàn hồi   trong (hình12).
  17. 1.2.3 Tiểu động mạch: ­Kích thước 40 ­ 200µm, có 3 lớp áo, màng đàn hồi trong mỏng có nhiều lỗ thủng,   ở  những tiểu động mạch tận màng này thường không còn nữa. Áo giữa tuỳ  theo  kích thước thường có 3 ­ 5 hàng tế bào cơ trơn xếp vòng. Lớp áo ngoài là một lớp   mô liên kết mỏng không có màng đàn hồi ngoài (hình 8.13). 1.2.4 Các động mạch  chuyển tiếp: ­Các động mạch chuyển tiếp giữa động mạch  đàn hồi và động mạch cơ  thường   gọi là động mạch   pha trộn (động mạch cảnh ngoài, động mạch nách và động  mạch chậu gốc). ­Áo giữa của động mạch này có các đám cơ  trơn hay có các lá  đàn hồi. các động mạch bắt nguồn từ động mạch chủ  bụng đến các cơ  quan nội  tạng cũng là động mạch  pha trộn.  ­Áo giữa của các động mạch này chia thành 2 vùng rõ rệt là vùng cơ trơn gắn với   áo trong và vùng các lá đàn hồi ở phía ngoài.
  18. 1.2.5 Các cấu trúc đặc biệt của động mạch: ­Các đoạn tiểu động mạch với tiểu tĩnh mạch sẽ  nối động mạch – tĩnh mạch,   đường kính 10 ­ 30 µm, trên thành mạch có các sợi thần kinh giao cảm chi phối.  Khi nhánh nối co lại thì máu từ tiểu động mạch vào lưới mao mạch, khi mạch nối  giãn thì máu chuyển thẳng vào tiểu tĩnh mạch mà không qua lưới mao mạch.  ­Có nhiều kiểu nối động mạch ­tĩnh mạch. có thể phân biệt được 2 kiểu là nhánh   nối động mạch ­ tĩnh mạch kiểu cầu nối và nối động mạch ­ tĩnh mạch kiểu cuộn  ­Động mạch tận là nơi mà có các động mạch chia nhánh nhưng không nối với  nhau. Ví dụ động mạch trung tâm võng mạc, động mạch phân thùy của thận, động   mạch đi vào chất xám của vỏ não.  ­Riêng động mạch vành tim, mặc dù có nhánh nối với nhau, nhưng khi bị  tắc thì  các nhánh bên không đủ khả năng thay thế để cung cấp máu, nên vẫn được gọi là  động mạch tận. tại vùng mô mà động mạch tận khi bị tắc dần dần bị hoại tử. 1.3 Mô sinh lý học động mạch: ­Khi tim co bóp thì một phần lực được dùng vào việc đẩy cột máu trong lòng  mạch, phần còn lại tỏa rộng lên thành mạch gần tim là chúng căng phồng lên.  Các tế  bào cơ  trơn trên thành động mạch đàn hồi không có tác dụng thu nhỏ  lòng  mạch mà làm thay đổi tính đàn hồi của mạch. những động mạch cơ  vừa có tính  đàn hồi vừa có tính co bóp. tiểu động mạch có vai trò giảm áp suất và giảm tốc độ  máu tới mao mạch. ­Thần kinh điều chỉnh các mạch gồm cả 2 loại sợi là sợi gây co mạch và dây giãn  mạch. Bên cạnh đó còn có các yếu tố thể dịch như quinin, histamin, adrenalin...  Có sự thay đổi của động mạch theo tuổi: từ tuổi trung niên trở  đi, bắt đầu có sự  tăng collagen, chất căn bản giàu glycoprotein, thành của động mạch cỡ lớn ít mềm   mại hơn. các động mạch vành có biến đổi từ tuổi 20, các động mạch khác từ tuổi  40. 
  19. ­Hiện tượng xơ  cứng động mạch tăng tỷ  lệ  thuận với tuổi đời do chịu tác động  của sự co bóp của tim và sự dao động của áp lực máu.  ­Sự xơ cứng động mạch liên quan đến sự  tăng cơ  trơn và sản phẩm của chúng ở  gian bào. sự  xơ  vữa động mạch  ở  một số  động mạch như  động MẠCH chậu,  động mạch đùi, động mạch vành , động mạch não... là nguyên nhân chủ  yếu gây   nên nhồi máu cơ tim và tạo huyết khối não.  ­Đặc điểm xơ  vữa động mạch là áo trong dày không đều, bên ngoài và bên trong   cơ trơn có nhiều lipid giàu cholesteron. Ở người già, thành mạch có mảng sợi màu  trắng hơi nhô vào trong mạch.  ­Khi có tổn thương ở tế bào nội mô thì có sự vón lại của tiểu cầu, đồng thời do tế  bào cơ tích lũy nhiều lipid nên đã kích thích sự  tổng hợp collagen và glycoprotein,   góp phần làm dày lên từng vùng áo trong. Nếu có sự  hoại tử  của tế  bào nội mô,  kết hợp với đám tiểu cầu thì sẽ hình thành các cục máu đông trên thành mạch. Trong y học: 1. Động mạch trải qua sự thay đổi không ngừng và từng bước một từ khi sinh đến   khi chết. Mỗi động mạch biểu thị cho một giai đoạn tuổi riêng biệt.  2. Chứng xơ  vữa động mạch là sự  gia tăng của cơ  trơn và sự  tăng của sự  lắng  đọng các yếu tố mô liên kết của chất căn bản ngoại bào và lipoprotein ở dưới lớp  nội bì. Bạch cầu mono thường bị thu hút ở các vùng mà ở đó chúng biến đổi thành   các đại thực bào chuyên biệt bằng sự thu hút trên phạm vi rộng các lipoprotein gây  xơ vữa gần với các thụ thể trung gian nội bào.  Khi có nhiều lipid, các tế  bào này có quan hệ  với các tế  bào bọt và tạo thành các  đại tế  bào dễ  dàng nhìn thấy tạo thành các vết mỡ  và các mảng, đó là đặc trưng  của xơ vữa động mạch. Các thay đổi này có thể mở rộng đến phần trong của tầng   áo giữa của động mạch và độ dày có thể tăng lên vì sức hút của các mạch máu.    3. Động mạch vành thường có biểu hiện xơ vữa động mạch. Đó là sự dày lên của  màng trong mạch, vẫn được cho rằng đó là hiện tượng bình thường của người có   tuổi. 
  20. 4. Một số động mạch chỉ tưới một vùng nhất định của một số cơ quan và kết quả  là gây tắc nghẽn cung cấp máu trong vùng hoại tử  (vùng chết mô do sự  trao đổi   chất không xảy ra). Các chứng nhồi máu nói chung xảy ra ở tim, thận, não và một  số cơ quan khác. Ở các vùng khác như da, các động mạch nối nhau thường xuyên  và chỉ  tắc nghẽn một động mạch không dẫn đến chết mô, bởi vì dòng máu vẫn   được duy trì.  5. Khi các tầng áo giữa của động mạch yếu bởi sự khiếm khuyết giai đoạn phôi,  do bệnh hay bị thương tổn, thành của động mạch có thể nở rộng ra. Sự phát triển   của quá trình giãn nở này đã dẫn đến sự phát triển một chứng bệnh là chứng phình  mạch. Sự  đứt gãy  ở  các chỗ  phình mang đến hậu quả  nghiêm trọng, thậm chí là   chết.  2. Mao mạch: ­Đường kính mao mạch ít thay đổi, tạo thành lưới. máu ra khỏi lưới mao mạch   được dẫn về tĩnh mạch bằng các tiểu tĩnh mạch.  ­Các cơ quan như phổi, gan, thận, niêm mạc, tuyến, cơ bám xương, vỏ não.. phân   bố nhiều mao mạch, sụn không có mao mạch, còn gân, dây thần kinh và cơ trơn ít  mao mạch. ­Mao mạch thường chỉ có một hàng tế bào nội mô đứng trên một màng đáy mỏng.   ðường kính của mao mạch từ  7 ­ 9µm, dài từ  0,25mao mạch ­ 1mao mạch. tổng   chiều dài các mao mạch trong cơ thể chừng 96.000km. 2.1 Cấu tạo mao mạch : Thành mao mạch mỏng, từ trong ra ngoài có các lớp 2.1.1 Tế bào nội mô: ­Dưới KHVĐT thấy các lá bào tương của tế bào nội mô chứa nhiều vi sợi, có liên  quan đến sự  co rút của tế  bào, các cửa sổ  nhỏ  và các vết lõm. Các tế  bào nội mô   thường gắn với nhau bởi dải bịt, lỏng lẻo hơn dải bịt ở biểu mô (hình 14). 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2