NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

71M MỜN 7W (Ê7//IW 91/0A W2 X⁄ÐØùỨ- 004/4 /2MỸ 447 ĐØV KIW7/MAMC71/XÂÄZØ 1 /M/2⁄
1. Từ Thăng Long, trung tâm kinh tế, chính trị - xã hội của nước Đại Việt, nhìn ra bốn phía của châu thổ Bắc Bộ: đông - tây - nam - bắc, xưa dân gian quen gọi là tứ chiếng (trấn). Nhà nước phong kiến từ đời Trần - Lê về sau cũng sở cứ vào đó mà chia và gọi đồng bằng Bắc Bộ, nơi tiếp giáp với Thăng Long ra làm bốn phần như vậy. Kinh đô Thăng Long là "Trung đô phủ", còn tứ trấn (hay xứ) là trấn Hải Đông (xứ Đông), trấn Sơn Tây (xứ Đoài), trấn Sơn Nam (xứ Nam) và trấn Kinh Bắc (xứ Bắc). Nhưng chưa bao giờ các trấn (xứ) này là tên gọi để chỉ về một đơn vị hành chính. Mà, ý nghĩa của các tên gọi lại ở giá trị về văn hoá.
Là một trong các trấn (xứ) ấy, xứ Đông thời Hùng Vương thuộc bộ Thanh Tuyển (bấy giờ đất nước chia thành 15 bộ). Đời Tần, thuộc Tượng Quận. Từ đời Hán cho đến sau gần 1000 năm Bắc thuộc là quận Giao Chỉ. Sang thời Trần là Hồng Lộ. Hải Đông. Trải qua các triều đại, sự phân hợp, đổi thay nhiều nhưng xứ Đông xưa - Hải Dương nay vẫn là một mạch đất ở phía đông kinh thành và kéo dài ra tận biển
`*Tạp chí Cộng sản.
47
Đông. Phạm Đình Hổ trong sách Vũ rung tuỳ búf”? còn nói đến diên cách và việc đặt tên là "lấy tên núi sông" để gọi tên đất. Hải Dương "ở về phía bắc bể Đông" và do vậy "phía nam gần (giáp) bể" nên gọi là Hải Dương cũng là vì lẽ ấy.
Theo sách sử thì sự thay đổi về diên cách của xứ Đông - Hải Dương qua các triểu đại như sau: thời Lê, (năm Thuận Thiên thứ nhất - 1428 Hải Dương là Đông đạo, năm Quang Thuận thứ 7 - 1406) đặt làm Nam Sách thừa tuyên (năm Quang Thuận thứ 10 - 1409). Vào năm Hồng Đức 21 (1490) đổi làm xứ Hải Dương. Đến năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) chia Hải Dương ra làm bốn đạo (sau gọi là phủ) là Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và Nam Sách bao gồm 18 huyện. Các huyện ấy là: Đường Hào, Đường An, Cẩm Giàng, Trường Tân, Tứ Kì, Vĩnh Lại, Thanh Miện, Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghỉ Dương, Thuỷ Đường, Kim Thành, An Dương, Bình Hà, Tân Minh, Thanh Lâm, Chí Linh. Năm 1838 (Minh Mệnh thứ 19, triều Nguyễn) có thêm huyện Vĩnh Bao, cộng thành 19 huyện, có 7413 xã, thôn, giáp, trang, trại, phường.
Phía tây bắc là nơi khởi nguồn của một con sông xưa có tên Hồng Giang, đối ngạn là Kinh Bắc và chảy về xã Cổ Bi và Bát Tràng, huyện Gia Lâm.
Về phía nam, dòng sông Luộc nối sông Hồng với sông Thái Bình chỗ bến Trại và bến Hiệp thuộc huyện Ninh Giang ngày nay chính là điểm tây nam ngăn cách xứ Đông - Hải Dương với đất Hưng Yên (xưa thuộc về trấn Sơn Nam). Càng xuôi về phía đông nam thì vai trò ranh giới của sông Luộc giữa xứ Đông và xứ Nam càng rõ. Ví dụ đoạn sông Luộc chảy qua phủ lị Ninh Giang (Vĩnh Lại) thuộc Hải Dương, dân địa phương gọi là sông Chanh, đối ngạn là huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. PHAM HIỆP


Điểm cực Bắc của xứ Đông là khu vực phía trên thành cổ Phao Sơn (Phả Lại ngày nay), nơi sông Thái Bình mở rộng ra bởi sự hợp lưu của sông Cầu và sông Đuống.
Như vậy, xứ Đông tuy là một vùng ở phía đông kinh đô Thăng Long nhưng chỉ trừ ra độ vài mươi cây số mặt tây từ Kinh Bắc và nơi tiếp giáp với Thăng Long kéo ra đến vùng đất của trấn Sơn Nam chừng đăm cây số ở mạn Đông, còn thì ranh giới (không phải là địa giới hành chính) đều được tạo nên bởi những dòng sông.
Mỗi khi đất nước có hoạ xâm lăng thì xứ Đông bao giö cũng là một mặt trận nóng bóng và oanh liệt nhất. Cũng bởi như vậy mà Nguyễn Trãi đã viết về xứ Đông: "Ấy là trấn (xứ) thứ nhất trong bến kinh trấn và là đứng đầu phên dậu phía Đông"“”.
Đến đây thì có thể xác định rõ hơn rằng xứ Đông - Hải Đông - Hải Dương xưa là một xứ, một vùng đất phía Đông kinh thành Thăng Long. Xứ Đông không phai là tên gọi uề một địa danh hành chính cả trong lịch sử uà đương đại. Theo đó, chúng ta có thể hình dung xứ Đông xưa bao gồm các huyện, quận, thành phố và thị xã thuộc các tỉnh sau đây: huyện Mĩ Hào (tỉnh Hưng Yên), các huyện Bình Giang, Cẩm Giàng, Thanh Miện, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kì, Chí Linh, Thanh Hà, Nam Sách, Einh Môn, Kim Thành, thành phố Hải Dương (tỉnh Hải Dương) và các huyện Vĩnh Bảo, An Hải, An Lão, Kiến Thuy, Tiên Lãng, huyện đảo Cát Bà, Thuỷ Nguyên, các thị xã Kiến An, Đồ Sơn và ba quận nội thành Hải Phòng là Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng (thành phố Hải Phòng) và huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh). Tổng cộng là 98 huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh của bốn tỉnh, thành phố. Tổng diện tích ước tính là 3.644km” và dân số ngày nay khoảng 3.616.000 người.
2. Xứ Đông - Hải Đông - Đông Đạo rồi Hải Dương là một £iểu uùng uăn hoá duyên hải Đông Bắc Bắc Bộ””. Vì vậy, nghiên cứu về tổng quan các đặc điểm tự nhiên và xã hội, về quá trình tộc người và văn hoá của xứ Đông, không thể không đặt nó trong bối cảnh văn hoá của đồng bằng Bắc Bộ. Và như vậy, chúng ta mới có thể nhận ra những đặc điểm riêng của văn hoá (nói chung) và văn hoá dân gian (nói riêng) của vùng đất xứ Đông này.
Đồng bằng Bắc Bộ là một vùng lãnh thổ tương đối dồng nhất. Điều kiện tự nhiên và và cư dân ở đây có một mối quan hệ về nguồn gốc và lịch sử, trình độ phát triển và các hoạt động kinh tế, về tổ chức xã hội và văn hoá. Đặc trưng văn hoá của cư dân được thể hiện ở bề dày truyền thống về di sản văn hoá vật chất, tỉnh thần và có những đặc trưng khác với các vùng văn hoá khác trong nền văn hoá Đại Việt, thể hiện tính đa dạng và thống nhất của văn hoá dân tộc (quốc gia) chứ không phải là sự biệt lập.
Những "sắc thái" riêng xứ Đông không hoàn toàn giống như xứ Đoài hay Sơn Nam và lại càng không như ở kinh đô Thăng Long. Theo đó là ứng xử của con người trong môi trường cụ thể ấy. Chẳng hạn, cũng là đắp đê để ngăn lũ lụt, phát triển sản xuất, bảo đảm đời sống nhưng ở gần lưu vực sông Hồng thì hướng vào ngăn lũ đầu nguồn là chính, còn ở xứ Đông thì hướng nhiều vào mục đích ngăn mặn và chống lũ lụt do triều cường. Cư dân có truyền thống lâu đời làm nông nghiệp, làng nghề cổ truyền, chăn nuôi và đánh cá... Là một vùng đất có nhiều cửa sông nên văn hoá truyền thống dày dặn và tính giao lưu, phát tán lớn. Mức độ phát tán của xứ Đông có lẽ còn eao hơn một số nơi khác của đồng bằng Bắc Bộ bởi các điều kiện thúc đẩy tính mở và hướng biên của địa bàn này. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49

Xứ Đông từ cửa Nam Triệu đến Ngải Am, có ít nhất đến 14 cửa sông đổ ra biển đã cho chúng ta hình dung ra diện tiếp xúc của cư dân rất lón. Đường sông đưa các cuộc hành trình buôn bán, trao đổi rộng và thâm nhập sâu vào trong nội địa một cách dễ dàng. Tính phổ quát xa rừng - nhạt biển là của đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng xứ Đông không nhạt biển lắm. Đất đai, địa hình, chế độ tưới tiêu và thuỷ lợi (hay trị thuỷ nói chung), cũng như các tồn tại, diễn biến của quá trình sản xuất ở các vùng Thanh Hà, Kinh Môn, Kim Thành (thuộc tỉnh Hải Dương) và một số huyện như Thuỷ Nguyên, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng... (của Hải Phòng) ngày nay) có thể cho thấy điều đó.
Đồng bằng Bắc Bộ trong những năm cuối thập kỉ 70 của thế kỉ XX, năng suất lúa đã đạt trên 5tấn/ha. Đi tiên phong là tỉnh Thái Bình và vùng lân cận của trấn Bơn Nam xưa. Xứ Đông tham gia vào "cầu lạc bộ 5 tấn rồi 10 tấn" của miền Bắc thời kì ấy thì so với các tỉnh trong vùng có chậm hơn. Điều đó cũng đúng thôi. Bỏi vì thâm canh, tăng vụ và đưa quy trình giống mới vào gieo trông nhưng trên một đồng đất không mầu mỡ bằng dải đất ven sông Hồng thì sự chậm hơn cũng là đễ hiểu. Bù lại, xứ Đông - Hải Dương có cách làm riêng, là địa bàn tiên phong trong luân canh 4 vụ/năm, trong đó có hai vụ chính. Lượng rau màu tăng nhanh, đã nâng mức sản lượng lương thực (quy thóc) đạt mức bình quân cao hơn trung bình của đồng bằng Bắc Bộ vào cuối thập kỉ 70 của thế kỉ XX.
9.1. Văn hóa uật chất
Hiện nay trên địa bàn xứ Đông có hàng nghìn di tích lịch sử và văn hoá, với nhiều loại hình phong phú và đa dạng. Hệ thống các dạng (hay loại hình di tích - văn hoá vật chất) chủ yếu là:
a. Dạng di tích tôn giáo Kiếp Bạc - Côn Sơn - Yên Tử mà tính chất điển hình của
nó là tôn giáo hoà nhập vào lịch sử văn hoá và danh thắng. Vùng này được coi là mảnh đất địa linh nhân kiệt của xứ Đông. Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm ngày nay thuộc hai huyện Chí Linh (Hải Dương) và Đông Triều (Quảng Ninh). Xưa là một vùng rừng đại ngàn ở rìa đồng bằng có nhiều loại cây cối đại thụ và động vật hoang dã. Thung lũng Côn Sơn là một vùng tiểu khí hậu rất mát về mùa hè và ấm áp vào mùa đông, là nơi nghỉ mát và du lịch lí tưởng của vùng đông Bắc Bộ. Thời thịnh Trần đã "nãy nở" và phát triển một dòng Phật giáo Việt Nam thiền phái Trúc Lâm mà ba vị tổ là Trần Nhân Tông - Pháp Loa Đồng Kiên Cương và Huyền Quang. Vùng này trở thành "chốn tổ" của Phật giáo Trúc Lâm và cũng là một trường học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam từ hơn 700 năm trước. Côn Sơn gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các danh nhân Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, đặc biệt là vị anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đầm máu và nước mắt và là những trang lịch sử bi hùng nhất trong lịch sử các đanh nhân đất Việt. Từ xưa, trong dân gian vẫn tồn tại câu ca đao: Côn Sơn - Yên Tư - Quỳnh Lâm Ai chưa đến đó, thiện tâm chưa đành.
Chùa Yên Tử và Quỳnh Lâm Viện là nơi Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang trụ trì, thuyết pháp. Vị tổ đệ nhị Pháp Loa, chỉ trong một năm mà được phật tử đóng góp số lượng đồng đúc được 1300 pho tượng Phật. Viện Quỳnh Lâm (có chùa lớn và trường học của các tăng ni, phật tử) thời Trần trở thành trung tâm giáo dục và học thuật của đạo Phật. Ở đây đã từng đúc một pho tượng Phật khổng lồ mà theo như nội dung của bia chùa Quỳnh Lâm khác năm Cảnh Hưng thứ 48 (1785) thì tượng cao 6 trượng (khoảng 230m). Người ta làm D0
PHẠM HIỆP


ƒ
một toà điện cao 7 trượng (khoảng 33.5m) để chứa tượng. Đứng ở mé nam cách chùa tới 10 đặm vẫn có thể nhìn thấy tượng chùa Quỳnh Lâm. Như vậy. tượng Phật Quỳnh Lâm đã đạt tới tâm cỡ thế giới (pho tượng đồng hiện được coi là lớn nhất thế giới là tượng ở Na-ra (Nhật Bản) cao 16m và nặng 500 tấn). Tiếc thay tượng đồng chùa Quỳnh Lâm đã bị giặc Minh phá mất.
Cách Côn Sơn 7km đường bộ và khoảng 3km đường chim bay là di tích Kiếp Bạc. nơi thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.
Đền Kiếp Bạc là nơi thờ tự rất đặc biệt. có lẽ là "độc nhất vô nhị" ở nước ta bởi cấu trúc xây dựng và thờ tự của nó. Đền chính dựa lưng vào núi Ngũ Nhạc nhìn ra Lục Đầu giang. Hai bên tả hữu là hai dải núi hình "tay ngai" vươn ra tận sông. bên tả là chùa (đến?) Nam Tào, bên hữu là chùa (đền?) Bắc Đấu. Theo quan niệm của người Việt chỉ có nơi "ngự" của Ngọc Hoàng mới có "tả Nam Tào, hữu Bắc Đấu" để trông coi thiên hạ từ việc sinh ra đến khi chấm số tử (chết) sang thế giới khác. Sự thánh hoá Trần Hưng Đạo đã đến mức trên "cõi trời" thì có Ngọc Hoàng, dưới "hạ giới” có Đức Thánh Trần thay (hoặc sánh) với Ngọc Hoàng thượng đế vậy. Trong truyền thống tín ngưỡng của người Việt, khi lễ cầu tài, lộc. phúc, đức, nhất là việc trừ tai ách, bệnh tật, xua đuổi tà ma, làm hại trẻ con làm cho chúng "hữu sinh vô dưỡng” người ta hay cầu Đức Thánh Trần ở mọi nơi, mọi lúc. Lễ hội ở đền Kiếp Bạc xưa thường có bói toán, xóc thẻ, lên đồng, tế lễ trừ tà ma, bát quyết... rất cầu kì. Các vật phẩm đem đến lễ, ngoài của ngon vật lạ người ta hay làm cỗ sống (có khi cả một con lợn mổ thịt rồi để nguyên đưa vào lễ ở trong đền). Ngày hội, trên sông Laục Đầu có hàng nghìn chiếc thuyền đánh cá của ngư dân vùng biển Đông Bác đổ về cập bến tham dự từ khi khai hội đến ngày kết thúc. Trên bến là chợ
bán đủ các hàng nông sản và sản phâm làng nghề các địa phương của xứ Đông và S HỆ 1q ] R R
vùng Kinh Bắc ”.
Quanh bán kính độ mươi cây số từ Côn Sơn - Kiếp Bạc - Yên Tử còn có hàng trăm đình, đền, chùa, miếu mà nổi tiếng nhất là 8 cổ tích ở huyện Chí Linh xưa (Chí Linh Bát Cổ). Theo sách Đại Nam: nhất thống ehí của Quốc sử quán triều Nguyễn, 8 cổ tích - thắng tích ấy là: 1. Dược lĩnh cổ uiên; 9. Tiêu ẩn Cổ Bích; 3. Nhạn Loan cố độ; 4. Trạng Nguyên cố đường; 5. Phao Sơn cổ thành là thành cổ Phao Sơn triều Mạc trên núi Phao Sơn bên sông Lục Đầu; 6. Linh Phi cổ pháp; 7. Thượng tể cổ trạch và 8. Ngoạ Vân cổ tháp.
b. Vùng hang động Kính Chủ ö linh Môn và huyện Thuy Nguyên là một dạng dị tích hang động 0à lèn núi đá ôi tìa đồng bằng ven biển, pha trộn giữa tôn giáo. tín ngưỡng mang chức năng của ca đình, đền, chùa và miếu mà không gian thờ được đặt vào (đợi dụng) trong một nơi bí hiểm của tự nhiên để tạo nên một cõi vừa hư vừa thực cả bên ngoài và bên trong di tích như hang Chùa Mộ, động Tâm Long. am Bạch Vân (Kinh Môn)... Tiêu biểu thuộc dạng này là động Kính Chủ, được coi là một “Vân thạch thư thất” (nhà sách trên đá) ö dãy núi Dương Nham, hoặc như các di tích: núi Voi, động Chùa Hang, chùa Long Hoa... núi U Bò, chùa Hàm Long ở núi Vân Ô, chùa Lân Động... (huyện Thuy Nguyên).
e. Dạng di tích văn hoá gắn liền với việc đề cao giáo dục, là các văn miếu, văn chỉ, giảng đường, bia kí ghi danh... Điền hình là văn miếu Mao Điền, được coi là một trường học cổ lớn nhất xứ Đông. Hiện còn hai toà nhà kiến trúc thời Lê, trùng tu vào thời Nguyễn. Sử cũ ghi lại, khi khởi dựng, kiến trúc văn miếu Mao Điển giống như văn miếu Quốc Tử Giám (ở Hà Nội), có hậu đường, tiền đường, tây vu, đông vu, đền NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Đ]


Khải. Di tích Chu Văn Trinh tiên sinh từ (đền thờ Chu Văn An) khi ông từ quan "thoái vị sư" về núi Phượng Hoàng dạy học. Hay như "Thế khoa đường" và tấm bia đá khắc in bài thơ khuyến học rất quý bằng chữ nôm ở làng Mộ Trạch. Chùa Trăm Gian ở xã An Bình (huyện Nam Sách) hiện còn nhiều đi vật quý. Chùa này xưa là một thư viện lưu giữ một lượng bản khắc gỗ ván in đồ sộ của các thợ khắc in sách về kinh Phật và sách khảo cứu của nhiều tác gia thời phong kiến hiện vẫn còn nhưng chưa dược khai thác, nghiên cứu. 3.9. Văn hoá xã hội uà tỉnh thần
Truyền thống văn hoá và "gien di truyền" về sự học hành đỗ đại khoa và nổi danh của xứ Đông thời phong kiến có lẽ là vào hạng nhất trong nước. Kể từ năm 1075 nhà Lý mở khoa thi đầu tiên đến khoa thì cuối cùng vào năm 1919 triều Nguyễn, qua 183 khoa thi, số tiến sĩ Nho học trên đất Hải Dương xưa là 616 người. Khoa thi lấy người đô đầu là trạng nguyên của nước Đại Việt vào năm 1806 đời Lý Nhân Tông thì vị trạng nguyên ấy là Mạc Hiển Tích. Ö xứ Đông, trong thế giới tâm linh của cư dân đồng bằng sông nước cũng có nét ít thấy ở các trấn - xứ khác của Bắc Bộ. Có những vị thần được tôn thờ, được thánh hoá từ một "môi trường nước" vào một nhân vật của đời sống như Đoàn Thượng, sau khi chết ông được hoá thân thành vị thần Đông Hải Đại Vương và được thờ ở khắp các vùng sông nước xứ Đông. Một vị thân khác là quan lớn Tuần Tranh (được thờ ở ngã ba sông Tranh, thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hai Dương).
Trải qua nhiều thế hệ, các quy định về lập tục, lối sống, sinh hoạt văn hoá, lao động sản xuất, bao vệ tài nguyên môi trường và bảo đảm an ninh xã hội... dần thăm sâu vào đời sống con người, trở thành các tập tục, phong cách, lề thói... tựu chung
lại là nếp làng và nếp nhà. Mà cái "nếp" ấy chính là sức fhứi hay những dạng địa phương của văn hoá.
Sắc thái địa phương của người xứ Đông còn là tính cởi mở, phóng bhoáng và sự thăng hoa của tính hướng biên. Xa rừng nhưng không phải là nhạt biển lắm như đặc trưng phổ biến trong văn hoá vùng của Bắc Bộ. Không thấy ở đâu mà ngoài những ông trạng Nho học (trạng Chữ) nổi tiếng, xứ Đông còn có cả trạng Án, trạng Chạy, trang Vật, trạng Lặn, trạng Bơi, trạng Cở... trong đời sống thực và trong cä văn học dân gian.
Có di tích là có lễ hội. Qua nghiên cứu 100 lễ hội của xứ Đông, bước đầu chúng tôi thấy có 43 lễ hội được tổ chức vào tháng Giêng. 14 lễ hội tổ chức vào tháng Hai, 21 lễ hội tổ chức vào tháng Ba. Hai lễ hội kéo đài suốt mùa xuân, 9 lễ hội tổ chức vào tháng tâm. Các tháng khác cũng có nhưng không đáng kể và phạm vi hẹp. Như vậy, thời điểm tập trung của lễ hội là mùa xuân (72%), trong mùa xuân lại tập trung nhất là vào tháng giêng (44%).
Lễ hội ở xứ Đông có nhiều nét đặc sắc. Hội chùa Đồng Ngọ (Thanh Hà) có tục đánh Chuông. Hội chùa Hào Xá (Thanh Hà) có tục đua thuyền và nấu cơm thi trên thuyền nan, tục bắt vịt. Hội đền Quát (Gia Lộc) là một hội thi bơi chải trên sông của các Hà Chài (các làng đánh cá cư trú ven sông) thu hút hầu hết các làng làm nghề đánh cá ven sông thuộc Hải Dương ngày nay. Phần lễ của hội này có rước kiệu dâng hương và tế ở đền Quát (thờ Yết Kiêu). Hàng trăm chiếc chải (thuyền bơi) được trang trí các giống rồng, phượng, chim, cá... Tay bơi chít khăn đầu rìu, áo chẽn màu. thất lưng xanh hoặc đổ. Người đứng đầu chải gõ mỗõ phất cờ xướng những điệu vui nhộn, các tay bơi hoạ lại để lấy đà bổ đầm cho khớp tạo nên sức mạnh ví dụ: Xướng: )2
PHAM HIỆP


Nào giai di! Hoạ: - Dô huậy. Bổ cho sâu! - Dô huậy. Vươn cho đài! - Dô huậy. Giai ở! - Dô huậy. Cố mà lên! - Dô huậy. Hoặc: Cô yếm xanh! - Dô huậy. Lấy anh gõ mỗi - Dô huậy. Cô yếm đỏ! - Dô huậy. Lấy anh phất cờ! - Dô huậy. Những cô ngồi bời - Dô huậy. Lấy các anh bơi chải! - Đô huậy... Người cầm nhịp nhanh nhẹn, tháo vát và hài hước đặt ra những lời hóm hỉnh, ngắn gọn, gây cười để những tay bơi phấn khích tăng thêm sức mà giành chiến thắng. Hội đền Sượt (xã Thanh Bình, thành phố Hải Dương) có tục đánh bệt (đánh hổ dữ) và dâng cúng thứ rượu Hoàng tửu được chưng cất rất cầu kì. Hội chùa Giám (Cẩm Giàng) có tục bốc thuốc lấy khước cầu sức khoẻ. Hội chùa Trông (Ninh Giang) có tục rước nước ở giữa dòng sông Luộc về tắm tượng và thay áo. Chiếc áo thay ra cắt nhỏ, chia cho các giáp và khách thập phương đem về lấy khước gọi là đải miễu để trừ tà ma, tật ách. Hội đền Sinh (Chí Linh) có lễ phồn sinh. Hang đá trên núi có hình linh vật âm. Bên trong có chiếc "chày" (dương) và chiếc "cối" (âm), bên ngoài có hình "đầu tre con" đều bằng đá. Tín ngưỡng dân gian cho rằng người muộn con hay con ốm yếu thì đến đây làm lễ, đem "chày giã vào cối" và "xoa đầu trẻ" thì lĩnh ứng và toại nguyện.
Hội chọi trâu Đồ Sơn “mồng chín tháng tám” khá đặc biệt. “Dù ai buôn đâu bán đâu. Mồng chín tháng tám chọi trâu thì uê" là câu ca dao đã đi vào đời sống không biết từ thuở nào. Có người cho tục chọi trâu là truyền thống thượng võ của dân tộc. Có lẽ còn hơn thế. Đó cũng vân là những lễ nghi trong nông nghiệp của người Việt vùng chiêm trũng. Đồng bằng ven biển vốn ít trâu, nên “con trâu là đầu cơ nghiệp, chiếm vị trí độc tôn trong loại tài sản có giá trị của nhà nông. Kinh nghiệm chọn trâu khoẻ ở Đồ Sơn không ở đâu bằng. Những eon trâu khoẻ là loại độc khoang, tha ức, trường đùi, đuôi trai, da bạc. Và trâu chọi
thì thêm: sừng uênh, mình trường, da udi, lông sâu róm, cổ thon, tai nhỏ, mắt đó, mu mắt dày...
3.3. Đặc biệt, xứ Đông còn có nhiều hoạt động binh tế mang tính chất xã hội uè uăn hoứ vùng chiêm trũng rất điển hình. Vài chục năm trước đây các làng quê vùng chiêm trũng ở Tứ Kì, Ninh Giang, Thanh Hà của Hải Dương, vào cữ tháng một (âm lịch), thời kì nước ở cửa các sông, lạch rút nhanh, chỉ độ đăm bảy ngày là phơi bờ bỏ bãi. Giặt hái lúa mùa muộn đã xong, các làng ở vùng này nô nức vào Hội đánh sông. Gió heo may, cá đồng rút xuống các mương ngòi trong nội đồng và những đoạn sông nhỏ, độ sâu chỉ còn độ 1m. Những cư dân ven bờ sông tập trung cả già trẻ, gái trai thành một đội quân quy mô đem đầy đủ các loại "vũ khí" đánh bắt như vó, nơm, dậm, rập, lưới, chải, rổ, giỏ... ào xuống sông, ngòi. Trẻ em, phụ nữ thì đánh bắt ở ven bờ, bằng vó, dậm, nơm nhỏ, đàn ông và thanh niên khoẻ mạnh thì đi vào giữa dòng dùng các dụng cụ đánh bắt lón như rập, lưới, chài... có khi úp được cá phải lặn xuống để bắt nên họ chỉ mặc quần đùi, đầu để trần. Có một dụng cụ nhỏ bé mà người đánh sông thường đeo luôn vào bên sườn là dây xiên cá. Xiên làm bằng cật tre "bánh tẻ" được chẻ ra vót nhọn một đầu dài độ 10em, bản rộng 1em. Đầu kia buộc một sợi dây tơ tằm, dây gai hoặc cước thật chắc. Có người còn làm xiên bằng xương trâu bò, chạm trổ và đánh bóng để dùng trong nhiều năm. Bắt được cá thì xiên qua mang rồi deo vào người cho tiện mỗi khi lặn ngụp. Người ta có cách buộc chặt xiên cá vào bên người mà không ảnh hưởng đến việc đánh bắt dưới sông.
Thông thường, việc đánh sông được bắt đầu vào một giờ nào đó, có khi giữa trưa hay nửa đêm, khi nước thuỷ triểu rút mạnh. Những người ở rìa sông quan sát NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
được và hô lên: "đánh sông, đánh sông thôi!" Thế là tiếng gọi truyền râm ran cả làng. Từ xóm này sang xóm khác đồng loạt bật dậy khi đang ngủ say hoặc cùng bỏ đỏ công việc, ca nhà vớ lấy dụng cụ và cùng hăm hở chạy ra nhập vào đoàn. Thường thường người ta lập các đoàn đi ngược lên ngon sông, đánh xuôi về cửa sông không phân biệt ranh giới của làng nào. “Cá dưới sông, may aL thì người ấy được”. Khi mọi người đã ào xuống sông rồi thì chỉ còn nghe tiếng ồn ào của tiếng nơm úp rập. Mỗi khi có người bắt được con cá to thì mọi người cùng reo lên cổ vũ. Tốc độ "hành quân" của đoàn đánh cá phụ thuộc vào việc nước rút nhanh hay chậm. Có khi vừa đánh vừa đợi nước rút, có lúc phải ào đi vì nước cạn quá nhanh. Thường mỗi buổi đánh sông diễn ra trong vài ba giờ đồng hồ, đôi khi diễn ra cả ngày vì người ta theo nước từ ngòi ra sông lớn. Có người được nhiều cá quá, say sưa phải chuyển cho con cháu mang về nhà trước rồi đi tiếp. Vào dịp này người ta thường vui vẻ tặng các bạn không may vài ba con đem về "để lấy khước" nhưng thật ra đó là sự giao hảo trong ngày hội. Thời gian đánh sông hàng năm diễn ra khoảng 10 - 15 ngày cuối tháng một, đầu tháng chạp.
Sau mỗi buổi đánh sông, làng xóm vui như tết. Bếp nhà nào cũng thơm mùi cá rán, cá nướng, canh riêu. Trẻ em xách cá, bưng cá đi biếu thầy giáo, biếu ông bà, thầy thuốc, chủ nợ hoặc người mà gia đình mang ơn. Người lón rung đùi bên cút rượu và mâm cơm có nhiều món cá được chế biến phong phú. Đây là hoạt động khai thác sản phẩm thiên nhiên, không ai phải bỏ vốn đầu tư. Một trận đánh sông có thể được từ dăm bảy cân cá, cải thiện nhiều bữa ăn tươi. Người "sát cá", may mắn được nhiều hơn thì bán đong gạo, mua sắm, may áo quần cho trẻ. Đánh sông thực sự là ngày
S
hội tưng bừng, no say, vui vẻ ở các làng quê vùng chiêm trũng, cửa sông của xứ Đông. Hội thi pháo đất có lẽ cũng là một lễ hội tương đối đặc biệt ở các làng xã dọc đường 17 và ven sông Luuộc của hai huyện Tứ Kì và Ninh Giang (Hải Dương ngày nay). Từ cuối tháng ba, đầu tháng tư âm lịch (cuối xuân, đầu hè) khi nông nhàn, thu hoạch vụ chiêm chưa tới, ở các làng Chiềng, Đọ, Bùng, Bõ, Bói Vé, Tranh, Hóp, Nguyễn, Hoà... (Ninh Giang) hoặc Chợ Đồn, Quý Cao, Tiên Động (Tứ Kì) thường nghe tiếng nổ vang đội "ình", "ình" phát ra thưa nhặt. Đó là những ngày chuẩn bị cho hội thi pháo đất. Phạm vi và quy mô có thể trong làng hoặc vài ba làng với nhau. Mấy năm gần đây, hai huyện Tứ Kì và Ninh Giang giao ước với nhau luân phiên mở hội thi pháo đất như một lễ hội truyền thống về thể thao để tưởng nhớ các quân sĩ thời hai bà Trưng đánh giặc Đông Hán, ôn lại chiến công xưa đã dùng pháo đất gây tiếng nổ liên hồi và tiếng hò reo làm áp lực phá thế bao vây của giặc. LỄ hội còn làm vui thêm cuộc sống sau những ngày lao động cực nhọc để chuẩn bị bước vào mùa gặt tới. Trò vui lại dùng nguyên liệu tại chỗ trên đồng đất quê hương, chẳng tốn kém gì.
Vốn văn hoá xứ Đông còn phải kể đến sự phong phú về văn hoá dân gian, văn học - nghệ thuật, mĩ thuật, kiến trúc và âm thực... Ví dụ, hát xướng cũng là những cuộc trình diễn khá phức tạp và thú vị. Đôi khi là một cuộc tế thành hoàng được "văn nghệ hoá" trong dân gian với đủ các bước hành tự và nghỉ lễ để "thần và người" hoà hợp, chung vui. Có những cuộc diễn xướng ở sân đình trang phục lộng lẫy và oai vệ như một "triểu đình" đang hoạt động. Người xem náo nức thâu đêm. Cũng có khi mở hội làng mời ä đào về hát. Trong khi hành lễ "diễn viên" vừa hát vừa múa theo trình tự của 54 PHẠM HIỆP


chủ tế theo "chín khúc" (cửu khúc). Các "khúc" ấy gồm: I1. Nguyên hoà khúc (hát dâng rượu), 9. Thới hoà bhúc (rước thần vào tại vị), 3. Thọ hoà bhhúc (dầng rượu tuần đầu). 4. Dư hoà khúc (dâng rượu tuần thứ hai), 5. Ninh hoà bhúc (đãng rượu tuần thứ ba, tuần cuốt, theo phong tục của người Việt là "rượu ba tuần"), 6. Hồi hoà bhúc (nhận rượu lộc của thần ban cho và uống, 7. An hoà bhúc (cáo biệt thần và cầu an), 8. Thuần hoà khúc (chờ mong thần ban thêm phúc, lộc) và Ø9. Ứng hoà khúc kết thúc phần tế thần để chuyển sang các cuộc vui khác). Cũng có một số cuộc lễ còn hát thêm bài "tạ ca" để tạ ơn thần linh.
Căn cốt của xứ Đông xưa, nay vẫn thuộc về tỉnh Hải Dương ngày nay. Vùng đất thuộc Hải Phòng ngày nay là nơi cư dân xứ Đông xưa tiến dần ra các cửa sông và ven biển trong một quá trình lịch sử lâu đài nên sự tụ cư muộn hơn so với các làng mạc thuộc Hải Dương ngày nay. Tỉnh Hải Dương cho đến nay vẫn được dân gian gọi là tỉnh Đông - xứ Đông. Vùng đất này vừa mang đậm nét truyền thống văn hoá của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. lại vừa có sắc thái riêng làm phong phú nền văn hoá dân tộc. Vì vậy, nó rất cần được nghiên cứu sâu nhằm góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
F.n
(1) Phạm Đình Hồ: Vũ Trung tuỳ bút, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
((3) Nguyên Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.
(3) Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Văn hoá Uuùng uà phân Uùng Uuăn hoá Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
(4) Phạm Hiệp, Báo Hai Phòng cuối tuần, số 37 (2000).