intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 44 - Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

196
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 44 - Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức

  1. Tiểu luận triết học LỜI NÓI ĐẦU Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và quan  trọng nhất của Đảng và nhân dân ta hiện nay vì chỉ có thực hiện được mục  tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà theo  cách nói của Hồ Chí Minh là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân   chủ, văn minh”. Và cũng chỉ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chúng ta   mới có thể  làm thoả  mãn ham muốn tột cùng, ham muốn cuối đời của   Người đó là : “Làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được   học hành  ...”. Vậy chúng ta phải làm thế  nào để  thực hiện mục tiêu trên?  Từ thực tế hiện nay cùng với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta  là bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, mà tại đại hội VII của Đảng ta lần đầu  tiên đã khẳng định: Chủ  nghĩa Mác­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh là nền   tảng tư  tưởng, là kim chỉ  nam cho hoạt động của Đảng. Tức là, chúng ta  phải: dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác ­ Lênin mà  tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn  những đặc điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần tìm  hiểu được quy luật phát triển của Cách mạng Việt Nam,  định ra được   đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của Cách mạng xã hội chủ nghĩa  phù hợp với tình hình nước ta. Làm đề tài tiểu luận này, vơí tư cách là một sinh viên, một công dân   của nước Cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam, một mặt tôi muốn cùng  mọi người tìm hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Triết học Mác ­ Lênin phần chủ  nghĩa duy vật biện chứng. Cụ thể hơn, đó là mối quan hệ biện chứng giữa   vật chất với ý thức. Mặt khác, tôi cũng muốn góp một phần công sức nhỏ  bé của mình vào sự  nghiệp cách mạng lớn lao của toàn Đảng, toàn dân ta  hiện nay­ sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội­ mà nền tảng tư  tưởng là   chủ  nghĩa Mác ­ Lênin. Đó là, mọi sách lược, chiến lược cách mạng của   1
  2. Tiểu luận triết học chúng ta phải được xuất phát từ  thực tế  khách quan, phát huy được tính  năng động chủ quan và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. Đây được coi  là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó quyết định sự thành công hay thất  bại trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này sẽ  được lý  giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài. 1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất v ới ý  thức. 1.1. Vật chất quyết định ý thức. Trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu vật chất là gì? Theo Lênin thì  “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem   lại cho con người trong cảm giác và được cảm giác của chúng ta chép lại,   chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ  thuộc vào cảm giác’’. như  vậy  định nghĩa vật chất của Lê­nin nổi lên một số nội dung cơ bản sau: Thứ  nhất,  vật   chất  là   cái  tồn  tại  khách  quan   bên  ngoài  ý  thứcvà  không phụ thuộc vào ý thức. Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách  nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người. Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự  phản ánh của nó. Qua đó, Lênin muốn khẳng định rằng, trong nhận thức luận, vật chất   luôn mang tính thứ  nhất, là cái quyết định: vật chất quyết định sự  hình   thành ý thức, quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự  biến đổi của ý  thức và nó còn là điều kiện để hiện thực hoá ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học  thần kinh, chủ  nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một  thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là  thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ  óc người. Bộ  óc người là cơ  quan vật chất của ý thức. Khoa học cũng đã chứng minh  2
  3. Tiểu luận triết học được rằng, thế giới vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại  rất lâu trước khi xuất hiện con người và bộ óc người, rằng ý thức ra đời là  kết quả  của sự  phát triển lâu dài của giới tự  nhiên cho tới khi xuất hiện  con người và bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ  sở  hoạt động sinh lý thần kinh của bộ  não người. Bộ  não người bao gồm  khoảng 15 đến 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này tạo nên vô số các mối  liên hệ  nhằm thu nhận, xử  lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ  các hoạt  động của cơ thể trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản   xạ không điều kiện và có điều kiện.  Không chỉ  có thế, vận động của ý thức, tư  duy trên thực tế  cũng là  sản phẩm của sự  vận động của vật chất. Điều đó được chứng minh một  cách khá rõ ràng  ở  hình thức vận động xã hội của vật chất. Đó là sự  thay   thế  lẫn nhau của các hình thái kinh tế­ xã hội, từ  đó sớm hay muộn cũng   dẫn đến sự  thay đổi của ý thức, của cách nghĩ, bởi tồn tại xã hội bao giờ  cũng quyết định ý thức xã hội. Vai trò cơ  sở, quyết định của vật chất còn được thể  hiện  ở  chỗ  nó  quyết định nội dung phản ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức. Từ  nội dung thứ  hai trong định nghĩa vật chất của Lênin rằng: Vật  chất mà cái cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự  phản ánh của nó,   mà ta thấy rằng nội dung phản ánh của ý thức là thế giới bên ngoài, là hiện   thực khách quan. Hay nói như chủ nghĩa duy vật macxit : Ý thức là sự phản  ánh thế  giới khách quan vào trong bộ  óc của con người. Chính vì vậy mà   thế giới khách quan như thế nào thì ý thức phản ánh như thế ấy, không nên   phản ánh một cách xuyên tạc, hư   ảo, bóp méo sự  thật về  thế  giới khách  quan như  việc tô vẽ  hình tượng các vị  thần linh. Nói cách khác, nội dung  phản ánh của ý thức phải lấy cái khách quan làm tiền đề  và bị  cái khách  quan quy định. 3
  4. Tiểu luận triết học Vật chất quyết định sự  biến đổi của ý thức. Do ý thức là chức năng   của bộ não người. Hoạt động ý thức không diễn ra ở đâu ngoài những hoạt  động sinh lý thần kinh của bộ não. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ  não, do đó khi bộ  não bị  tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ  không được  bình thường hoặc bị rối loạn.  Mặt khác, trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất bao giờ  cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì  con người trước hết phải được thoả mãn nhu cầu vật chất tối thiểu : ăn, ở,  mặc… rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí, các hoạt động tinh thần.Tức là,  hoạt động nhận thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến   tự  nhiên để  thoả  mãn nhu cầu sống. Cuộc sống tinh thần của con người   phụ thuộc và bị chi phối bởi nhu cầu vật chất và những điều kiện vật chất   hiện có. Ý thức con người không thể  tạo ra các đối tượng vật chất, cũng   không thay đổi được quy luật vận động của nó. Do đó, mọi mục tiêu ước  muốn của con người không dựa trên điều kiện vật chất hiện có, trên mảnh   đất hiện thực đều là ước mơ chủ quan, không tưởng. Ví dụ: Vận dụng trong sự nghiệp công nhiệp hoá, hiện đại hoá của   nước ta. Trước kia do không nhận thức được rằng mọi chủ trương đường  lối…đều phải dựa trên điều kiện vật chát hiện có mà chúng ta đã chủ  trương phát triển công nghiệp nặng trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa  có. Do đó, chúng ta đã bị thất bại. Không chỉ có thế, tính thứ nhất của vật chất so với tính thứ hai của ý  thức còn được thể  hiện  ở  chỗ  vật chất là điều kiện để  hiện thực hoá ý  thức. Nó quy định khả  năng các nhân tố tinh thân có thể tham gia vào hoạt   động của con người. Nó tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần này hoặc nhân  tố  tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục đích, chủ  trương, biện pháp mà con người đề  ra cho hoạt động của mình bằng cách   4
  5. Tiểu luận triết học chọn lọc, sửa chữa, bổ  sung, cụ  thể  hoá các mục đích, chủ  trương biện  pháp đó. Khi khẳng định vai trò cơ  sở, quyết định trực tiếp của vật chất đối  với ý thức, chủ  nghĩa duy vật macxit đồng thời cũng vạch rõ sự  tác dộng  trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất.  1.2. Ý thức tác động trở lại vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra song sau khi ra  đời, ý thức có tính độc lập  tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt   động thực tiễn của con người.  Ý thức đúng đắn là ý thức dựa trên quy luật khách quan của con   người. Do đó nó có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất   khách quan theo nhu cầu của mình.  Ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác động  tiêu cực thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách  quan, kéo lùi lịch sử. Bởi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan  hệ tác động qua lại. Không nhận thức được điều này sẽ rơi vào quan niệm  duy vật tầm thườngvà bệnh nảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức về thực cất là nói tới vai trò của con người   bởi ý thức là ý thức của con người. Trái với các nhà triết học duy tâm muốn biến ý thức của con người  thành động lực của lịch sử, Cácmac và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xưa   nay, tư  tưởng không thể  đưa người ta vượt ra ngoài trật tự  thế  giới cũ   được, trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta   vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi”. Thật vậy,  tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư  tưởng thì cần có những con người sử  dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó  cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện các quy luật khách quan thì  5
  6. Tiểu luận triết học phải nhận thức,  vận dụng  đúng  đắn các quy luật  đó, phải có  ý chí và  phương pháp để tổ chức hành động. Như vậy vai trò của ý thức là ở chỗ nó   giúp con người đề  ra chủ  trương, đường lối, chính sách, những mục đích,  kế  hoạch, biện pháp, phương hướng phù hợp với thực tế khách quan. Nói  như  vậy có nghĩa là cũng có những ý thức khoa họcvà những ý thức không   khoa học so với hiện thực khách quan, tương ứng với nó là hai tác động trái  ngược nhau tích cực và tiêu cực của ý thức đối với vật chất.  Vai trò tích cực của ý thức, tư  tưởng không phải ở  chỗ  nó trực tiếp   tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế khách quan từ đó  hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp đúng đắn đồng thời   có ý chí, quyết tâm cần thiết cho hoạt dộng của mình. Sức mạnh cuả  ý   thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất, thoát ly hiện  thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh  đúng quy luật khách quan để  cải tạo thế  giới khách quan một cách chủ  động, sáng tạo với ý chí và quyết tâm cao nhằm phục vụ  lợi ích của con  người và xã hội. Con người nhận thức và phản ánh thế giới thế giới khách   quan càng đầy đủ  chính xác bao nhiêu thì cải tạo chúng càng có hiệu quả  bấy nhiêu.  ở  đây vai trò năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố  chủ  quan của con người có vị  trí hết sức quan trọng. Bảo thủ trì trệ  hoặc tiêu  cực thụ động, ỷ  lại ngồi chờ chính là kìm hãm sự  phát triển, triệt tiêu tính  năng động tích cực sáng tạo của ý thức. Mặt khác, do có tính vượt trước, nên ý thức giúp cho hoạt động của  con người trở  nên tự  giác, tích cực, chủ  động hơn như  trong việc dự  báo,  lập kế hoạch, đề ra đường lối, phương pháp hành động. Vai trò của ý thức còn thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm  và ý chí. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là  động lực của thực tiễn. Không có sự  thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt   6
  7. Tiểu luận triết học động thực tiễn sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra  được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ  và bản sắc của hoạt   động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, lòng nhiệt tình,  chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê với công việc, khả  năng sáng tạo và  vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định đều có  ảnh hưởng to  lớn  đến hoạt  động thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm. Tuy  nhiên, ý chí, tình cảm chỉ là động lực mà không thể là kim chỉ làm cho hoạt  động thực tiễn. Bởi vì, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn,  tác dụng tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên   và xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo ý thức. Chính vì vậy phải  biết kết hợp giữa tri thức, trí tuệ, khoa học với ý chí, tình cảm. Bởi tri thức   càng được tích luỹ, con người ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và cải  tạo sự vật có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ  sở  cho việc phát huy tính năng động chủ  quan của ý  thức là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các   quy luật tự nhiên và xã hội. Nếu như  thế giới vật chất – với những thuộc   tính và quy luật vốn có của nó – tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý  thức con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát   từ  thực tế  khách quan, lấy thực thể  khách quan làm căn cứ  cho mọi hoạt  động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không  được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình  cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ  xuất phát từ  ý muốn chủ  quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy  ảo   tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Không chỉ có thế, khi vai trò chỉ đạo của ý thức phạm sai lầm thì tinh  thần, dũng cảm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm cũng làm cho hoạt động thực   tiễn thất bại một cách nhanh chóng. 7
  8. Tiểu luận triết học Qua những điều vừa trình bày  ở  trên về  mối quan hệ  giữa vật chất   với ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể  rút ra một ý   nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người như sau:  Mọi hoạt động của con người ( cả  hoạt động nhận thức lẫn hoạt động  thực tiễn) đều phải xuất phát từ  thực tế  khách quan, phát huy được tính   năng động sáng tạo của ý thức, tư  tưởng, của nhân tố  chủ  quan của con   người và đồng thời chống chủ quan duy ý chí. 2.  Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật   chất với ý thức vào sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội  ở  nước ta  hiện nay 2.1.   Xuất   phát   từ   thực   tế   khách   quan   từ   đó   đề   ra   đường   lối,   chủ   trương, chính sách, kế hoạch, phương hướng, mục tiêu…đúng đắn cho   sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Chúng ta khẳng định: Chủ  nghĩa xã hội nhất định sẽ  thay thế  chủ  nghĩa tư  bản như  chủ  nghĩa tư  bản đã thay thế  chế  độ  phong kiến. Đó là   quy luật khách quan của lịch sử  loài người.  ở  nước ta, chủ  nghĩa xã hội   cũng nhất định sẽ được xây dựng thành công trong sự gắn bó giữa độc lập  dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ đâu và đi theo con đường nào? Chỉ có thể và phải xuất   phát từ  những điều kiện – hoàn cảnh lịch sử  cụ  thể  của đất nước Việt  Nam và con người Việt Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh khu vực   thế giới hiện đại, theo quy luật chung mà chủ nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra. Thực tế  là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ  nghĩa từ  một  xuất phát điểm về kinh tế xã hội rất thấp ­ nhất là lực lượng sản xuất. Đó  là tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế  hiện vật còn khá phổ  biến, kỹ thuật thô sơ, thủ công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hoá còn chưa trở  thành phổ biến, thị trường bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép kín kể  8
  9. Tiểu luận triết học cả trong kinh tế đối ngoại. Phương thức tổ chức, quản lý nền kinh tế dựa   trên lĩnh vực kinh tế của chúng ta là tập trung lực lượng sản xuất, đổi mới  phương thức, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm. Muốn phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công  nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, tạo đường   băng để  đất nước “cất cánh”   một cách hiện thực hướng tới năm 2020  nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá chứ không dừng lại ở  phương hướng chung. Nghĩa là, phải xây dựng một chương trình khả  thi  cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, chú trọng cho  phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm, cho vùng  núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ… Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của  Đảng ta đã khẳng định : con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của   nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có  những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế  của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ  công nghệ tiên tiến,  đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng   ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới   về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật sự trở  thành lực lượng sản xuất trực tiếp và động lực chủ  yếu trong phát triển   kinh tế  – xã hội, khắc phục nguy cơ  tụt hậu về  khoa học và công nghệ.   Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự  lựa  chọn nào khác  là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để  từng bước phát triển kinh tế  trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ  và sức  mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là  nền tảng và động lực của sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi  9
  10. Tiểu luận triết học nhân tố  con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự  phát triển lực   lượng sản xuất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con  đường đi lên của nước ta là sự  phát triển quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội bỏ  qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập hệ thống chính trị  của quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư   bản chủ  nghĩa, nhưng  tiếp thu, kế  thừa những thành tựu mà mà nhân loại đã đạt được dưới chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa, đặc biệt là về  khoa học và công nghệ  để  phát triển   nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế  hiện đại. Xây dựng chủ  nghĩa xã hội bỏ  qua chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa, tạo ra sự  biến đổi về  chất  của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho  nên phải trải qua  một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều   hình thức tổ  chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực   của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Khi khẳng định: chúng ta phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà  nhân loại đã đạt được dưới chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa, tức là, chúng ta lựa   chọn, sử dụng những thành tựu có lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã   hội. Trên phương diện này cần phải xem chủ  nghĩa tư  bản không chỉ  là  một đối trọng mà quan trọng hơn đồng thời là một đối tác. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với nước ta đi lên chủ nghĩa xã  hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì   không thể  không sử  dụng chủ  nghĩa tư  bản với tư  cách là một nấc thang  văn minh nhân loại. Như  Mac đã nói: “ chúng ta đau khổ  vì chủ  nghĩa tư   bản và cũng đau khổ vì không có nó”. Tức là, chúng ta đau khổ vì quan hệ  sản xuất sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhưng có lẽ  chúng ta còn đau khổ hơn nếu như không có lực lượng sản xuất khổng lồ  10
  11. Tiểu luận triết học của nó, đó chính là: “Tiền đề  thực tiễn tuyệt đối cần thiết” (C.Mác và  Ph.Ăngghen). Định hướng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải kế  thừa và sử dụng lực lượng sản xuất do nhân loại tạo ra và phát triển trong  điều kiện của xã hội tư  bản chủ  nghĩa, chẳng hạn đó là: thành tựu khoa  học, kỹ  thuật, và công nghệ  –môi trường, là cơ  chế  thị  trườngvới nhiều   hình thức cụ thể tác động vào quan điểm phát triển kinh tế, nhất là những   mặt tích cực của nó. Nói như  vậy không có nghĩa là lặp lại hoàn toàn quá  trình xây dựng lực lượng sản xuất đó trong lịch sử. Ở nước ta, lực lượng sản xuất cần phát triển song hành hai phương   thức: tuần tự (từ thủ công đến nửa cơ khí rồi cơ khí) và nhảy vọt theo lối   đi tắt, đón đầu (từ thủ công đi thẳng vào hiện đại) sao cho trong một thời   gian ngắn, thậm chí rât ngắn chúng ta đạt trình độ  với các nước tiên tiến  trong khu vực… Song chúng ta phải biết rằng, lực lượng sản xuất chỉ  có thể  phát  triển gắn liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta   đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý  của nhà nước theo định hướng xã hội  chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, phát triển  lực lượng sản xuất,   phát triển kinh tế để  xây dựng cơ  sở  vật chất ­  kinh tế của chủ nghĩa xã  hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tới  mức xã hội hoá gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên  cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa có nhiều hình thức  sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ  đạo, kinh tế  nhà nước cùng với kinh tế  tập thể  ngày càng trở  thành nền  11
  12. Tiểu luận triết học tảng vững chắc. Kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ  nghĩa có sự  quản lý của nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ  nghĩa, quản lý  nền kinh tế  bằng hệ  thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế  hoạch,  chính sách, sử  dụng cơ  chế  thị  trường, áp dụng các hình thức kinh tế  và  phương pháp quản lý của kinh tế  thị  trường để  kích thích sản xuất, giải  phóng sức sản xuất, phát huy được mặt tích cực, hạn chế  và khắc phục  mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động, của  toàn thể nhân dân. Muốn đảm bảo cho nền kinh tế  thị  trường có điều kiện tồn tại và  phát triển, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại một cách tất nhiên và khách  quan của các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh   tranh… trong nền kinh tế. Vì nó là cái khách quan nên chúng ta phải chú ý   không nên đi ngược lại nếu không thì chẳng bao giờ  có thể  xây dựng nền   kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng bên cạnh những mặt tích cực của nền kinh tế  thị  trường là:  phát triển nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao mức sống, mức thu nhập   của người lao động lên thì mặt trái của nó trong một vài năm trở  lại đây   đang được phát huy một cách mạnh mẽ, sự  chênh lệch thu nhập dẫn đến  sự  phân hoá giàu nghèo trong lao động, tệ  nạn quan liêu, tham nhũng, suy   thoái phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nước… Trước thực tế  đó, Đảng và nhà nước cần có những biện pháp phân  phối hợp lý, không chỉ có phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả  kinh   tế mà còn phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản   xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Ngoài ra chúng ta cần có   những biện pháp khuyến khích làm giàu một cách chính đáng. Đối với thu  nhập, nhà nước cần có cơ  sở  điều tiết thu nhập (thuế thu nhập), cải cách  cơ bản chế độ tiền lương. Đối với người nghèo và có hoàn cảnh khó khăn  12
  13. Tiểu luận triết học cần có chính sách xã hội hợp lý: bàn cách làm giàu… mặt khác cần kiên   quyết chống những thu nhập bất chính. Đáng sợ hơn đó là tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất   đạo đức của nhiều cán bộ, công chức nhà nước nằm ngay trong bộ  máy  nàh nước, nó gây ra bất công xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự  lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… ở vai trò của  công tác xây dựng Đảng, nhà nước trong sạch, vững mạnh là hết sức quan  trọng. Nói chung, chúng ta đi lên chủ  nghĩa xã hội bỏ  qua việc xác lập hệ  thống chính trị  của chủ  nghĩa tư  bản không phải là không có kế  thừa và   chọn lọc những quan hệ  sản xuất, những hình thức kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa khi nó chưa hết tác dụng tích cực ngya trong thời kỳ  quá độ. Đây  chính là những “cây cầu nhỏ”, những bước trung gian quá độ đưa chúng ta  tới “phòng chờ” trực tiếp đi và chủ nghĩa xã hội. Về nặt kiến trúc thượng tầng, chúng ta cũng kế thừa và chọn lọc để  xây dựng nhà nước hiến pháp của xã hội chủ nghĩa điều khiển nền kinh tế  thị trường. Chúng ta xác định mục tiêu: chủ  nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây  dựng là một chế độ xã hội vì con người và do con người. Để tiến hành đến  mục tiêu xây dựng thành công xã hội chủ  nghĩa phải gắn liền với tăng  trưởng kinh tế, với công bằng xã hội, với tiến bộ xã hội, phải ra sức thực   hiện các chính xác xã hội. Đảng ta khẳng định: “chính xác xã hội đúng đắn   vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tại   của nhân dân trong sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội ”, bởi “không có   đầu tư nào có lợi như đầu tư cho con người ”. Chính sách xã hội của Đảng  được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống: quan tâm chăm sóc đối với   những người có công với cách mạng, chính sách đền ơn đáp nghĩa (xây nhà  13
  14. Tiểu luận triết học tình nghĩa, sổ  tiết kiệm tình nghĩa). Trong kihn tế, tạo ra nhiều công ăn  việc là mới cho người lao động, cải cách chế  độ  tiền lương theo hướng  xoá bỏ  thu nhập bình quân, tiền tệ  hoá tiền lương, khuyến khích tài năng,  đâu tư đúng mức cho các ngành: y tế, giáo dục, văn hoá­ nghệ thuật, nghiên   cứu khoa học. Thực hiện chính sách dân số  là một mục tiêu hết sức quan   trọng trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Nhưng dù sao đó mới chỉ  là những chủ  trương, đường lối đối với   tình hình trong nước. Vậy còn quốc tế thì sao? Thứ  nhất, cách mạng khoa học ­ công nghệ, đặc biệt là công nghệ  thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng   trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh  tế  tri thức. Nước ta một mặt có cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nước   phát triển, cải thiện vị  thế  của mình. Đồng thời đứng trước nguy cơ  tụt  hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục được những yếu   kém để  vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức   nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa học công  nghệ vào trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát triển. Thứ  hai, toàn cầu hoá kinh tế  là xu thế  khách quan, lôi cuốn các  nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép  cạnh tranh và tính tuỳ thuộc nhau giữa các nền kinh tế. Nước ta cũng không  thể nằm ngoài vòng xoáy đó. Vậy chúng ta phải làm thế nào để vừa có thể hội nhập kinh tế quốc   tế, tham gia vào xu thế  toàn cầu hoá lại vừa có thể  giữ  vững được nền  kinh tế độc lập tự chủ. Trước tiên phải tính đến vai trò của bộ máy nhà nước. Theo chỉ dẫn  của Lênin thì bộ  máy nhà nước cần phải vừa mềm dẻo vừa hết sức cứng   rắn: “Ngày nay cần có sự  mềm dẻo tối đa, mà muốn thế, muốn  ứng biến   14
  15. Tiểu luận triết học một cách mềm dẻo thì bộ  máy phải thực sự  cứng rắn ”. Phải mềm dẻo vì  đây là thời kỳ  quá độ, biện pháp quá độ. Phải cứng rắn vì đây là cuộc  “chiến tranh kinh tế”, cuộc chiến tranh “ai thắng ai”  giữa chủ  nghĩa tư  bản và chủ nghĩa xã hội. Bởi kẻ nào nắm thống trị về kinh tế thì dần dần   sớm muộn cũng sẽ  thống trị  cả  về  chính trị  (áp dụng mối quan hệ  biện   chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng). Thứ hai, đó là chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội mang bản sắc dân   tộc vận hành trước xu thế toàn cầu hoá, chủ động mở cửa hội nhập kinh tế  quốc tế nhưng phải giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì không có   bản lĩnh và không có bản sắc độc đáo riêng được giữ  gìn, bảo vệ  và phát   huy thì không thể  đứng vững trong giao lưu hợp tác và hội nhập quốc tế.  Phải làm cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý, ý thức dân chúng, là nội dung   của kinh tế, chinh trị , xã hội trong phát triển. Văn hoá ở trong kinh tế chính  trị  là vậy. Mà giá trị  cao nhất, sâu nhất của văn hoá lại là con người. Nó  phải là chỗ quy tụ của mọi đường lối, chủ trương, chính sách, cơ chế, giải  pháp. Một lần nữa chúng ta khẳng định vai trò của con người trong sự  nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội  ở  nước ta. Vì vậy nước ta phải đầu tư  hơn nữa cho việc phát triển con người mà cụ  thể  là sự  nghiệp giáo dục­  đào tạo phải được: đổi mới phương pháp giảng dạy ở  tất cả  các bậc học   từ  mầm non tới sau đại học. Chú trọng đến giáo dục đào tạo  ở  bậc tiểu   học và trung học cơ sở. Bởi “không có cái lợi nào bằng cái lợi đầu tư cho   con người”. Mặt khác, ta còn phải nâng cao năng lực và hiệu quả chủ động  hội nhập quốc tế  theo hướng đẩy nhanh tốc độ  và khả  năng nội sinh hoá   những sức mạnh bên trong nhằm thâu thức, tích tụ  và tăng cường nội lực  đất nước để hội nhập một cách mạnh mẽ, toàn diện và sâu sắc mà vẫn giữ  được bản sắc Việt nam. 15
  16. Tiểu luận triết học Hiện nay, các thế  lực thù địch với những “ diễn biến hoà bình” vẫn  đang đe dọa hệ  thống chính trị  xã hội chủ  nghĩa  ở  nước ta. Từ  thực tế  đó  đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải ra sức tăng cường an ninh quốc phòng, ra  sức đổi mới hệ  thống chính trị  phù hợp với yêu cầu phát triển của đất   nước, của thời đại. 2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ  quan và chống chủ  quan   duy ý chí. Bên cạnh một số chính sách, biện pháp nhằm đưa đất nước ta vững   bước trên con đường xã hội chủ nghĩa như đã trình bày ở trên, ta không thể  không kể đến vai trò thúc đẩy sự  nghiệp xây dựng chủ  nnghĩa xã hội tiến  nhanh và xa hơn đó là tính năng động, chủ  quan, đó là khối đại đoàn kết   toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được xã hội   xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam. Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới   mẻ, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ  vai trò của nhân tố  chủ  quan, của tính năng động chủ  quan. Đó chính là những phát minh vĩ  đại, những đường lối chính sách đứng đắn có tính chất quyết thắng của   toàn thể dân tộc Việt Nam. Sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội là sự  nghiệp sáng tạo vĩ đại  của đông đảo quần chúng. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị  lực lớn thì  không thể  thực hiện được những nhiệm vụ  trọng đại, khó khăn phức tạp  chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình và ý chí   cách mạng hiện nay phải gắn liền với chi thức, hiểu biết, đặt trên cơ  sở  khoa học, sự phát triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc. Không có khoa học, không có sự  phát triển mạnh mẽ  nguồn lực trí  tuệ thì không thể dẫn dắt xã hội đi tới văn minh, hiện đại. Do đó, phải quy   tụ  mọi tài năng của công dân, tập hợp trí tuệ và phát huy sức mạnh trí tuệ  16
  17. Tiểu luận triết học của cả dân tộc. Đây phải đứng ở đỉnh cao và là chỗ  kết tinh tài năng ý chí  chỉ đạo, bản lĩnh giai cấp và dân tộc, biểu hiện tinh thần thời đại. Bước vào thế kỷ XXI, chúng ta tin chắc vào thắng lợi của sự nghiệp   xây dựng chủ  nghĩa xã hội và bảo vệ  tổ  quốc, tin chắc chủ  nghĩa xã hội  nhất định thành công, nhất định tiếp tục đi theo con đường đã chọn, dù một   thế  kỷ  hay lâu hơn nữa cũng không nao núng. Đó phải chăng là sự  khẳng  định một ý chí lớn, một niềm tin lớn, một quyết tâm lớn mà nếu không có  thì sẽ  không tiếp tục cụ  thể  hoá và từng bước đưa vào cuộc sống những   điều ghi trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ lên chủ  nghĩa xã hội cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ IX. Với ý chí “quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi nghèo làn, lạc hậu”, thhì  không thể  chậm chễ  trong công nghiệp hoá, hiện đại hhoá đất nước, để  nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển. Trong khi đề  cao vai trò của nhân tố  chủ  quan, của ý chí, nhiệt tình,   cách mạng cũng cần phải phân biệt với tư tưởng chủ quan duy ý chí. Chủ  nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội   nhưng ý thức xã hội lại có tác động ngược lại đến tồn tại xã hội, thúc đẩy   hoặc kìm hãm sự  phát triển của xã hội. Khi con người xuất phát ý muốn  chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế thì nó sẽ trở thành một vận cản đối   với sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã   hội mà trước mắt là sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta   không thể tiến hành theo quan niệm cũ, cách làm cũ (trước 1986). Mà mọi  đường lối, kế hoạch đều phải dựa vào tình hình thực tế, những điều kiện  và khả năng thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Nêu cao, bồi dưỡng ý chí cách mạng và phê phán tư tưởng chủ quan   duy ý chí là hai mặt của một vấn đề. Nêu cao ý chí cách mạng là khuyến  khích tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám tạo ra những bước đột phá có tính  cách mạng để phát triển chứ không phải là kích thích những hành động chủ  quan nóng vội, bất chấp quy luật khách quan. Phê phán tư tưởng chủ quan  17
  18. Tiểu luận triết học duy ý chí là nhằm hướng tới sự  tỉnh táo khoa học và tính thực tiễn trong   mọi mặt hoạt động chứ không phải là làm nhụt ý chí cách mạng.  KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứu đề  tài trên, chúng ta đã tìm hiểu một cách sâu  sắc hơn về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, đó là mối quan hệ  biện  chứng tác động qua lại lẫn nhau. Khẳng định vật chất luôn mang tính thứ  nhất, tính quyết định, ý thức luôn mang tính thứ  hai, bị  chi phối, bị  quyết   định. Song, ý thức lại có tác động trở  lại vô cùng quan trọng đối với vật   chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý muốn,   nhưng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không phát triển, bị  kìm   hãm. Qua đó, chúng ta có thể rút ra bài học hết sức cần thiết cho sự nghiệp   cách mạng lớn lao của Đảng và nhân dân ta ­ Sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội đó là: Chúng ta chỉ có thể tiến lên chủ  nghĩa xã hội nếu như:   Mọi đường lối, chính sách, phương hướng mục tiêu đề  ra, hoạch định ra   phải được xuất phát từ thực tế điều kiện nước nhà. Thứ hai chúng ta phải   phát huy cao độ  vai trò tích cực của ý thức hay chính là vai trò năng động  chủ quan của con người. Xây dựng hệ động lực tinh thần mạnh mẽ cổ vũ  lớn lao cho sự nghiệp cách mạng vĩ đaịo của toàn Đảng và nhân dân ta. Đó  chính là “xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”, đó là “khơi dậy lòng yêu   nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm   đưa nước nhà ra khỏi nghèo làm lạc hậu”. Đồng thời, chúng ta cũng cần  tránh tư tưởng chủ quan duy ý chí, nóng vội trong sự nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội. Một điều hết sức quan trọng đó là làm sao để  vừa xây dựng  nền kinh tế  có sự  tham gia của các thành phần kinh tư  bản lại vừa tránh  được nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là một vấn đề cấp   thiết mà Đảng và nhà nước ta cần có phương hướng đi sao cho phù hợp. 18
  19. Tiểu luận triết học Gần đây có một số ý kiến cho rằng: Mục tiêu đến năm 2020 nước ta  cơ bản trở thành một nước công nghiệp của Đảng ta là chủ quan duy ý chí,   là nóng vội, không tuân theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, rằng nước ta chưa đủ  điều kiện để có thể đề ra một mục tiêu không tưởng như vậy. Đứng trước   tình hình này, Đảng và nhà nước ta cần có biện pháp, bước đi như thế nào? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác ­ Lênin (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội) 2. Triết học Mác ­ Lênin (NXB giáo dục) 3.Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXB Sự thật, Hà Nội, năm 1991. 4. Chủ  nghĩa Lênin và công cuộc đổi mới trong sự nghiệp xây dựng  CNXH ở nước ta (NXB Thông tin lý luận, năm 1995). 5. Lê Khả  Phiêu:  “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng…”  (NXB Chính trị quốc gia, năm 2001). 6. Lý luận chính trị số 1­ 2002. 7. Tạp chí Cộng sản số 22 ­ 2000. 8. Tạp chí Cộng sản số 5 ­ 2001. 9. Tạp chí Cộng sản số 6 ­ 2001. 10. Tạp chí Cộng sản số 8 ­ 2001. 11. Tạp chí Triết học số 5 – 2002. 12.  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9. NXB Chính trị quốc gia, năm 2001. 19
  20. Tiểu luận triết học MỤC LỤC Nội dung Trang Lời nói đầu……………………………… …………………………1  1. Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa  vật chất với ý thức …………………………………………...2 1.1. Vật chất quyết định ý thức …………………………………… 2 1.2. ý thức tác động trở lại vật chất…………………………………4 2.  Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ  giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. …………………………….7 2.1. Xuất phát từ thực tế khách quan từ đó đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, phương hướng, mục tiêu…đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa  xã hội ở nước ta hiện nay…………………………………….7 2.2. Phát huy vai trò của tính năng động chủ quan và chống chủ  quan  duy ý chí…………………………...………………….12 3. Kết luận …………………………………………………………15 4. Phụ lục …………………………………………………………..16 5. Tài liệu tham khảo ………………………………………………17 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2