
December
9, 2012 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HOC GV: DƯƠNG T HÁI HOÀNG
1
A. CÁC NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÀI NGHIÊN CỨU:
“THE DRIVING DRIVERS OF DYNAMIC COMPETITIVE
CAPABILITIES: A NEW PERSPECTIVE ON cOMPETITION
”
“Các yếu tố thúc đẩy của năng lực cạnh tranh động: một cái
nhìn mới về cạnh tranh”
CHƯƠNG I : GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết này nghiên cứu các yếu tố quan trọng của năng lực học hỏi động (DLM) tác
động đến năng lực cạnh tranh động (DCC), một quan điểm đã không được xem xét bởi
các nghiên cứu trước đó.
Nghiêncứu này cung cấp một mô hình lý thuyết rõ ràng cho việc phát triển DCC, đặc
biệt là khi nó liên quan đến các tổ chức liên minh.
1.2. Thiết kế/phương pháp/cách tiếp cận
Xem xét các nghiên cứu trước đây và thực hiện 5 nghiên cứu tại các công ty Đài Loan
để nhận biết và xác minh những yếu tố DLM tác động đến DCC.
1.3. Những phát hiện
Trong nghiên cứu này cho ta thấy rằng các mối liên hệ bên ngoài, những kinh nghiệm
trước đây, thực hành lặp lại, hệ thống hóa kinh nghiệm và sự tích hợp sức mạnh của các
nhà quản lý đóng một vai trò tích cực trong việc phát triển DCC trong khi các yếu tố
không rõ ràng trong việc học hỏi của các tổ chức sẽ mang lại một tác động tiêu cực.

December
9, 2012 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HOC GV: DƯƠNG T HÁI HOÀNG
2
1.4. Hạn chế/ý nghĩa của nghiên cứu
Việc sử dụng có tính chiến lược các yếu tố của DLM sẽ tăng cường khả năng cạnh
tranh động của các tổ chức liên minh.
Kết quả này cũng cung cấp một cơ sở đáng tin cậy cho việc phát triển DCC của các
doanh nghiệp và nâng cao sự thành công trong hoạt động kinh doanh.
1.5.Giá trị/ sáng tạo của nghiên cứu
Nghiên cứu này đã lấp được lỗ hổng của những nghiên cứu trước đó về việc phát triển
DCC thông qua DLM, và xác định mô hình lý thuyết rõ ràng. Vì vậy công tác này cung
cấp một khuôn khổ cho doanh nghiệp duy trì các lợi thế cạnh tranh dài hạn trong một môi
trường đa dạng và có nhịp độ phát triển nhanh.
CHƯƠNG II : TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC GIẢ THUYẾT
2.1. Tổng quan lý thuyết
2.1.1. Các khái niệm trong bài nghiên cứu:
DCC - dynamic competitive capability – năng lực cạnh tranh động: có khả
năng tạo mới nguồn lực có giá trị một cách năng động
DLM – dynamic learning mechanism – cơ chế học hỏi động: học hỏi có tổ chức
các kiến thức động.
RBV – Resource Based View – lý thuyết về trên nguồn lực: quan điểm cho
rằng lợi thế cạnh tranh có từ việc sở hữu các nguồn lực đặc trưng theo ngành.
2.1.2. Lý thuyết nền và các nghiên cứu trước.
Một vấn đề cơ bản của quản trị chiến lược đó là tạo ra được lợi thế cạnh tranh, cụ thể
là làm cách nào để xây dựng được một vị thế cạnh tranh duy nhất. Lợi thế này có được
khi doanh nghiệp sở hữu các nguồn lực độc nhất. Tuy nhiên, nguồn lực độc nhất luôn bắt
nguồn từ những khả năng hoặc những tính chất riêng biệt, bao gồm cả các bí quyết, bí mật

December
9, 2012 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HOC GV: DƯƠNG T HÁI HOÀNG
3
trong kinh doanh, uy tín, sự học hỏi và một số cơ sở sản xuất được chuyên môn hóa.
Những khả năng hay đặc tính riêng biệt này không phải lúc nào cũng có thể được mua
bán giao dịch. Thậm chí nếu có thể, chúng -những khả năng hay đặc tính riêng biệt-
thường có một khoảng thời gian hữu ích khá ngắn ngủi, và do đó bất kỳ khả năng riêng
biệt nào mà họ đạt được thông qua việc mua bán thì nhanh chóng cũng sẽ bị mất đi
(Barney, 1986).
Những khả năng riêng biệt có thể được xác định bởi lề lối làm việc của tổ chức liên
quan đến những cơ chế riêng biệt liên kết nền tảng học hỏi (Penrose, 1959; Teece, 1984;
Wernerfelt, 1984). Như vậy, cơ chế học hỏi có tổ chức của các doanh nghiệp có thể là
một chìa khóa cho doanh nghiệp phát triển các khả năng riêng biệt và tạo ra các lợi thế
thật sự mà các lợi thế này không thể bị sao chép bởi các đối thủ cạnh tranh. Hoạt động có
tổ chức, đặc biệt là những hoạt động liên quan đến những cơ chế học tập, có thể là một
con đường chính yếu để doanh nghiệp phát triển DCC (Argote, 1999).
Theo phương pháp tiếp cận của Nelson và Winter (1982), xác định một DLM là một
tập hợp các hoạt động và lề lối làm việc hướng doanh nghiệp có thể tiếp tục vào một
nguồn lực đổi mới và thúc đẩy khả năng tăng trưởng. Xác định các yếu tố DLM theo
Zollo và Winter 2002, dựa trên hướng của việc tích lũy kinh nghiệm, trình bày kiến thức
và hệ thống hóa kiến thức.
1) DCC là dựa trên các lề lối làm việc đặc trưng và quy trình cụ thể.
DCC là một quá trình tiến hóa nội tại có thể giúp tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết vấn đề, cải thiện việc ra quyết định, kích thích sáng tạo ý tưởng, và giúp các thành
viên thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của tổ chức. Đặc biệt, DCC của tổ chức gồm trình
bày các kiến thức tiềm ẩn và tích lũy kinh nghiệm phải được phát triển bằng các lề lối làm
việc đặc trưng hoặc các quy trình cụ thể. DCC bao gồm hệ thống tổ chức liên quan đến
các quy trình cụ thể của việc tích hợp, cấu hình lại, lớn mạnh, và phát triển các nguồn lực
(Kogut và Zander, 1992; Eisenhardt và Martin, 2000), và có thể dẫn đến việc cấu hình lại
tổng thể tài nguyên nguồn lực (Nelson và Winter, 1982; Kogut và Zander năm 1992;

December
9, 2012 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HOC GV: DƯƠNG T HÁI HOÀNG
4
Eisenhardt và Martin, 2000). DCC tồn tại trong lề lối làm việc đặc biệt và phát sinh từ
việc học hỏi mà những ưu điểm học hỏi như vậy mở ra giá trị bền vững lớn nhất
(Prahalad và Hamel, năm 1990; Senge, 1990; Clark và Fujimoto, năm 1991; Stalk, Evans
và cộng sự, 1992; Williamson, 1999 ;Priem và Butler, 2000; Zollo và Winter, 2002).
2) Khả năng học hỏi của tổ chức là nền tảng cho việc phát triển DCC
Argote (1999) và Eisenhardt và Martin (2000) lập luận rằng phát triển DCC chính xác
hơn có thể được mô tả bởi khái niệm cơ chế học hỏi. Học hỏi có tổ chức là một quá trình
lặp đi lặp lại và thử nghiệm sao cho nhiệm vụ sẽ được thực hiện nhanh hơn và hiệu quả
hơn, giúp tiếp cận những cơ hội một cách có chiến lược (Teece, Pisano và cộng sự, 1997).
Winter (2003) chỉ ra rằng việc thành lập một DLM có thể hỗ trợ trong việc thâu nạp kiến
thức và tạo ra khả năng cạnh tranh
3) Liên minh tăng cường sự phát triển DCC
Itami và Roehl (1987) và Shuen (1994) tin rằng nếu các doanh nghiệp thiếu các nguồn
lực để tạo ra lợi nhuận kinh tế, họ có thể có được những nguồn lực có lợi nhuận thông qua
các liên minh hay mua lại, và cuối cùng tạo ra một lợi thế cạnh tranh. Powell, Koput et al.
(1996) nhấn mạnh rằng DCC của một công ty có thể lấy được từ quá trình hình thành một
liên minh, đặc biệt là khi doanh nghiệp bên ngoài sở hữu kiến thức, và liên minh như vậy
có thể cải thiện khả năng của công ty đó để đổi mới khả năng tổ chức. Quá trình liên
minh bao gồm thích ứng và thay đổi lề lối làm việc và quy trình nhất định, mà thường dẫn
đến tích hợp tốt hơn các nguồn tài nguyên hợp lệ để điều khiển sự phát triển của DCC, do
đó tạo ra giá trị chiến lược nhiều hơn (Kogut và Zander, năm 1992; Eisenhardt và Martin,
2000; Zollo và Winter, 2002).
4) Mục đích học hỏi là yếu tố chính và cơ bản của DLM
Liên minh chiến lược là các mối quan hệ hợp tác theo định hướng học hỏi điển hình,
và cả hai bên hợp tác với nhau nói chung có mục đích học hỏi rõ ràng, chẳng hạn như học
hỏi về một số kinh nghiệm thành công, chuyên môn cụ thể, và làm thế nào để vận hành

December
9, 2012 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HOC GV: DƯƠNG T HÁI HOÀNG
5
thiết bị nào đó. Hamel (1990) đã xác định một số cấu trúc quan trọng của việc học hỏi của
tổ chức từ các đối tác liên minh, bao gồm một hệ thống động viên, mục đích học hỏi, thái
độ học hỏi, và triển khai nguồn lực thích hợp, trong đó mục đích học hỏi là quan trọng
nhất và có ảnh hưởng quyết định nhất trong việc mua lại năng lực cụ thể của các đối tác
liên minh (Hamel, Doz et al, 1989;. Hamel, 1990; Teramoto, Richter et al, 1993). Vì vậy,
mục đích học hỏi là rất quan trọng đối với một liên minh, bởi vì cả hai đối tác hợp tác hy
vọng sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của họ và bù đắp cho những điểm yếu cá nhân của
họ bằng cách thành lập liên minh. Kelly (1974) và Filley, House và cộng sự (1976) cũng
xem mục đích học hỏi là yếu tố quyết định quan trọng nhất của việc học hỏi của tổ chức.
5) Có mối liên hệ giữa các yếu tố DLM và DCC của liên minh
Chúng tôi tin rằng các yếu tố DLM tốt sẽ định hướng dẫn sự phát triển của DCC một
cách hiệu quả, cung cấp lời giải thích tốt nhất lý do tại sao các công ty có khả năng và lợi
thế độc đáo, và khả năng để năng động đổi mới năng lực tạo ra giá trị. Bởi vì việc tổ chức
một liên minh rất năng động và phức tạp, một sự hiểu biết tốt hơn của những yếu tố nào
giúp thúc đẩy năng lực động là cần thiết. Vì vậy, chúng tôi đã kiểm tra các yếu tố thúc
đẩy DLM. Chúng tôi đã xây dựng một mô hình lý thuyết bao gồm các bước cơ bản cần
thiết để chuyển từ mục đích học tập đến định hướng học tập, và từ định hướng học tập
đến DCC.
2.2. Các giả thuyết lý thuyết
P1: Mục đích học tập ảnh hưởng tích cực đến các yếu tố của DLM:
P1a – DLM có sự tích hợp sức mạnh của các nhà quản lý sẽ ảnh hưởng tích cực đến
DCC.
Eisenhardt và Martin (2000) thừa nhận rằng nếu các nhà quản lý có năng lực tích hợp, họ
sẽ dễ dàng tiếp thu, củng cố và mở rộng các kỹ năng tổ chức, giúp tổ chức bước vào giai
đoạn phát triển khả năng đổi mới và do đó thúc đẩy DCC. Đáng chú ý là, Clark và