NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI



TÌM HIẾU N@ÔN NGỮ CHỌI TRÂU ĐỒ SƠN - HAI PHÒNG
NGUYÊN ĐỨC THUẬN?)
1. Dù ai buôn đâu ban đâu Mùng chín thúng tám chọi trâu thì uề Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng chín tháng tám thì uề chọi trâu.
Theo lời của những câu ca dao ấy, hàng năm vào ngày mùng 9 tháng 8 (Âm lịch) khách huyện thành phố Hải Phòng, từ các tỉnh lân cận như Hà Nội, Thái Bình, Nam Định. Hai Dương, đến các tỉnh xa xôi như Lạng Sơn, Nghệ An... và mấy năm gần đây còn có rất nhiều du khách nước ngoài
muôn nơi của các quận,
cùng đổ về thị xã Đồ Sơn để dự lễ hội chọi trâu. Mọi người sẽ được chứng kiến và sông trong cái không khí hùng tráng, dữ dội, mạnh mẽ và thượng võ ở một vùng đất trước biển, sóng to, gió cả này.
Theo ông Hoàng Gia Khoá, một người có hiểu biết khá sâu sắc về lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, thì bốn dòng ca dao trên được dịch ra từ bốn câu thơ cổ sau đây, đã được lưu truyền lâu đời ở vùng này:
Hà nhân thương cổ giao lưu
Bát nguyệt sơ cứu đấu ngưu nãi hoàn Kinh doanh thuy bộ bách ban
Y tư nhát nguyệt nai hoàn đấu ngưu
II E] Ei E3 Ø3 X PIII PA lài BÃ by] Eã tra BH li bil E4 Š4 lá]Eã
°) Thạc sĩ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hải Phòng.


Tuy nhiên, cũng có thể nghĩ rằng bốn dòng lục bát chữ Hán này mới là bản dịch từ bài ca đao quen thuộc kia.
Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ? Theo các vị cao tuổi am hiểu điều này cho biết, lễ hội chọi trâu có từ thời Lý (thế kỉ X) và đến thời Nguyễn Hữu Cầu khởi nghĩa (thế kỉ XIX), cả hình thức và nội dung của lễ hội chọi trâu đã được nâng cấp và hoàn thiện hơn nhiều.
Như thế, có nghĩa là lễ hội chọi trâu của Đồ Sơn ra đời cùng thời với việc lập thờ Thành hoàng và Đền Nghè, ngay từ lúc quần thể cư dân ở đây chưa đủ điều kiện hình thành làng xã, mà chỉ có cư đân ở các xóm bám sát các chân núi chuyên cày cấy dưới các vụng và trồng cây quả, rau màu trên các đổi núi xung quanh, như xóm Ngọc, xóm Chẽ, xóm Cầu Vồng... cùng các Vạn của những cư dân đánh bắt hải sản như: Vạn Lê, Vạn Bún, Vạn Hương, Vạn Hoa... Sau khi cư dân đông đúc, nhiều làng xã được hình thành, người ta vân thờ chung một .. Như thế cũng có nghĩa là, Đồ Sơn khác với mọi nơi ở chỗ: "Trống mọi làng cùng đánh, Thánh mọi làng cùng thờ". Thời gian này cách ngày nay độ trên dưới một ngàn
Thành hoàng và chung một lễ hội
năm. Từ đó cho đến nay, nhất là mươi năm gần đây, lễ hội chọi trâu được tổ chức quy củ, trở thành một hoạt động văn hoá độc đáo, hấp dẫn, lôi cuốn du khách muôn phương trở về dự hội. Do điều kiện địa lí, khí hậu, nghề nghiệp, nên về bản chất con người Đồ Sơn có lời nói, hành động, cử chỉ dứt khoát, mạnh mẽ. Hội chọi trâu là sự thể hiện, sự mong muốn, ý chí của con người, được gắn vào từng cặp sừng, vào sự dũng cảm của mỗi con trâu. Trong ngày hội này mỗi con trâu bình thường vì thế đã được goi bằng một danh xưng trân trọng: "ông trâu”. NGUYÊN ĐỨC THUẬN

Tuy nhiên. muốn được sống đây đủ với sự hứng thú của không khí Hội chọi trâu Đồ Sơn, thiết tưởng cũng nên hiểu biết ít nhiều về ngôn ngữ mà những người đân vùng Đồ Sơn (Hải Phòng). những người chủ của những "ông trâu" chọi đã sử dụng. Đó là caä một hệ thống ngôn ngữ rất độc đáo và thú vị, bao gồm các ngôn ngừ sử dụng trong các công đoạn: từ khi đi tìm mua trâu, chọn những "ông trâu" về chọi như thế nào. rồi ngôn ngữ chọi trâu và cuối cùng là những ngôn ngữ trong tế lẽ,
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin trình bày ngôn ngữ của hai công đoạn đầu, phần ngôn ngữ tế lễ xin được trở lại trong một bài viết khác.
2. Hàng năm, sảu tết Nguyên Đán, vào địp tháng hai, tháng ba âm lịch các "giáp" đã cử người đi mua trâu chọi. Đồ Sơn có nhiều "giáp", mỗi "giáp" có thể gồm nhiều dòng họ hợp thành. ví dụ Giáp Đông. Giáp Nam, Giáp Đoài... Trâu cua "giáp” này chọi với trâu của “giáp” khác. Mỗi "giáp" cử ra một ông trưởng "giáp" là người đứng ra lo tổ chức việc tìm mua trâu chọi. cắt cử người chăm sóc. huấn luyện cho đến khi đưa các "ông trâu” ra "sới" đấu. Việc đi tìm mua trâu chọi gọi là "tầm ngưu" ( ), hay đi "thăm trâu". Người di "thăm trâu” phải là những người khoẻ mạnh, "trong sạch", thật thà, vợ chồng hoà thuận. "Thăm trâu” là một việc vật va. Có khi phải đì suốt tháng đến các tỉnh Thái Bình, Nam Định. Ninh Bình... hoặc lên mãi tận các tỉnh miễn núi cao. Có người kì công đến mức ban ngày ngồi xem trâu ăn. tối đến đứng thức trong đêm để xem trâu ngủ, ngáy như thế nào để đoán định sức khoẻ của “ông trâu”. Ai cũng muốn lựa cho "giáp" của mình một "ông trâu" vừa khoóẻ,
vừa dũng cảm, chịu đòn và có khả năng đánh gục dối thủ.
Khi đã tìm được "ông trâu” như ý muốn. người đi "thăm trâu" trỏ về trình báo tỉ mỉ với cả "giáp" để trưởng "giáp" quyết định mua "ông trâu” đó về.
2.1. Vậy tiêu chuân một "ông trâu" chọi tốt, có hi vọng chiến thắng. đem vinh quang về cho "giáp" phải là như thế nào?
“Nghề chơi cũng lắm công phu”. Theo kinh nghiệm từ xưa và bằng khả năng nhận biết tỉnh tế, những người đi "thăm trâu” sẽ quan sát rất kĩ "ông trâu” từ hình dáng, da dẻ đến khoang khoáy. dầu, sừng, mông, chân, đuôi và cho cả đến cơ
"ngà
quan sinh dục của "ông trâu" nữa....
2.1.1. Trước hết là về hình dáng: nhìn tổng thể, thân hình "ông trâu" phải cân đối, to, chắc. Da có hai loại: "đa voi" dầy và mốc tựa như da của voi, và "da đồng", da bóng màu hung vàng tựa như màu kim loại đồng. Còn về lông: lông trâu chọi tốt nhất phải là "lông sâu róm", "lông móc” màu hồng pha sắc vàng giống như lông của những con sâu róm. Da và lông như thế là dấu hiệu của "ông trâu" đó rất "gan", có khả năng chọi tốt.
2.1.2. Phần đầu của "ông trâu": đây là phần quan trọng nhất đối với trâu chọi. Phần tiếp xúc để chiến đấu và chiến thắng đối phương chủ yếu là ở phần đầu này. Khi quan sát phần đầu của "ông trâu”, người "thăm trâu" chú ý nhất là khoang khoáy ở đầu của "ông trâu". Trâu "độc khoang" chỉ có một khoang duy nhất là rất tốt. Khoáy đóng giữa trán là khoáy "tam tỉnh”, đó là trâu rất "nghịch" và hiếu thắng. Khoáy ở hai bên đầu gọi là "khoáy giọt lệ", hay còn gọi là "khoáy gọng kính”, cũng là trâu có cá tính mạnh mẽ. Đầu "ông trâu" nếu có 4 khoáy, gọ! là NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
¿9
—=—=
"khoáy tứ trụ", cũng là loại trâu chọi mạnh mẽ, dũng cảm.
2.1.3. Về tai: tai lá đa là tai giống như hình cái lá đa, tai như thế ít chọn đối với trâu chọi. “Tai lá mít" hình dáng giống như cái lá mít, nhỏ, sát vào cạnh sừng, được chuộng hơn. Vì trâu chọi có "tai lá mít" sẽ thính tai. đối phương không thể đánh bất ngờ được.
2.1.4. Mặt trâu chọi: chọn "trâu mặt ngựa", trâu "mặt cá ngạo": hình dáng của mặt trâu giống như mặt ngựa, hoặc giống như mặt cá ngạo, vừa ngắn, nhỏ tựa như mặt trâu cái là tốt. Thành ngữ "mặt trâu cái, đái trâu đực" là như thế.
2.1.5. Về mắt: thích nhất là được "ông trâu" có "mắt lá le", nghĩa là mắt dài, sâu, mi dưới dầy và đen. Còn loại "mắt chu chỉ", hình dáng giống hạt chu chỉ, màu vừa đen vừa đỏ, loại trâu này chọi gan và rất dai sức. Loại "mắt quả bàng", u mắt dây và lôi. Loại "mắt nhồi" (mắt lồi) là hai con ngươi mắt "nhồi" (lồi) ra , màu đỏ sọc, đó cũng là trâu chọi "gan” và dũng mãnh.
2.1.6. Hàm và mõm của "ông trâu”: nếu "hàm son, lợi đỏ”, tức hàm và lợi có màu đỏ hồng, trâu đễ bắt lúc đánh, chọi hiền. Tốt nhất là được trâu "hàm chì", là hàm hơi đen màu chì. Trâu "hàm nghiên” nghĩa là hàm trâu màu đen kịt như màu nghiên mực Tàu, loại trâu này chọi hăng, mạnh mẽ, gan góc, sức bền, nhưng khó đuổi bắt.
Mõm "ông trâu" phải là "mõm bồ đài", nghĩa là mõm giống hình quả bồ đài, trâu hay ăn, có sức vóc để chọi. Thành ngữ "mõm bồ đài, tai lá mít" được xem là kinh nghiệm để tìm trâu chọi tốt là vì thết
lâu | Ÿy
chiến đấu của "ông trâu". Ngày xưa, tiêu
Về sừng trâu: đây là vũ khí
chuẩn lí tưởng là "sừng vòng cung", chiều cao độ "6 tấc" (36 phân), độ vòng từ đầu sừng này sang đầu sừng kia là "1 thước" (44 phân), đánh rất tốt và hiểm. Nay người ta cũng lấy sừng có kích thước như thế để chọn trâu chọi. Trâu có dáng "sừng củ ấu", cặp sừng giống hình hai tai của củ ấu, có hai gai vềnh lên là chọi tốt. Còn loại "sừng vâu đá" (hay là "mấu đá") là sừng to, rắn chắc, rất khoẻ, cũng là cặp sừng tốt. Loại "sừng nứa", hình dáng thanh mảnh, giống sừng trâu cái, loại sừng này người ta ít chọn hơn.
2.2.1. Về phần thân trâu, hay còn gọi là mình của "ông trâu": ở phần bụng, tốt nhất là được "ông trâu" có "bụng ngựa", thon, tròn lắn, hoặc trâu "mình trắm", tròn lắn như mình cá trắm, lúc chọi có khả năng vận động nhanh, chọi tốt hơn. Nếu "bụng phè", nghĩa là bụng to "phè" ngang hai bên, thì vận động chậm, ít chọn loại trâu này.
2.2.2. Về lưng: tốt nhất là "lưng tôm bà", tức là giữa lưng có nổi u lên, giống như hình dáng của con "tôm bà" là trâu chọi tốt. Còn "lưng yên ngựa” là giữa lưng hơi lõm xuống, võng xuống như yên ngựa. Trâu chọi loại này có sức khoẻ tốt. Còn trâu "lưng thẳng" ngang thì yếu, người đi "thăm trâu" ít chọn loại này.
2.2.3. Mông trâu: đây cũng là phần người đi "thăm trâu” đặc biệt quan tâm. Được "ông trâu" có "mông đít nhót" thì tốt lắm! Loại mông này gắn với thành ngữ của người "thăm trâu" là "cổ cò, đít nhót", nghĩa là cổ thon dài như cổ con cò, còn mông đít giống hình quả nhót, thon và gọn. Trâu có mông loại này rất nhanh nhẹn, tiến lùi gọn gàng (mà lúc "chiến đấu" đòi hỏi phải rất nhanh mới thắng được đối phương). 30
NGUYÊN ĐỨC THUẬN
Z====——————— TT ——ỄỄ—— _————
Ngược với "mông đít nhót” là "mông đít vai", găn với thành ngữ "chân tượng, đít vại", nghĩa là chân to như chân voi, mông đít to như cái vại, thì chậm chạp,
nặng nề, ngươi ta ít chọn loại trâu này.
2.9.4. Đuôi trâu: Tưởng đuôi trâu thì có phải chú ý quan sát làm gì! Thế nhưng. đổi với trâu chọi thì người "thăm trâu” cũng lại không thê bỏ qua. Có các loại đuôi trâu như sau:
- "Đuôi trai": đuôi giống hình con cá trai ở biển, nghĩa là phần cuối lông đuôi thon gọn, giống hình con cá trai.
- "Đuôi sam”: giống hình đuôi con sam ở biên, loại đuôi này ngăn, cộc.
- "Đuôi bông lau": Nghĩa là lông đuôi của “ông trâu” xoè ra như cây bông lau.
- "Đuôi hàm rắn": Đuôi chẻ ra như hai hàm rắn. Trâu này hay phản chủ, chó nên sở vào đuôi của trâu, để bị trâu quay lại húc. Tuy nhiên, lúc đấu chọi lại rất hăng.
Trong những loại đuôi trên, tốt nhất văn là loại "đuôi trai".
3.3. Phần dưới của "ông trâu" chọi. bao gồm chân và cơ quan sinh dục ("eu" của "ông trâu”):
2.3.1. Trước hết nói về "eu": Trâu chọi phần nhiều là trâu đực, nên người "thăm trâu” phải "ngắm" kĩ bộ phận này. Dân "thăm trâu” sành sói không quên được thành ngữ "thâm cu, chéo đái” của "ông trâu”. Nghĩa là đâu "cu" của "ông trâu" ". "eũ" Hếnm với rốn. Còn "chéo đái" nghĩa là "dái" của "ông trâu" phải chéo xoắn vào nhau. Được “ông trâu” có cơ quan sinh dục như
phai thâm đen, nhỏ "cu
thê thì rất gan góc và đánh rất hăng! Còn nếu không, chọn trâu "dái mướp", nhỏ, thuôn dài như hình quả mướp cũng được. Tránh nhất là chọn trâu "đái một cà", tức
chỉ có một "hột cà” ở dái. Trâu này khi đảnh hay cao hứng, lúc mạnh, lúc không, rất dễ thua! Từ khi mua về cho đến khi ra "sới chọi", các "ông trâu” bị nghiềm cấm chặt chẽ, không được "đi” với trâu cái một lần nào!
2.3.9. Về chân: Dân "thăm trâu" ở Đồ Sơn cũng đã đúc kết phần chân của "ông trâu" băng một thành ngữ là "trường đùi, ngắn quản, nhỏ khoeo, kín móng", nghĩa là đùi dài, còn "quản" là phần từ khoeo đầu gối xuống đến bàn chân trâu phải ngắn. "Quản" trâu phải tròn, thon, ngắn thì vững và đánh khoẻ. "khoeo" chân trâu (phần khớp giữa đùi và
nhanh, Còn "quan”) phải nhỏ, không bạnh to ra là tốt.
2.3.3. Nói riêng về móng chân trâu: 4 móng của chân trâu màu phải hung đen, giữa các móng trên cùng một bàn chân phải kín khít và tròn như cái bát úp, để khi chọi "ông trâu" bấm chắc xuống dất, rất vững chãi, không bị đối phương làm cho trượt chân.
Có thể nói, việc "thăm trâu", chọn trâu chọi đã là một việc làm rất công phu rồi! Ngôn ngữ dùng để "thăm trâu", chọn trâu chọi kể cũng đã là phong phú và sinh động!
3. Ngôn ngữ sử dụng khi đưa trâu vào cuộc chọi, cũng là cä một hệ thống ngôn từ rất riêng và thú vị. Hiểu được phần nào cách nói của người Đồ Sơn, của các "giáp" chọi yếu là các phường, xã), thì người xem thấy thích thú thêm lên nhiều!
(nay chủ
3.1. Trước hết là "sới" chọi: "Sới chọi" được hiểu là bãi để chọi. nhưng với nghĩa là một bãi đất rộng. được chuẩn bị chu đáo bởi hàng rào vây quanh, có lối dắt các "ông trâu" vào, rồi lối thoát khi các "ông trâu" đấu chọi kết thúc, phân định thắng NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
ỏ]
—==—-- CC EEE CC
thua, có khán đài cho những người xem và những người tổ chức.
3.3. Trước khi diễn ra cuộc chọi trâu, các "giáp" tổ chức một cuộc "đấu kì", với nghĩa là "đánh cờ". Cụ thể giữa âm thanh náo động, đồn đập của chiêng, trống. một đội thanh niên nam nữ khoẻ mạnh, gầm 94 người. áo vàng (hoặc đỏ), thất lưng đỏ (hoặc vàng), chít khăn, cầm cờ (kì) ra "đấu". "Đấu" chứ không phải là "múa" cho đẹp mắt. Có bài "đấu" hẳn hoi, với những động tác mạnh mẽ, nhanh, đẹp mắt, tạo một không khí hùng tráng, hào hứng ngav từ những giây phút đầu tiên của cuộc chọi trâu sắp diễn ra.
3.3. Sau màn "đâu kì", "già làng" gọi loa báo cho các cặp đấu của các "giáp" (phường. xã) đã chọi thắng trước đó ở vòng loại, chuân bị đưa "ông trâu” vào "sới chọi". Ngôn ngữ của công đoạn này gọi là "dịch loa”.
Khi phần "dịch loa" đã báo xong từng cặp đấu, người "quản trâu" đất hai "ông trâu" vào thực hiện cuộc đấu, gọi là "kháp chọi" (hoặc "khớp chọi"). Chủ của trâu chọi là người "trưởng giáp". Ngươi chăn đắt trâu, chăm sóc trâu từ khi mua về cho đến khi vào cuộc đấu, gọi là người "quản trâu”.
Khi được lệnh của trọng tài, người "quản trâu" rút đây mũi của trâu, trận dấu bắt đầu.
3.1. Khi cuộc chọi diễn ra là lúc người xem cảm thấy hồi hộp đến nghẹt thỏ. Hai "ông trâu” vào "sới chọi" mà còn đứng nhìn nhau, đó là lúc hai "ông trâu” đang "nghé nhau" (“nghênh nhau") để tìm hiểu đối phương, tìm miếng đánh thích hợp. Rồi bông thình lình. hai "ông trâu” lao thăng vào nhau, đối đầu một cách dũng mãnh. hành động quyết liệt đó người ta gọi là thế đánh "hổ lao". Miếng đánh này là "miếng dập”, rất ngoạn mục, mạnh mẽ.
Lực "đập" mạnh đến mức có thể có trâu bị ngã gục và chết ngay trên "sới chọi”. Lối đánh này là lối đánh tấn công.
3.5. Còn có những miếng đánh ngoạn mục khác nữa, như :
s3. Ì, đánh dùng sừng nhọn húc mạnh vào cô họng đối phương. Miếng này cũng rất dũng mãnh. Những trâu "cao vòng tha ức" hav đánh miếng này.
Miếng "cán hầu": là miếng
ếẾ
3.5.2. Miếng "cán mắt": là miếng
đánh dùng sừng nhằm vào mắt dối phương để húc mạnh, móc mát, làm đối phương loạng choạng để tấn công liên tiếp. Đây cũng gọi là miếng "cạnh sừng mí mắt", miếng này rất hiểm!
3.5.3. Miếng "ghìm sừng”: Hai sừng ngoäc chặt, khoá chặt vào nhau. Nếu đầu hai "ông trâu” ghìm xuống sát đât, gọi là miếng "đấu đầu dưới", hoặc miếng "cán dưới". Cũng có lúc hai "ông trâu” đâu,
húc hời hợt ở phần đầu trên, chưa tô ra quyết liệt, gọi là miếng "cán trên".
3.5.4. Miếng "cán ngang" là miếng đánh vào vai, vào cố của đối phương. "Ông trâu” nào “cao mông rộng háng” thường hay đánh miếng "cán ngang".
3.5.5. Miếng "cán chân" là miếng đánh dùng sức mạnh của đầu, của sừng húc vào chân để đối phương phải quy xuống, còn gọi là miếng "cán bắp chân".
3.5.6. Khi hai "ông trâu" lừa miếng nhau, chưa tìm được sơ hở để ra đòn quyết định, thường dùng miếng "dập vặt", hoặc miếng "cắt luống cày".
3.5.7. Hai "ông trâu" đang đấu chọi quyết liệt nhưng không thắng được nhau, tự gỡ đầu ra để tìm cách đánh khác, miếng đánh khác, gọi là "tháo cán”, "tháo miếng"... 39 NGUYÊN ĐỨC THUẬN


4.1. Thông thường, một cặp đấu diễn ra trong khoảng từ 5 phút đến 20, hoặc 30 phút. Trâu thắng cuộc là trâu làm cho trâu đối phương bỏ chạy trước trong sân bãi một vòng, hoặc bỏ chạy ra khỏi "Sới đấu”.
Khi trọng tài công bố trâu nào thắng, trâu nào thua thì người "quản trâu” mới được bắt lại trâu của mình. "Giáp" (phường, xã) có trâu thắng, đắt "ông trâu" của mình trở lại lễ đài trong tiếng hò reo, võ tay, tiếng trống, tiếng chiêng ran lên như sấm đậy, mừng thắng lợi.
4.2. Tìm hiểu những ngôn từ mà người Đồ Sơn (Hải Phòng) sử dụng trong quá trình "thăm trâu”, chọn trâu chọi cho đến ngôn từ sử dụng trong lễ hội chọi trâu như trên, chúng ta có thể thấy những từ, ngữ để định danh phần nhiều gắn với nghề đi biển, nghề đánh cá (ngư nghiệp). Ví dụ: "lưng tôm bà", "đuôi sam", "đuôi trai"... Một phần từ định danh nữa được tạo ra từ nguồn gốc sản xuất nông nghiệp. trồng trọt. Ví dụ như: "tai lá mít", "mắt chu chỉ", "cắt luống cày"... Một số ít từ được tạo ra từ nguồn gốc từ Hán - Việt như thường thấy ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt, có những từ thuộc từ loại động từ để diễn đạt các miếng đánh của trâu chọi, bắt nguồn từ những hoạt động mạnh mẽ, dũng cảm của những người dân miền biển, như: "cán", "lao", "đập", "ghìm"...
Có thể nói, ngôn ngữ chọi trâu vùng Đồ Sơn (Hải Phòng) đã thêm vào vốn từ nghề nghiệp, ngôn ngữ văn hoá một số lượng từ rât phong phú, độc đáo và thú vị. Chắc chắn rằng, sự tìm hiểu của chúng tôi trong bài viết này mới chỉ là sự mở đầu.Ø
hị,Hm.T