Tiểu luận: Mối liên hệ giữa sự phân cấp tài chính và nợ công tại các quốc gia Oecd
lượt xem 10
download
Đề tài Mối liên hệ giữa sự phân cấp tài chính và nợ công tại các quốc gia Oecd trình bày về sự vay mượn quá mức của chính quyền địa phương được xem là một trong những mối nguy hiểm của sự phân cấp tài chính. Bên cạnh đó, sự phân cấp tài chính có thể đảm bảo cho sự bền vững tài chính của khu vực công bởi sự hạn chế ảnh hưởng của chính phủ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Mối liên hệ giữa sự phân cấp tài chính và nợ công tại các quốc gia Oecd
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ T.P HỒ CHÍ MINH TÀI CHÍNH CÔNG BÀI NGHIÊN CỨU: MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ PHÂN CẤP TÀI CHÍNH VÀ NỢ CÔNG TẠI CÁC QUỐC GIA OECD THUSHYANTHAN BASKARAN GVHD: PGS.TS SỬ ĐÌNH THÀNH LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 –Nhóm 17 Danh sách nhóm: Lâm Đặng Xuân Hoa Hoàng Thị Khánh Hội Trần Thị Diễm Hương Trần Ngọc Uyên Phương Nguyễn Thị Thơm TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2013
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page i
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành MỤC LỤC Tóm tắt:...................................................................................................................... 1 1. Giới thiệu: .............................................................................................................. 1 2. Tổng quát lý thuyết:............................................................................................... 2 3. Dữ liệu: ................................................................................................................... 8 3.1. Biện pháp phân quyền .................................................................................... 8 3.2. Biến phụ thuộc và độc lập ............................................................................. 12 3.3. Mối quan hệ hai chiều .................................................................................. 19 4. Thông số kỹ thuật ................................................................................................ 21 4.1 Xu hướng (Stationarity) ................................................................................. 21 4.2 Mô hình kinh tế............................................................................................... 22 5. Kết quả: ................................................................................................................ 25 5.1 Kết quả cơ bản ................................................................................................ 26 5.2 Robustness checks: ......................................................................................... 29 5.2.1 General Robustness checks: ..................................................................... 29 5.2.2 Outliers ..................................................................................................... 32 5.2.3. Vấn đề Nội sinh ....................................................................................... 34 6. Kết luận ................................................................................................................ 39 Lời cảm ơn: .............................................................................................................. 41 Tài liệu tham khảo ................................................................................................... 41 Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page ii
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Tóm tắt: Sự vay mượn quá mức của chính quyền địa phương được xem là một trong những mối nguy hiểm của sự phân cấp tài chính. Bên cạnh đó, sự phân cấp tài chính có thể đảm bảo cho sự bền vững tài chính của khu vực công bởi sự hạn chế ảnh hưởng của chính phủ. Do ảnh hưởng của sự phân cấp chính phủ lên khía cạnh tài chính là mơ hồ về mặt lý thuyết chúng tôi khám phá câu hỏi này theo thực nghiệm bằng một bảng dự liệu của 17 nước trong khối OECD trong giai đoạn 1975-2001. Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng phân cấp chi tiêu làm giảm đáng kể nợ công, trong khi phân cấp thuế và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc là không đáng kể. 1. Giới thiệu: Phân cấp quản lý khu vực công đã trở thành một mục tiêu chính sách quan trọng của các tổ chức quốc tế lớn. Ngân hàng Thế giới là một ví dụ cho rằng phân cấp tài chính khi thực hiện đầy đủ, có thể làm giảm sự mất ổn định chính trị, nâng cao hiệu quả của chính phủ, và đóng góp vào tổng mức phúc lợi (Work Bank 2000), và vì thế nó đã hỗ trợ các dự án phân cấp SEV-Eral trong nước của khách hàng trong suốt hai thập kỷ qua (World Bank Independent Evaluation Group 2008). Trong phạm vi nền kinh tế, giả định rằng phân cấp tài chính mang lại những lợi ích chủ yếu xuất phát từ hai dòng suy nghĩ. Đầu tiên, từ phân cấp nổi tiếng-orem, trong đó nói rằng một quy định phân cấp hàng hóa công có khả năng giải quyết vấn đề sở thích khác nhau giữa các cư dân của khu vực địa lý và văn hóa khác nhau (Oates 1972; Tiebout 1956), và thứ hai từ truyền thống lựa chọn công lập luận rằng sự phân chia của nhà nước thành nhiều tầng và sự tồn tại sự cạnh tranh của khu vực pháp lý hạn chế khả năng sự quản lý của chính phủ về thuế đối với người dân (Brennan và Buchanan 1980). Tuy nhiên sự phân cấp tài chính vẫn còn gặp một vài sự chỉ trích, và một số nhược điểm tiềm năng đã được xác định trong các tài liệu. Ví dụ, phân cấp tài chính cũng được biết rằng có thể làm giảm khả năng của các chính phủ để thực hiện các Nhóm 9-CHNH Đêm 1-K22 Page 1
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành chính sách ổn định và phân phối lại thu nhập (Musgrave 1959). Tuy nhiên, lý do chính làm cho sự nhận định này ngày càng tăng là phân cấp tài chính có thể làm sai lệch các ưu đãi của các chính trị gia địa phương và liên bang nếu nó bị thực hiện kém. Người ta thường cho rằng nguyên nhân dẫn đến nhược điểm này là do phân cấp chính quyền bị cho là dễ làm mất ổn định kinh tế vĩ mô, thâm hụt ngân sách cao hơn, và mức độ không bền vững của nợ (Goodspeed 2002). Trong khi cả hai trường hợp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm dường như chỉ ra rằng phân cấp tài chính dẫn đến kết quả tài chính và kinh tế tối ưu nhưng bằng chứng kinh tế có hệ thống vẫn còn khan hiếm. Do đó bài viết này nhằm mục đích khám phá thực nghiệm hiệu lực của tuyên bố này với dữ liệu bảng của 17 quốc gia trong khối OECD trong giai đoạn 1975-2001. Để kết thúc điều này, chúng tôi xem xét trong phần 2 nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết về phân cấp quản lý tài chính và tài chính công kỹ lưỡng hơn. Trong phần 3, chúng tôi mô tả cách thực thi các khái niệm chung về phân cấp quản lý tài chính, và thảo luận về sự phụ thuộc và các biến độc lập được sử dụng trong phân tích kinh tế. Trong phần 4, chúng tôi thảo luận về đặc điểm kỹ thuật của chúng tôi và giới thiệu các mô hình thực nghiệm. Trong phần 5, kết quả được trình bày. Phần 6, kết luận. 2. Tổng quát lý thuyết: Một bộ phận quan trọng của các lý thuyết về tài chính liên bang cho rằng phân cấp tài chính đe dọa đến sự ổn định tài chính của khu vực công bằng cách làm "hạn chế ngân sách mềm". Trong những đóng góp có liên quan, một mối quan hệ “chính chủ - đại lý” giữa các chính phủ liên bang và địa phương được giả định, và được đặt dưới điều kiện rủi ro đạo đức có thể xuất hiện tại phần sau của định nghĩa. Ví dụ, Goodspeed (2002) đã phát triển một mô hình bao gồm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, chính quyền địa phương cung cấp hàng hoá công địa phương bằng việc đánh thuế lên người dân hoặc bằng tiền vay. Mục tiêu của chính phủ liên bang là tối đa hóa khả năng tái tranh cử của mình. Khả năng này được mô phỏng như Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 2
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành một chức năng của mức độ tiêu thụ ròng trong mỗi khu vực nằm trong phạm vi quản lý. Kể từ giai đoạn thứ hai mức độ tiêu thụ ròng trong mỗi khu vực nằm trong phạm vi quản lý bị giảm do nợ của giai đoạn thứ nhất, vì chính quyền địa phương phải trả nợ gốc và lãi, chính phủ liên bang có thể tăng mức độ tiêu thụ ròng và do đó tăng khả năng tái tranh cử của mình bằng cách cho phép chuyển cứu trợ tài chính thích hợp. Những ưu đãi của chính phủ liên bang được đưa vào tài khoản của chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu tiên, tức là, khi họ quyết định mức vay, nó sẽ dẫn đến sự không hiệu quả ở mức cao của địa phương vay. Ngoài các khái niệm ràng buộc ngân sách mềm, chúng có thể thay thế, mặc dù chúng có mối liên quan với nhau, lập luận là tại sao phân cấp tài chính có thể đóng góp vào sự mất cân bằng tài chính. Một phần của lý thuyết có liên quan đến tác động của các chương trình chuyển giao liên chính phủ. Ý tưởng cơ bản đằng sau những phương pháp tiếp cận là sự dịch chuyển thẳng đứng có thể đóng góp vào vấn đề chung. Nếu chính phủ liên bang phân bổ tài trợ cho khu vực pháp lý địa phương theo quyết định của mình, sau này có động cơ xuất hiện như thể họ là người nghèo: Sau đó, họ có thể bị thâm hụt cao để "chứng minh" rằng họ đang được tài trợ. Kể từ khi chi phí biên của các quỹ liên bang được phân phối trên toàn liên bang trong khi những lợi ích tập trung trong mỗi cá nhân có thẩm quyền, hành vi như vậy là hợp lý từ quan điểm của chính quyền địa phương cá nhân (Weingast et al.1981). Một phần khác của lý thuyết liên quan đến các vấn đề "kỹ thuật" phối hợp các chính sách của các cấp khác nhau của chính phủ. Nếu có một số chính phủ độc lập có thể chi tiêu và thu thuế theo quyết định của riêng mình, một chính sách tài khóa phối hợp có thể là không thể duy trì, và có thể thể hiện bản thân trong một sự thâm hụt ngân sách thiên vị ở tất cả các cấp chính quyền (De Mello, 1999). Trong khi một số lượng đáng kể các khoản đóng góp chỉ ra khả năng rằng các quốc gia được phân cấp thể hiện một xu hướng thâm hụt, chỉ có vài nghiên cứu lý luận cố gắng cho rằng phân cấp tài chính có thể giúp các chính trị gia địa phương và liên bang giảm mức độ nợ nần. Do Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 3
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành đó, nhiều lập luận gián tiếp hơn, mà chủ yếu giải quyết vấn đề khác nhau, phải được rút ra. Lý thuyết lựa chọn công đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này. Trong tài liệu này, các chính phủ được coi là một gã khổng lồ tối đa hóa nguồn thu, và phân cấp quản lý tài chính được cho là để buộc các chính phủ kiềm chế tước quyền sở hữu thuế bởi vì người dân có thể rời khỏi khu vực pháp lý mà chính phủ hoạt động như một phương thức tối đa hóa doanh thu (Hayek năm 1939; Brennan và Buchanan năm 1980 ). Ngoài ra, trái với quan điểm truyền thống cho rằng thỏa thuận chia sẻ thuế và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc dẫn đến sự không hiệu quả bằng cách cho phép các chính phủ "thông đồng" và do đó tránh được những áp lực cạnh tranh tạo ra bởi phân cấp tài chính, có một số tranh luận trong lý thuyết này gợi ý rằng họ có thể tăng phúc lợi xã hội. Ví dụ, Köthenbürger (2005) cho thấy rằng các chương trình cân bằng có thể bổ sung cho cạnh tranh thuế trong việc đạt được hiệu quả hơn bằng cách gián tiếp "đánh thuế" thuế thu nhập trích từ chính phủ. Những lập luận sự lựa chọn công có thể được điều chỉnh thẳng thắn để giải thích nợ công bằng cách cho rằng mức nợ nên thấp hơn khi công dân có gánh nặng thuế trong tương lai vào tài khoản trong quyết định di động của họ, hoặc nếu chúng được vốn hóa trong giá bất động sản nhà ở. Câu hỏi về việc phân cấp tài chính như thế nào có liên quan đến sự tích tụ nợ chưa được khám phá trong nghiên cứu thực nghiệm. Thay vào đó, tác động của phân cấp tài chính trên quy mô của chính phủ dường như đã khơi dậy sự quan tâm của các nhà kinh tế. Oates (1985), ví dụ, khám phá Brennan và Buchanan của giả thuyết nhà cầm quyền với dữ liệu được cung cấp bởi nước Mỹ và với các dữ liệu quốc tế, nhưng không tìm thấy một mối quan hệ quan trọng. Mặt khác, sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian ở cấp liên bang, Marlow (1988) thấy rằng phân cấp tài chính có liên quan tiêu cực với tổng kích thước chính phủ tại Hoa Kỳ. Trong một nghiên cứu với dữ liệu bảng trên 32 quốc gia phát triển và đang phát triển, Jin và Zou (2002) đạt được những kết luận khác biệt hơn bằng cách phân tách Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 4
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành các khái niệm chung của phân cấp tài chính vào "các đại diện" khác nhau. Có nghĩa là, họ nhận ra rằng phân cấp tài chính hoặc có thể liên hệ đến các mặt chi tiêu hoặc mặt doanh thu của ngân sách, và rằng những tác động đó có thể thay đổi tùy theo khía cạnh của ngân sách được xem xét. Thật vậy, họ phát hiện ra sự tồn tại của hiệu ứng xung đột. Kết quả của họ xác nhận rằng điều quan trọng là nhận thức được phân cấp tài chính như một khái niệm chung trong đó bao gồm các khía cạnh khác nhau. Đó là, chi tiêu công, phân cấp nguồn thu, và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc (ví dụ, sự khác biệt giữa chi phí địa phương và tự chủ thu) phải được coi là đại diện khác nhau và độc lập với phân cấp quản lý tài chính, và phân tích như vậy. Thực tế là chỉ có một số ít nghiên cứu về tác động của phân cấp quản lý tài chính về nợ chính phủ không có nghĩa là các nhà nghiên cứu đã không cố gắng phân tích các yếu tố quyết định của nợ công nói chung. Ngược lại, có một nền lý thuyết lớn liên quan đến vấn đề này, và công nhận những đóng góp của chúng là quan trọng đối với các đặc điểm kỹ thuật chính xác của các mô hình kinh tế dưới đây. Kể từ khi "bản quy phạm" phương pháp tiếp cận truyền thống giải thích các mức độ khác nhau của nợ giữa các quốc gia chỉ ra không đầy đủ, các tài liệu gần đây có xu hướng tập trung vào sự giải thích "chính trị" (Alesina và Perotti 1995). Một dòng nghiên cứu tìm hiểu xem liệu có sự khác biệt về ý thức hệ trong chính sách cho vay của chính phủ. Hai nghiên cứu đáng chú ý là Neck và Getzner (2001), một người đã tiến hành một nghiên cứu về các yếu tố kinh tế-chính trị của tăng trưởng nợ công tại Áo và Seitz (2000), một người đã phân tích các yếu tố quyết định thâm hụt ngân sách địa phương ở Đức. Tuy nhiên, cả hai nghiên cứu, tìm thấy rằng các yếu tố kinh tế nói chung có liên quan đến biến ý thức hệ. Một dòng khác của nghiên cứu về các yếu tố quyết định tính chính trị của nợ công tìm hiểu xem sự phân chia của quốc hội (trong hệ thống nghị viện) hoặc, tương ứng, sự phân chia chính phủ (trong hệ thống tổng thống) có ảnh hưởng đến kết quả tài chính. Giả thuyết kỳ vọng là vấn đề của công nghiêm trọng hơn khi các chính phủ có nhiều đối tác liên minh (hệ thống nghị viện) hoặc khi các bên khác nhau kiểm soát nhiệm kỳ tổng thống và cơ quan lập pháp (hệ thống tổng thống). Volkerink và de Haan (2001) thực sự thấy rằng một số hình thức của chính phủ Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 5
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành bị phân cấp dẫn đến thâm hụt ngân sách lớn hơn. Tuy nhiên, Elgie và McMenamin (2008) cho thấy kết quả của họ không thể được nhân rộng chung khi một mẫu khác nhau được sử dụng. Tác động của các tổ chức tài chính trong nợ công cũng được phân tích trong một số nghiên cứu. Ví dụ Feld và Kirchgässner (2001), cho rằng các tổ chức dân chủ trực tiếp trưng cầu ngân sách có thể ngăn chặn các hành động không hiệu quả và ích kỷ của các chính trị gia, người hoạt động trong khuôn khổ chung của một nền dân chủ đại diện. Trong phân tích thực nghiệm của họ với các dữ liệu bảng trên các thành phố của Thụy Sĩ, họ thực sự thấy rằng thể chế dân chủ trực tiếp như vậy dẫn đến việc giảm nợ công. Đối với Hoa Kỳ, Kiewiet và Szakaly (1996) đi đến kết luận tương tự cho "nợ được bảo lãnh". Một tài liệu liên quan nghiên cứu tác động của thủ tục ngân sách trên tích lũy nợ. Cả hai quy tắc số cũng như các thủ tục đã được phân tích. Ví dụ về các quy tắc số là các yêu cầu cân đối ngân sách trong tiểu bang Hoa Kỳ hoặc các tiêu chuẩn Maastricht quy định, trong đó có việc giới hạn đối với nợ công và / hoặc thâm hụt. Quy định thủ tục, mặt khác, liên quan đến sự nghiêm ngặt của các thủ tục chi phối các giai đoạn khác nhau mà tại đó ngân sách được xây dựng. Ví dụ Cabasés et al. (2007), khám phá những hiệu quả của hạn chế vay nợ với các dữ liệu trên các thành phố Tây Ban Nha, và thấy rằng họ áp đặt một số kỷ luật về chính sách vay của chính quyền địa phương. Lagona và Padovano (2007) chỉ trích phương pháp luận với những tác động của quy tắc ngân sách thường được phân tích. Họ cho rằng việc áp dụng các chỉ số để đo sự nghiêm ngặt của việc áp dụng các quy tắc thì cần thiết phải phân cấp tốt. Thay vào đó, họ đề xuất một phương pháp tiếp cận chủ yếu phân tích thành phần phi tuyến. Tuy nhiên, kết quả của họ cũng chỉ ra rằng các quy tắc nghiêm ngặt hơn dẫn đến cân đối tài chính lớn hơn và quy mô ngân sách nhỏ hơn. Sử dụng dữ liệu trên tiểu bang Hoa Kỳ, Bohn và Inman (1996) cũng xác nhận việc phát hiện các kết quả tài chính có liên quan đáng kể đến các quy tắc ngân sách. Như đã nói ở trên, chỉ có một vài nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu xem xét các tác động của phân cấp tài chính trên số dư tài chính. De Mello (2000) tập trung vào tác động của phân cấp quản lý tài chính về thâm hụt của chính phủ liên bang và địa Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 6
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành phương riêng biệt. Ông thấy rằng quyền tự chủ thuế địa phương thường dẫn đến sự gia tăng thâm hụt ngân sách địa phương, trong đó hàm ý phân cấp có thể làm trầm trọng thêm các ràng buộc ngân sách mềm và phối hợp thất bại. Fornasari et al. (2000) tìm thấy trong nghiên cứu của họ trên 32 quốc gia đang phát triển và công nghiệp rằng phân cấp chi tiêu nói chung góp phần nhiều hơn vào khu vực chính phủ, nhưng mà thâm hụt ngân sách địa phương là không liên quan đến sự cân bằng tài chính của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, khi một biện pháp thu phân cấp được sử dụng, phân hóa ra là tiêu cực liên quan đến thâm hụt ngân sách chính quyền trung ương. Họ cũng phân biệt giữa phân tích dài hạn sử dụng trung bình cắt ngang và phân tích ngắn hạn bằng cách sử dụng sự thay đổi của các biến trong dữ liệu bảng, và thấy rằng phân cấp chi tiêu làm tăng thâm hụt ngân sách chính quyền trung ương. Freitag và Vatter (2008) tìm thấy trong một nghiên cứu với dữ liệu từ Thụy Sĩ rằng nhiều sự phân cấp hơn có xu hướng có mức thâm hụt nhỏ hơn trong thời gian khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, họ đã thất bại trong việc xem xét sự khác biệt đáng kể giữa các bang tập trung và phi tập trung khi nền kinh tế đang phát triển. Nghiên cứu thêm về điều này và liên quan đến câu hỏi là Stein (1998), những người quan sát phân cấp đó mở rộng kích thước khu vực công nhưng không thâm hụt ngân sách của tổng số khu vực chính phủ ở châu Mỹ Latinh; Rodden (2002) người điều khiển một số mô hình về mức độ doanh thu và phân cấp chi tiêu, và phát hiện ra rằng cả hai có xu hướng tăng tổng thâm hụt ngân sách chính phủ, và Schaltegger và Feld (2009), người tìm thấy cho Thụy Sĩ là bang ít tập trung có nhiều khả năng tiến hành điều chỉnh tài chính thành công. Đánh giá về các lý thuyết một số nghiên cứu thấy rằng phân cấp tài chính đe dọa đến sự ổn định tài chính của khu vực công, trong khi những người khác quan điểm lại theo hướng ngược lại. Vì mỗi nghiên cứu ước tính mô hình mang phong cách riêng và sử dụng bộ dữ liệu khác nhau, các tài liệu hiện có không có nghĩa là kết luận, điều này cho thấy nó có thể là đáng giá để tích lũy thêm bằng chứng về vấn đề này. Chúng ta có thể nghĩ đến hai nhược điểm chính của nghiên cứu hiện tại. Đầu tiên, hầu hết các nghiên cứu sử dụng các biến vấn đề để đo mức độ phân cấp quản lý tài chính và do đó Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 7
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành có thể đi đến kết luận sai. Thứ hai, tập trung vào các địa phương thay vì vay mượn chính phủ hợp nhất có thể là vấn đề bởi vì phân cấp tài chính, nếu nó thực sự dẫn đến sự thiếu hiệu quả, không nhất thiết phải dẫn đến một sự xấu đi của tài chính địa phương. Chúng tôi sẽ mô tả trong phần tiếp theo cách chúng tôi cố gắng để giải quyết những hạn chế. 3. Dữ liệu: Vì cả hai lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phân cấp mà có thể có ảnh hưởng đến tài chính công nhưng không cung cấp một kết quả rõ ràng, chúng tôi khám phá những câu hỏi thêm với những cải tiến sau đây: Thứ nhất, bằng cách sử dụng một biện pháp mới có thể nắm bắt hiệu quả (hay "thực tế") mức độ phân cấp thuế tốt hơn so với những biến được sử dụng theo truyền thống, thứ hai, bằng cách sử dụng dữ liệu về nợ chính phủ hợp nhất thay vì nợ liên bang và nợ địa phương hoặc thâm hụt ngân sách riêng, thứ ba, bằng cách sử dụng dữ liệu bảng và thứ tư, bằng cách thực hiện một số kiểm tra mạnh mẽ. 3.1. Biện pháp phân quyền Một vấn đề lớn cho việc áp dụng kinh tế liên bang trong tài khóa là tìm một cách chính xác biện pháp phân cấp tài chính. Hầu hết các tác giả sử dụng các chỉ số bắt nguồn từ niên giám GFS của IMF. Nó được công nhận rộng rãi rằng các biện pháp này không nhất thiết phải nắm bắt được sự thật mức độ tự chủ và tầm quan trọng của địa phương (Ebel và Yilmaz 2002). Về mặt chi phí, họ không phân biệt được chính quyền địa phương quyết định mức và thành phần của chi phí tự chủ, hoặc cho dù họ chỉ đơn giản là hành động như cơ quan chi tiêu của chính phủ liên bang. Về mặt doanh thu, họ không phân biệt được chính quyền địa phương có quyền hạn gia tăng doanh thu, hoặc cho dù doanh thu có xuất xứ chủ yếu là từ các khoản tài trợ liên bang và các thỏa thuận chia sẻ thuế. Một vấn đề nữa với các biện pháp GFS của IMF là chúng không đầy đủ trong chừng mực nhiều giá trị bị bỏ qua. Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 8
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Mặc dù có những thiếu sót, chúng tôi sử dụng hai biến có nguồn gốc từ niên giám GFS của IMF và làm sẵn một bộ dữ liệu có trong Ngân hàng Thế giới để đo lường mức độ phân cấp chi tiêu và sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc. Các biện pháp phân cấp chi tiêu là xây dựng như thường lệ bằng cách chia tất cả các chi tiêu của chính quyền địa phương trong tổng chi tiêu chính phủ, trong khi các biện pháp cho thấy sự mất cân bằng tài chính theo chiều dọc được xây dựng bằng cách chia doanh thu địa phương từ tài trợ liên bang trong tổng doanh thu địa phương. Trong khi thừa nhận rằng các biện pháp này không có lỗi, chúng tôi tin rằng dù sao họ cung cấp các khía cạnh quan trọng của quyền tự chủ địa phương. Hơn nữa, cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới đặc biệt này là các bộ dữ liệu duy nhất mà chúng ta nhận thức được rằng cung cấp các biện pháp (i) cho tất cả các nước OECD, (ii) với một cấu trúc bảng, và (iii) một cách truy cập dễ dàng. Chúng ta gọi là biện pháp đầu tiên, vì nó dựa vào chi tiêu địa phương, chỉ cần chi tiêu phân cấp quản lý, và các biện pháp thứ hai, vì nó phụ thuộc số cổ phần của các khoản tài trợ nhận được từ chính quyền địa phương, cấp cổ phiếu. Các biện pháp chính xác hơn từ Niên giám GFS của IMF về phân cấp mức độ thuế được cung cấp trong một cơ sở dữ liệu được xây dựng bởi Stegarescu (2005). Xây dựng trên phân loại cụ thể các khoản thu thuế đưa ra trong OECD (1999), Stegarescu xuất phát ba chỉ số khác nhau về phân cấp quản lý thuế. Những chỉ số này được xây dựng bằng cách phân biệt thuế địa phương trong mối liên quan đến mức độ tự chủ của chính quyền địa phương. Doanh thu thuế được phân loại là có nguồn gốc từ: (i) các loại thuế mà chính quyền địa phương xác định tỷ lệ cơ sở ("thuế riêng"), (ii) các loại đầu tiên của thuế cộng thuế được chia sẻ mà chính quyền địa phương có liên quan trong việc xác định chia doanh thu ("thuế chia sẻ"), và (iii) Hai loại đầu tiên của thuế cộng với các khoản thuế còn lại. Các biện pháp phân cấp thuế này sau đó được tính bằng cách chia doanh thu thuế một trong ba loại bằng tổng doanh thu thuế của chính phủ. Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 9
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Mặc dù ba biện pháp khác nhau được cung cấp bởi Stegarescu (2005), chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu này chủ yếu là biến đầu tiên. Trong phần tiếp theo, chúng ta gọi biến này là phân cấp quản lý thuế. Table 1 Định nghĩa và nguồn gốc của các biện pháp phân cấp Tên Mô tả Nguồn Phân cấp kinh Tỷ trọng địa phương trong tổng chi tiêu của World nghiệm chính phủ Bank/IMF GFS Doanh thu từ các loại thuế địa phương mà Stegarescu Phân cấp thuế chính quyền địa phương xác định giá và / hoặc (2005) xác định các căn cứ như tỷ trọng nguồn thu thuế chung của chính phủ Tỷ trọng tài trợ Doanh thu địa phương từ tài trợ liên bang như World chiếm tỷ trọng trong tổng thu ngân sách địa Bank/IMF GFS phương Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 10
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Thống kê tóm tắt thường được tính với tất cả các quan sát có sẵn Lưu ý rằng số lượng các quan sát báo cáo trong bảng này là lớn hơn so với số báo cáo trong các hồi quy bảng bởi vì (i) việc sử dụng khác nhau đầ tiên để đánh giá các mô hình kinh tế lượng và (ii) giá trị mất tích đối với một số biến. Hệ số tương quan được tính toán với tất cả các quan sát có sẵn. Chúng ta giới hạn chính mình để biến này (ngoại trừ trong một sự mạnh mẽ check8) vì hai lý do. Đầu tiên, vì trong mẫu của chúng tôi chính quyền địa phương có quyền kiểm soát phân chia doanh thu chia sẻ thuế chỉ trong bốn quốc gia (Áo, Bỉ, Đức, và Tây Ban Nha), các biện pháp thứ hai cho biết thêm ít thông tin cho lý do thứ nhất. Hơn nữa, hai trong số bốn nước (Áo và Đức) hiển thị hầu như không có sự thay đổi theo thời gian trong biến này. Biện pháp thứ ba từ các số liệu Stegarescu, mặt khác, bị loại bỏ bởi vì nó chồng chéo tất cả các loại thuế với nhau. Do đó, không khác nhiều so với biện pháp phân cấp doanh thu báo cáo trong Niên giám GFS của IMF. Một mô tả ngắn gọn về các biện pháp phân cấp tài chính được sử dụng trong nghiên cứu này và các nguồn của họ được quy định tại Bảng 1. Thống kê tóm tắt được trình bày ở bảng 2. Một sự tương quan ma trận giữa chúng có thể được tìm thấy trong bảng 3. Trong hình. 1, chúng tôi cho thấy Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 11
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành sự tiến hóa giá trị trung bình của họ đối với các nước trong mẫu của chúng tôi theo thời gian. Ma trận tương quan cho thấy, chi tiêu và phân cấp quản lý thuế là khá mạnh mẽ và tương quan tích cực. Dự kiến, tỷ lệ tài trợ và các biến phân cấp quản lý thuế tương quan âm. Mối tương quan của việc phân cấp chi tiêu và chia sẻ tài trợ biến cũng là tiêu cực, nhưng hơi yếu. Những phát hiện này cho thấy rằng (i) trong OECD nước chi phí địa phương khác có xu hướng được tài trợ bằng "thuế riêng", và (ii) rằng "thuế riêng" doanh thu và biên lai cấp được thay thế trong tài chính khu vực pháp lý địa phương. Cả hai số liệu thống kê tóm tắt và hình. 1 gợi ý rằng chi phí này được phân cấp hơn thuế cho toàn bộ thời gian phân tích của chúng tôi. 3.2. Biến phụ thuộc và độc lập Trong phần này, chúng tôi thảo luận ngắn về các biến phụ thuộc và kiểm soát mà chúng tôi sử dụng trong mô hình kinh tế của chúng tôi. Các biến, định nghĩa của chúng và các nguồn của họ được liệt kê trong Bảng 4. Chúng tôi báo cáo thống kê tổng hợp trên các biến được sử dụng trong các mô hình cơ bản trong Bảng 5. Tóm tắt thống kê các biến sử dụng trong kiểm tra chặt chẽ và biến công cụ hồi quy có thể được tìm thấy trong Bảng 6. Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 12
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Chúng tôi sử dụng như là thước đo chính các khoản nợ tài chính ròng của chính phủ nói chung. Khoản nợ tài chính ròng được ưa thích khoản nợ tài chính tổng bởi vì cả hai tài sản công và nợ phải trả vào cùng tài khoản. Rõ ràng, nếu các chính phủ sử dụng nợ có được một số tài sản tài chính hoặc tài sản vật lý, thực tế là tình hình tài chính ròng vẫn không thay đổi nên được nhân đôi bởi các dữ liệu. Chúng tôi xem xét trách nhiệm của các chính phủ chung thay vì trung ương hoặc địa phương chỉ vì địa phương vay thêm không nhất thiết phải dẫn đến suy thoái tài chính địa phương khi trung ương lặng lẽ chuyển đổi (và ngược lại). Bỏ qua vấn đề này có thể dẫn đến sai kết luận về tác động của phân cấp tài chính. Dữ liệu về nghĩa vụ tài chính ròng cho giai đoạn 1975-2001 có sẵn từ các nước OECD, nhưng chuỗi thời gian cho một số quốc gia (ví dụ, Tây Ban Nha) khá ngắn và cho thấy một số mất tích giá trị. Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 13
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 14
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Thống kê tóm tắt thường được tính với tất cả các quan sát có sẵn. Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 15
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành Lưu ý rằng số lượng các quan sát báo cáo trong bảng này là lớn hơn so với số báo cáo trong các hồi quy bảng bởi vì (i) việc sử dụng các khác nhau đầu tiên để đánh giá các mô hình kinh tế lượng và (ii) bỏ quz giá trị đối với một số biến. Trong khi khoản nợ tài chính thuần là biện pháp ưu tiên của chúng tôi nợ chính phủ, chúng tôi cũng tiến hành thêm dưới đây kiểm tra chặt chẽ với các biện pháp thay thế. Đặc biệt, chúng ta xem xét khoản nợ tài chính tổng và nợ chính phủ tính theo yêu cầu của hiệp ước Maastricht. Chúng tôi sử dụng một số biến kiểm soát kinh tế, nhân khẩu học và chính trị có thể là yếu tố quyết định quan trọng của kết quả tài chính, và tại cùng một thời gian tương quan với tài chính decen-tralization. Chúng tôi thảo luận trong phần này các biến trong các mô hình cơ sở. Các biến sử dụng trong kiểm tra chặt chẽ sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo. Biến dân số được đưa vào để kiểm soát đối với quy mô và / hoặc hiệu ứng tắc nghẽn trong việc sản xuất hàng hóa công cộng. Nếu các cuộc triển lãm chức năng sản xuất giảm theo quy mô do sự khan hiếm của một số yếu tố (ví dụ, đất), các yêu cầu chi tiêu tăng có thể dẫn đến việc mở rộng các khoản nợ. Mặc dù chúng tôi mở rộng gánh nặng nợ nần cho kích thước của nền kinh tế bằng cách chia nó bằng GDP, quy mô dân số của một quốc gia vẫn có thể có một tác động độc lập bổ sung, và bỏ qua nó có thể dẫn đến các ước tính thiên vị vì các quốc gia đông dân hơn có thể cũng phân cấp hơn (Treisman 2002) . Tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp được bao gồm để kiểm soát cho các hiệu ứng chu kỳ kinh doanh. Tỷ lệ lạm phát được bao gồm vì thâm hụt tài chính và mở rộng cung tiền những cách thay thế để tài trợ cho chi tiêu công. Biến độ tuổi lao động, có thể đo tỷ lệ dân số từ 15 đến 65 tuổi, được đưa vào để kiểm soát các mức thu nhập đối với người có thể gánh vác gánh nặng thuế hiện tại và tương lai do các cổ phiếu hiện tại của nợ. Chúng tôi kiểm soát tư tưởng của đảng cầm quyền ở cấp liên bang bằng cách bao gồm một chỉ số chạy từ 1 (cực hữu) đến 5 (xa bên trái). Biến này được lấy từ cơ sở dữ liệu CPDS tôi xây dựng bởi Armingeon et al. (2008). Một số đóng góp đã lập luận rằng có thể có sự khác biệt đáng kể trong các hành vi tài chính của các bên tư tưởng Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 16
- Tài Chính Công PGS.TS Sử Đình Thành phản đối. Ví dụ, trường hợp đó, các chính phủ cánh tả có nhiều khả năng thực hiện chính sách mở rộng và làm tăng lạm phát thường được thực hiện (Hibbs 1977). Ảnh hưởng của ý thức hệ về nợ công là chưa rõ ràng, tuy nhiên. Trong khi chính sách tài khóa mở rộng có thể trên một mặt dẫn đến chi tiêu nhiều hơn, một số tác giả cho rằng đảng cánh tả cũng có khả năng tăng thuế, không có tác dụng rõ ràng về mức độ nợ (Borrelli và Royed 1995). Chúng tôi do đó không có tiền án mạnh mẽ đối với các dấu hiệu của hệ số ước tính với. Chúng tôi cũng bao gồm một số Herfindahl-Hirschman Index, đo lường mức độ của sự phân chia chính phủ, kể từ khi một số nghiên cứu cho thấy rằng chính phủ có xu hướng bị phân mảnh hơn là nhạy cảm hơn với vấn đề hồ bơi chung. Chỉ số này giả định giá trị cao hơn khi chính phủ là ít bị phân mảnh. Nó được thực hiện từ năm 2006 DPI bộ dữ liệu được cung cấp bởi Beck et al. (2001). Biến sự cởi mở được bao gồm kiểm soát đối với tác động của toàn cầu hóa kết quả tài chính. Bỏ qua biến này có thể dẫn đến các ước tính thiên vị vì toàn cầu hóa có thể là tương quan với mức độ phân cấp quản lý tài chính và đồng thời với nợ công (Sharma 2005). Tuy nhiên, các dấu hiệu dự kiến của hệ số là không rõ ràng. Theo cách khác, các nước cởi mở hơn có thể buộc phải thực hiện chính sách tài khóa thận trọng hơn vì các nhà đầu tư và các công ty có thể dễ dàng hơn để các nước "không hiệu quả" (De Mello 2005). Mặt khác, toàn cầu hóa có thể hạn chế khả năng của các chính phủ tăng thuế, buộc họ, ít nhất là tạm thời, để thay thế khoản nợ cho doanh thu thuế (Razin và Sadka 1991). Biến lãi suất được đưa vào để kiểm soát cho các chi phí đi vay. Dự kiến dấu hiệu của hệ số là không rõ ràng. Một mặt, sự gia tăng lãi suất nên làm cho vay một nguồn ít hấp dẫn về tài chính. Mặt khác, nợ ngắn hạn là thường tái cấp vốn bằng cách mua lại các khoản nợ mới. Kể từ thời điểm mà một số phần nhỏ của đến hạn trả nợ là khá ngoại sinh, lãi suất cao hơn chỉ đơn giản là có thể thổi phồng việc trả nợ chi phí của các cổ phiếu hiện tại của nợ, từ đó dẫn đến vay công cộng hơn. Nhóm 9 – CHNH Đêm 1 – K22 Page 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận - Mối liên hệ lý luận và thực tiễn
26 p | 4443 | 1499
-
Tiểu luận triết học "Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế"
18 p | 1309 | 217
-
Đề tài: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
16 p | 997 | 157
-
Đề tài "Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam"
20 p | 529 | 154
-
Tiểu luận: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam
20 p | 1031 | 143
-
Tiểu luận Triết học số 11 - Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
21 p | 693 | 92
-
Đề tài "Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế"
21 p | 321 | 79
-
Tiểu luận: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
19 p | 431 | 79
-
Tiểu luận: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
21 p | 391 | 72
-
TIỂU LUẬN: Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
19 p | 190 | 29
-
TIỂU LUẬN: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
19 p | 176 | 29
-
Tiểu luận: Mối liên hệ giữa học tập, đào tạo và hành vi nhân viên
30 p | 160 | 20
-
Tiểu luận Triết học số 65 - Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
23 p | 130 | 20
-
Tiểu luận: Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
23 p | 135 | 18
-
Tiểu luận: Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
32 p | 147 | 18
-
TIỂU LUẬN: Phép biện chứng về mối hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
27 p | 123 | 15
-
Tiểu luận: Mối liên hệ giữa phân cấp tài khóa và nợ công ở các nước OECD
40 p | 102 | 15
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn