NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI
2ï
TÌM HIẾU N@ÔN NGỮ CHỌI
TRÂU ĐỒ SƠN - HAI PHÒNG
NGUYÊN ĐỨC THUẬN?)
1. Dù ai buôn đâu ban đâu
Mùng chín thúng tám chọi trâu thì uề
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng chín tháng tám thì uề chọi trâu.
Theo lời của những câu ca dao ấy,
hàng năm vào ngày mùng 9 tháng 8 (Âm
lịch) khách
huyện thành phố Hải Phòng, từ các tỉnh
lân cận như Hà Nội, Thái Bình, Nam
Định. Hai Dương, đến các tỉnh xa xôi như
Lạng Sơn, Nghệ An... và mấy năm gần
đây còn có rất nhiều du khách nước ngoài
muôn nơi của các quận,
cùng đổ về thị xã Đồ Sơn để dự lễ hội chọi
trâu. Mọi người sẽ được chứng kiến và
sông trong cái không khí hùng tráng, dữ
dội, mạnh mẽ và thượng võ ở một vùng
đất trước biển, sóng to, gió cả này.
Theo ông Hoàng Gia Khoá, một người
có hiểu biết khá sâu sắc về lễ hội chọi
trâu ở Đồ Sơn, thì bốn dòng ca dao trên
được dịch ra từ bốn câu thơ cổ sau đây,
đã được lưu truyền lâu đời ở vùng này:
Hà nhân thương cổ giao lưu
Bát nguyệt sơ cứu đấu ngưu nãi hoàn
Kinh doanh thuy bộ bách ban
Y tư nhát nguyệt nai hoàn đấu ngưu
II E] Ei E3 Ø3
X PIII PA lài BÃ by] Eã
tra BH li bil E4 Š4 lá]Eã
°) Thạc sĩ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hải Phòng.
Tuy nhiên, cũng có thể nghĩ rằng bốn
dòng lục bát chữ Hán này mới là bản dịch
từ bài ca đao quen thuộc kia.
Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ? Theo
các vị cao tuổi am hiểu điều này cho biết,
lễ hội chọi trâu có từ thời Lý (thế kỉ X) và
đến thời Nguyễn Hữu Cầu khởi nghĩa
(thế kỉ XIX), cả hình thức và nội dung
của lễ hội chọi trâu đã được nâng cấp và
hoàn thiện hơn nhiều.
Như thế, có nghĩa là lễ hội chọi trâu
của Đồ Sơn ra đời cùng thời với việc lập
thờ Thành hoàng và Đền Nghè, ngay từ
lúc quần thể cư dân ở đây chưa đủ điều
kiện hình thành làng xã, mà chỉ có cư
đân ở các xóm bám sát các chân núi
chuyên cày cấy dưới các vụng và trồng
cây quả, rau màu trên các đổi núi xung
quanh, như xóm Ngọc, xóm Chẽ, xóm
Cầu Vồng... cùng các Vạn của những cư
dân đánh bắt hải sản như: Vạn Lê, Vạn
Bún, Vạn Hương, Vạn Hoa... Sau khi cư
dân đông đúc, nhiều làng xã được hình
thành, người ta vân thờ chung một
.. Như
thế cũng có nghĩa là, Đồ Sơn khác với mọi
nơi ở chỗ: "Trống mọi làng cùng đánh,
Thánh mọi làng cùng thờ". Thời gian này
cách ngày nay độ trên dưới một ngàn
Thành hoàng và chung một lễ hội
năm. Từ đó cho đến nay, nhất là mươi
năm gần đây, lễ hội chọi trâu được tổ
chức quy củ, trở thành một hoạt động văn
hoá độc đáo, hấp dẫn, lôi cuốn du khách
muôn phương trở về dự hội. Do điều kiện
địa lí, khí hậu, nghề nghiệp, nên về bản
chất con người Đồ Sơn có lời nói, hành
động, cử chỉ dứt khoát, mạnh mẽ. Hội
chọi trâu là sự thể hiện, sự mong muốn, ý
chí của con người, được gắn vào từng cặp
sừng, vào sự dũng cảm của mỗi con trâu.
Trong ngày hội này mỗi con trâu bình
thường vì thế đã được goi bằng một danh
xưng trân trọng: "ông trâu”.
NGUYÊN ĐỨC THUẬN
Tuy nhiên. muốn được sống đây đủ
với sự hứng thú của không khí Hội chọi
trâu Đồ Sơn, thiết tưởng cũng nên hiểu
biết ít nhiều về ngôn ngữ mà những
người đân vùng Đồ Sơn (Hải Phòng).
những người chủ của những "ông trâu"
chọi đã sử dụng. Đó là caä một hệ thống
ngôn ngữ rất độc đáo và thú vị, bao gồm
các ngôn ngừ sử dụng trong các công
đoạn: từ khi đi tìm mua trâu, chọn những
"ông trâu" về chọi như thế nào. rồi ngôn
ngữ chọi trâu và cuối cùng là những ngôn
ngữ trong tế lẽ,
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
chỉ xin trình bày ngôn ngữ của hai công
đoạn đầu, phần ngôn ngữ tế lễ xin được
trở lại trong một bài viết khác.
2. Hàng năm, sảu tết Nguyên Đán,
vào địp tháng hai, tháng ba âm lịch các
"giáp" đã cử người đi mua trâu chọi. Đồ
Sơn có nhiều "giáp", mỗi "giáp" có thể
gồm nhiều dòng họ hợp thành. ví dụ Giáp
Đông. Giáp Nam, Giáp Đoài... Trâu cua
"giáp” này chọi với trâu của “giáp” khác.
Mỗi "giáp" cử ra một ông trưởng "giáp" là
người đứng ra lo tổ chức việc tìm mua
trâu chọi. cắt cử người chăm sóc. huấn
luyện cho đến khi đưa các "ông trâu” ra
"sới" đấu. Việc đi tìm mua trâu chọi gọi
là "tầm ngưu" ( ), hay đi "thăm
trâu". Người di "thăm trâu” phải là
những người khoẻ mạnh, "trong sạch",
thật thà, vợ chồng hoà thuận. "Thăm
trâu” là một việc vật va. Có khi phải đì
suốt tháng đến các tỉnh Thái Bình, Nam
Định. Ninh Bình... hoặc lên mãi tận các
tỉnh miễn núi cao. Có người kì công đến
mức ban ngày ngồi xem trâu ăn. tối đến
đứng thức trong đêm để xem trâu ngủ,
ngáy như thế nào để đoán định sức khoẻ
của “ông trâu”. Ai cũng muốn lựa cho
"giáp" của mình một "ông trâu" vừa khoóẻ,
vừa dũng cảm, chịu đòn và có khả năng
đánh gục dối thủ.
Khi đã tìm được "ông trâu” như ý
muốn. người đi "thăm trâu" trỏ về trình
báo tỉ mỉ với cả "giáp" để trưởng "giáp"
quyết định mua "ông trâu” đó về.
2.1. Vậy tiêu chuân một "ông trâu"
chọi tốt, có hi vọng chiến thắng. đem vinh
quang về cho "giáp" phải là như thế nào?
“Nghề chơi cũng lắm công phu”. Theo
kinh nghiệm từ xưa và bằng khả năng
nhận biết tỉnh tế, những người đi "thăm
trâu” sẽ quan sát rất kĩ "ông trâu” từ
hình dáng, da dẻ đến khoang khoáy. dầu,
sừng, mông, chân, đuôi và cho cả đến cơ
"ngà
quan sinh dục của "ông trâu" nữa....
2.1.1. Trước hết là về hình dáng: nhìn
tổng thể, thân hình "ông trâu" phải cân
đối, to, chắc. Da có hai loại: "đa voi" dầy
và mốc tựa như da của voi, và "da đồng",
da bóng màu hung vàng tựa như màu
kim loại đồng. Còn về lông: lông trâu chọi
tốt nhất phải là "lông sâu róm", "lông
móc” màu hồng pha sắc vàng giống như
lông của những con sâu róm. Da và lông
như thế là dấu hiệu của "ông trâu" đó rất
"gan", có khả năng chọi tốt.
2.1.2. Phần đầu của "ông trâu": đây
là phần quan trọng nhất đối với trâu
chọi. Phần tiếp xúc để chiến đấu và chiến
thắng đối phương chủ yếu là ở phần đầu
này. Khi quan sát phần đầu của "ông
trâu”, người "thăm trâu" chú ý nhất là
khoang khoáy ở đầu của "ông trâu". Trâu
"độc khoang" chỉ có một khoang duy nhất
là rất tốt. Khoáy đóng giữa trán là khoáy
"tam tỉnh”, đó là trâu rất "nghịch" và
hiếu thắng. Khoáy ở hai bên đầu gọi là
"khoáy giọt lệ", hay còn gọi là "khoáy
gọng kính”, cũng là trâu có cá tính mạnh
mẽ. Đầu "ông trâu" nếu có 4 khoáy, gọ! là
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
¿9
—=—=
"khoáy tứ trụ", cũng là loại trâu chọi
mạnh mẽ, dũng cảm.
2.1.3. Về tai: tai lá đa là tai giống như
hình cái lá đa, tai như thế ít chọn đối với
trâu chọi. “Tai lá mít" hình dáng giống
như cái lá mít, nhỏ, sát vào cạnh sừng,
được chuộng hơn. Vì trâu chọi có "tai lá
mít" sẽ thính tai. đối phương không thể
đánh bất ngờ được.
2.1.4. Mặt trâu chọi: chọn "trâu mặt
ngựa", trâu "mặt cá ngạo": hình dáng của
mặt trâu giống như mặt ngựa, hoặc giống
như mặt cá ngạo, vừa ngắn, nhỏ tựa như
mặt trâu cái là tốt. Thành ngữ "mặt trâu
cái, đái trâu đực" là như thế.
2.1.5. Về mắt: thích nhất là được "ông
trâu" có "mắt lá le", nghĩa là mắt dài, sâu,
mi dưới dầy và đen. Còn loại "mắt chu
chỉ", hình dáng giống hạt chu chỉ, màu
vừa đen vừa đỏ, loại trâu này chọi gan và
rất dai sức. Loại "mắt quả bàng", u mắt
dây và lôi. Loại "mắt nhồi" (mắt lồi) là hai
con ngươi mắt "nhồi" (lồi) ra , màu đỏ sọc,
đó cũng là trâu chọi "gan” và dũng mãnh.
2.1.6. Hàm và mõm của "ông trâu”:
nếu "hàm son, lợi đỏ”, tức hàm và lợi có
màu đỏ hồng, trâu đễ bắt lúc đánh, chọi
hiền. Tốt nhất là được trâu "hàm chì", là
hàm hơi đen màu chì. Trâu "hàm nghiên”
nghĩa là hàm trâu màu đen kịt như màu
nghiên mực Tàu, loại trâu này chọi hăng,
mạnh mẽ, gan góc, sức bền, nhưng khó
đuổi bắt.
Mõm "ông trâu" phải là "mõm bồ đài",
nghĩa là mõm giống hình quả bồ đài, trâu
hay ăn, có sức vóc để chọi. Thành ngữ
"mõm bồ đài, tai lá mít" được xem là kinh
nghiệm để tìm trâu chọi tốt là vì thết
lâu | Ÿy
chiến đấu của "ông trâu". Ngày xưa, tiêu
Về sừng trâu: đây là vũ khí
chuẩn lí tưởng là "sừng vòng cung", chiều
cao độ "6 tấc" (36 phân), độ vòng từ đầu
sừng này sang đầu sừng kia là "1 thước"
(44 phân), đánh rất tốt và hiểm. Nay
người ta cũng lấy sừng có kích thước như
thế để chọn trâu chọi. Trâu có dáng "sừng
củ ấu", cặp sừng giống hình hai tai của
củ ấu, có hai gai vềnh lên là chọi tốt. Còn
loại "sừng vâu đá" (hay là "mấu đá") là
sừng to, rắn chắc, rất khoẻ, cũng là cặp
sừng tốt. Loại "sừng nứa", hình dáng
thanh mảnh, giống sừng trâu cái, loại
sừng này người ta ít chọn hơn.
2.2.1. Về phần thân trâu, hay còn gọi
là mình của "ông trâu": ở phần bụng, tốt
nhất là được "ông trâu" có "bụng ngựa",
thon, tròn lắn, hoặc trâu "mình trắm",
tròn lắn như mình cá trắm, lúc chọi có
khả năng vận động nhanh, chọi tốt hơn.
Nếu "bụng phè", nghĩa là bụng to "phè"
ngang hai bên, thì vận động chậm, ít
chọn loại trâu này.
2.2.2. Về lưng: tốt nhất là "lưng tôm
bà", tức là giữa lưng có nổi u lên, giống
như hình dáng của con "tôm bà" là trâu
chọi tốt. Còn "lưng yên ngựa” là giữa
lưng hơi lõm xuống, võng xuống như yên
ngựa. Trâu chọi loại này có sức khoẻ tốt.
Còn trâu "lưng thẳng" ngang thì yếu,
người đi "thăm trâu" ít chọn loại này.
2.2.3. Mông trâu: đây cũng là phần
người đi "thăm trâu” đặc biệt quan tâm.
Được "ông trâu" có "mông đít nhót" thì tốt
lắm! Loại mông này gắn với thành ngữ
của người "thăm trâu" là "cổ cò, đít nhót",
nghĩa là cổ thon dài như cổ con cò, còn
mông đít giống hình quả nhót, thon và
gọn. Trâu có mông loại này rất nhanh
nhẹn, tiến lùi gọn gàng (mà lúc "chiến
đấu" đòi hỏi phải rất nhanh mới thắng
được đối phương).
30
NGUYÊN ĐỨC THUẬN
Z====——————— TT ——ỄỄ—— _————
Ngược với "mông đít nhót” là "mông
đít vai", găn với thành ngữ "chân tượng,
đít vại", nghĩa là chân to như chân voi,
mông đít to như cái vại, thì chậm chạp,
nặng nề, ngươi ta ít chọn loại trâu này.
2.9.4. Đuôi trâu: Tưởng đuôi trâu thì
có phải chú ý quan sát làm gì! Thế
nhưng. đổi với trâu chọi thì người "thăm
trâu” cũng lại không thê bỏ qua. Có các
loại đuôi trâu như sau:
- "Đuôi trai": đuôi giống hình con cá
trai ở biển, nghĩa là phần cuối lông đuôi
thon gọn, giống hình con cá trai.
- "Đuôi sam”: giống hình đuôi con
sam ở biên, loại đuôi này ngăn, cộc.
- "Đuôi bông lau": Nghĩa là lông đuôi
của “ông trâu” xoè ra như cây bông lau.
- "Đuôi hàm rắn": Đuôi chẻ ra như
hai hàm rắn. Trâu này hay phản chủ, chó
nên sở vào đuôi của trâu, để bị trâu quay
lại húc. Tuy nhiên, lúc đấu chọi lại rất
hăng.
Trong những loại đuôi trên, tốt nhất
văn là loại "đuôi trai".
3.3. Phần dưới của "ông trâu" chọi.
bao gồm chân và cơ quan sinh dục ("eu"
của "ông trâu”):
2.3.1. Trước hết nói về "eu": Trâu chọi
phần nhiều là trâu đực, nên người "thăm
trâu” phải "ngắm" kĩ bộ phận này. Dân
"thăm trâu” sành sói không quên được
thành ngữ "thâm cu, chéo đái” của "ông
trâu”. Nghĩa là đâu "cu" của "ông trâu"
". "eũ" Hếnm với
rốn. Còn "chéo đái" nghĩa là "dái" của
"ông trâu" phải chéo xoắn vào nhau.
Được “ông trâu” có cơ quan sinh dục như
phai thâm đen, nhỏ "cu
thê thì rất gan góc và đánh rất hăng! Còn
nếu không, chọn trâu "dái mướp", nhỏ,
thuôn dài như hình quả mướp cũng được.
Tránh nhất là chọn trâu "đái một cà", tức
chỉ có một "hột cà” ở dái. Trâu này khi
đảnh hay cao hứng, lúc mạnh, lúc không,
rất dễ thua! Từ khi mua về cho đến khi
ra "sới chọi", các "ông trâu” bị nghiềm
cấm chặt chẽ, không được "đi” với trâu
cái một lần nào!
2.3.9. Về chân: Dân "thăm trâu" ở Đồ
Sơn cũng đã đúc kết phần chân của "ông
trâu" băng một thành ngữ là "trường đùi,
ngắn quản, nhỏ khoeo, kín móng", nghĩa
là đùi dài, còn "quản" là phần từ khoeo
đầu gối xuống đến bàn chân trâu phải
ngắn. "Quản" trâu phải tròn, thon, ngắn
thì vững và đánh khoẻ.
"khoeo" chân trâu (phần khớp giữa đùi và
nhanh, Còn
"quan”) phải nhỏ, không bạnh to ra
là tốt.
2.3.3. Nói riêng về móng chân trâu: 4
móng của chân trâu màu phải hung đen,
giữa các móng trên cùng một bàn chân
phải kín khít và tròn như cái bát úp, để
khi chọi "ông trâu" bấm chắc xuống dất,
rất vững chãi, không bị đối phương làm
cho trượt chân.
Có thể nói, việc "thăm trâu", chọn
trâu chọi đã là một việc làm rất công phu
rồi! Ngôn ngữ dùng để "thăm trâu", chọn
trâu chọi kể cũng đã là phong phú và
sinh động!
3. Ngôn ngữ sử dụng khi đưa trâu
vào cuộc chọi, cũng là cä một hệ thống
ngôn từ rất riêng và thú vị. Hiểu được
phần nào cách nói của người Đồ Sơn, của
các "giáp" chọi yếu là các
phường, xã), thì người xem thấy thích
thú thêm lên nhiều!
(nay chủ
3.1. Trước hết là "sới" chọi: "Sới chọi"
được hiểu là bãi để chọi. nhưng với nghĩa
là một bãi đất rộng. được chuẩn bị chu
đáo bởi hàng rào vây quanh, có lối dắt các
"ông trâu" vào, rồi lối thoát khi các "ông
trâu" đấu chọi kết thúc, phân định thắng
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
ỏ]
—==—-- CC EEE CC
thua, có khán đài cho những người xem
và những người tổ chức.
3.3. Trước khi diễn ra cuộc chọi trâu,
các "giáp" tổ chức một cuộc "đấu kì", với
nghĩa là "đánh cờ". Cụ thể giữa âm thanh
náo động, đồn đập của chiêng, trống. một
đội thanh niên nam nữ khoẻ mạnh, gầm
94 người. áo vàng (hoặc đỏ), thất lưng đỏ
(hoặc vàng), chít khăn, cầm cờ (kì) ra
"đấu". "Đấu" chứ không phải là "múa"
cho đẹp mắt. Có bài "đấu" hẳn hoi, với
những động tác mạnh mẽ, nhanh, đẹp
mắt, tạo một không khí hùng tráng, hào
hứng ngav từ những giây phút đầu tiên
của cuộc chọi trâu sắp diễn ra.
3.3. Sau màn "đâu kì", "già làng" gọi
loa báo cho các cặp đấu của các "giáp"
(phường. xã) đã chọi thắng trước đó ở
vòng loại, chuân bị đưa "ông trâu” vào
"sới chọi". Ngôn ngữ của công đoạn này
gọi là "dịch loa”.
Khi phần "dịch loa" đã báo xong từng
cặp đấu, người "quản trâu" đất hai "ông
trâu" vào thực hiện cuộc đấu, gọi là
"kháp chọi" (hoặc "khớp chọi"). Chủ của
trâu chọi là người "trưởng giáp". Ngươi
chăn đắt trâu, chăm sóc trâu từ khi mua
về cho đến khi vào cuộc đấu, gọi là người
"quản trâu”.
Khi được lệnh của trọng tài, người
"quản trâu" rút đây mũi của trâu, trận
dấu bắt đầu.
3.1. Khi cuộc chọi diễn ra là lúc người
xem cảm thấy hồi hộp đến nghẹt thỏ. Hai
"ông trâu” vào "sới chọi" mà còn đứng
nhìn nhau, đó là lúc hai "ông trâu” đang
"nghé nhau" (“nghênh nhau") để tìm hiểu
đối phương, tìm miếng đánh thích hợp.
Rồi bông thình lình. hai "ông trâu” lao
thăng vào nhau, đối đầu một cách dũng
mãnh. hành động quyết liệt đó người ta
gọi là thế đánh "hổ lao". Miếng đánh này
là "miếng dập”, rất ngoạn mục, mạnh mẽ.
Lực "đập" mạnh đến mức có thể có trâu
bị ngã gục và chết ngay trên "sới chọi”.
Lối đánh này là lối đánh tấn công.
3.5. Còn có những miếng đánh ngoạn
mục khác nữa, như :
s3. Ì,
đánh dùng sừng nhọn húc mạnh vào cô
họng đối phương. Miếng này cũng rất
dũng mãnh. Những trâu "cao vòng tha
ức" hav đánh miếng này.
Miếng "cán hầu": là miếng
ếẾ
3.5.2. Miếng "cán mắt": là miếng
đánh dùng sừng nhằm vào mắt dối
phương để húc mạnh, móc mát, làm đối
phương loạng choạng để tấn công liên
tiếp. Đây cũng gọi là miếng "cạnh sừng
mí mắt", miếng này rất hiểm!
3.5.3. Miếng "ghìm sừng”: Hai sừng
ngoäc chặt, khoá chặt vào nhau. Nếu đầu
hai "ông trâu” ghìm xuống sát đât, gọi là
miếng "đấu đầu dưới", hoặc miếng "cán
dưới". Cũng có lúc hai "ông trâu” đâu,
húc hời hợt ở phần đầu trên, chưa tô ra
quyết liệt, gọi là miếng "cán trên".
3.5.4. Miếng "cán ngang" là miếng
đánh vào vai, vào cố của đối phương.
"Ông trâu” nào “cao mông rộng háng”
thường hay đánh miếng "cán ngang".
3.5.5. Miếng "cán chân" là miếng
đánh dùng sức mạnh của đầu, của sừng
húc vào chân để đối phương phải quy
xuống, còn gọi là miếng "cán bắp chân".
3.5.6. Khi hai "ông trâu" lừa miếng
nhau, chưa tìm được sơ hở để ra đòn
quyết định, thường dùng miếng "dập
vặt", hoặc miếng "cắt luống cày".
3.5.7. Hai "ông trâu" đang đấu chọi
quyết liệt nhưng không thắng được
nhau, tự gỡ đầu ra để tìm cách đánh
khác, miếng đánh khác, gọi là "tháo cán”,
"tháo miếng"...
39 NGUYÊN ĐỨC THUẬN
4.1. Thông thường, một cặp đấu diễn
ra trong khoảng từ 5 phút đến 20, hoặc
30 phút. Trâu thắng cuộc là trâu làm cho
trâu đối phương bỏ chạy trước trong sân
bãi một vòng, hoặc bỏ chạy ra khỏi "Sới
đấu”.
Khi trọng tài công bố trâu nào thắng,
trâu nào thua thì người "quản trâu” mới
được bắt lại trâu của mình. "Giáp"
(phường, xã) có trâu thắng, đắt "ông
trâu" của mình trở lại lễ đài trong tiếng
hò reo, võ tay, tiếng trống, tiếng chiêng
ran lên như sấm đậy, mừng thắng lợi.
4.2. Tìm hiểu những ngôn từ mà
người Đồ Sơn (Hải Phòng) sử dụng trong
quá trình "thăm trâu”, chọn trâu chọi cho
đến ngôn từ sử dụng trong lễ hội chọi
trâu như trên, chúng ta có thể thấy
những từ, ngữ để định danh phần nhiều
gắn với nghề đi biển, nghề đánh cá (ngư
nghiệp). Ví dụ: "lưng tôm bà", "đuôi sam",
"đuôi trai"... Một phần từ định danh nữa
được tạo ra từ nguồn gốc sản xuất nông
nghiệp. trồng trọt. Ví dụ như: "tai lá
mít", "mắt chu chỉ", "cắt luống cày"... Một
số ít từ được tạo ra từ nguồn gốc từ Hán -
Việt như thường thấy ở vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Đặc biệt, có những từ thuộc từ
loại động từ để diễn đạt các miếng đánh
của trâu chọi, bắt nguồn từ những hoạt
động mạnh mẽ, dũng cảm của những
người dân miền biển, như: "cán", "lao",
"đập", "ghìm"...
Có thể nói, ngôn ngữ chọi trâu vùng
Đồ Sơn (Hải Phòng) đã thêm vào vốn từ
nghề nghiệp, ngôn ngữ văn hoá một số
lượng từ rât phong phú, độc đáo và thú
vị. Chắc chắn rằng, sự tìm hiểu của
chúng tôi trong bài viết này mới chỉ là sự
mở đầu.Ø
hị,Hm.T