NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
71M MỜN 7W (Ê7//IW
91/0A W2
X⁄ÐØùỨ- 004/4
/2MỸ 447 ĐØV
KIW7/MAMC71/XÂÄZØ
1 /M/2⁄
1. Từ Thăng Long, trung tâm kinh tế,
chính trị - xã hội của nước Đại Việt, nhìn
ra bốn phía của châu thổ Bắc Bộ: đông -
tây - nam - bắc, xưa dân gian quen gọi là
tứ chiếng (trấn). Nhà nước phong kiến từ
đời Trần - Lê về sau cũng sở cứ vào đó mà
chia và gọi đồng bằng Bắc Bộ, nơi tiếp giáp
với Thăng Long ra làm bốn phần như vậy.
Kinh đô Thăng Long là "Trung đô phủ", còn
tứ trấn (hay xứ) là trấn Hải Đông (xứ
Đông), trấn Sơn Tây (xứ Đoài), trấn Sơn
Nam (xứ Nam) và trấn Kinh Bắc (xứ Bắc).
Nhưng chưa bao giờ các trấn (xứ) này là
tên gọi để chỉ về một đơn vị hành chính.
Mà, ý nghĩa của các tên gọi lại ở giá trị về
văn hoá.
Là một trong các trấn (xứ) ấy, xứ Đông
thời Hùng Vương thuộc bộ Thanh Tuyển
(bấy giờ đất nước chia thành 15 bộ). Đời
Tần, thuộc Tượng Quận. Từ đời Hán cho
đến sau gần 1000 năm Bắc thuộc là quận
Giao Chỉ. Sang thời Trần là Hồng Lộ. Hải
Đông. Trải qua các triều đại, sự phân hợp,
đổi thay nhiều nhưng xứ Đông xưa - Hải
Dương nay vẫn là một mạch đất ở phía
đông kinh thành và kéo dài ra tận biển
`*Tạp chí Cộng sản.
47
Đông. Phạm Đình Hổ trong sách Vũ rung
tuỳ búf”? còn nói đến diên cách và việc đặt
tên là "lấy tên núi sông" để gọi tên đất. Hải
Dương "ở về phía bắc bể Đông" và do vậy
"phía nam gần (giáp) bể" nên gọi là Hải
Dương cũng là vì lẽ ấy.
Theo sách sử thì sự thay đổi về diên
cách của xứ Đông - Hải Dương qua các
triểu đại như sau: thời Lê, (năm Thuận
Thiên thứ nhất - 1428 Hải Dương là Đông
đạo, năm Quang Thuận thứ 7 - 1406) đặt
làm Nam Sách thừa tuyên (năm Quang
Thuận thứ 10 - 1409). Vào năm Hồng Đức
21 (1490) đổi làm xứ Hải Dương. Đến năm
Cảnh Hưng thứ 2 (1741) chia Hải Dương ra
làm bốn đạo (sau gọi là phủ) là Thượng
Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và Nam Sách
bao gồm 18 huyện. Các huyện ấy là: Đường
Hào, Đường An, Cẩm Giàng, Trường Tân,
Tứ Kì, Vĩnh Lại, Thanh Miện, Giáp Sơn,
Đông Triều, An Lão, Nghỉ Dương, Thuỷ
Đường, Kim Thành, An Dương, Bình Hà,
Tân Minh, Thanh Lâm, Chí Linh. Năm
1838 (Minh Mệnh thứ 19, triều Nguyễn) có
thêm huyện Vĩnh Bao, cộng thành 19
huyện, có 7413 xã, thôn, giáp, trang, trại,
phường.
Phía tây bắc là nơi khởi nguồn của một
con sông xưa có tên Hồng Giang, đối ngạn
là Kinh Bắc và chảy về xã Cổ Bi và Bát
Tràng, huyện Gia Lâm.
Về phía nam, dòng sông Luộc nối sông
Hồng với sông Thái Bình chỗ bến Trại và
bến Hiệp thuộc huyện Ninh Giang ngày
nay chính là điểm tây nam ngăn cách xứ
Đông - Hải Dương với đất Hưng Yên (xưa
thuộc về trấn Sơn Nam). Càng xuôi về phía
đông nam thì vai trò ranh giới của sông
Luộc giữa xứ Đông và xứ Nam càng rõ. Ví
dụ đoạn sông Luộc chảy qua phủ lị Ninh
Giang (Vĩnh Lại) thuộc Hải Dương, dân địa
phương gọi là sông Chanh, đối ngạn là
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
PHAM HIỆP
Điểm cực Bắc của xứ Đông là khu vực
phía trên thành cổ Phao Sơn (Phả Lại ngày
nay), nơi sông Thái Bình mở rộng ra bởi sự
hợp lưu của sông Cầu và sông Đuống.
Như vậy, xứ Đông tuy là một vùng ở
phía đông kinh đô Thăng Long nhưng chỉ
trừ ra độ vài mươi cây số mặt tây từ Kinh
Bắc và nơi tiếp giáp với Thăng Long kéo ra
đến vùng đất của trấn Sơn Nam chừng
đăm cây số ở mạn Đông, còn thì ranh giới
(không phải là địa giới hành chính) đều
được tạo nên bởi những dòng sông.
Mỗi khi đất nước có hoạ xâm lăng thì
xứ Đông bao giö cũng là một mặt trận nóng
bóng và oanh liệt nhất. Cũng bởi như vậy
mà Nguyễn Trãi đã viết về xứ Đông: "Ấy là
trấn (xứ) thứ nhất trong bến kinh trấn và
là đứng đầu phên dậu phía Đông"“”.
Đến đây thì có thể xác định rõ hơn rằng
xứ Đông - Hải Đông - Hải Dương xưa là
một xứ, một vùng đất phía Đông kinh
thành Thăng Long. Xứ Đông không phai là
tên gọi uề một địa danh hành chính cả
trong lịch sử uà đương đại. Theo đó, chúng
ta có thể hình dung xứ Đông xưa bao gồm
các huyện, quận, thành phố và thị xã thuộc
các tỉnh sau đây: huyện Mĩ Hào (tỉnh Hưng
Yên), các huyện Bình Giang, Cẩm Giàng,
Thanh Miện, Ninh Giang, Gia Lộc, Tứ Kì,
Chí Linh, Thanh Hà, Nam Sách, Einh
Môn, Kim Thành, thành phố Hải Dương
(tỉnh Hải Dương) và các huyện Vĩnh Bảo,
An Hải, An Lão, Kiến Thuy, Tiên Lãng,
huyện đảo Cát Bà, Thuỷ Nguyên, các thị xã
Kiến An, Đồ Sơn và ba quận nội thành Hải
Phòng là Ngô Quyền, Lê Chân, Hồng Bàng
(thành phố Hải Phòng) và huyện Đông
Triều (tỉnh Quảng Ninh). Tổng cộng là 98
huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc
tỉnh của bốn tỉnh, thành phố. Tổng diện
tích ước tính là 3.644km” và dân số ngày
nay khoảng 3.616.000 người.
2. Xứ Đông - Hải Đông - Đông Đạo rồi
Hải Dương là một £iểu uùng uăn hoá duyên
hải Đông Bắc Bắc Bộ””. Vì vậy, nghiên cứu
về tổng quan các đặc điểm tự nhiên và xã
hội, về quá trình tộc người và văn hoá của
xứ Đông, không thể không đặt nó trong bối
cảnh văn hoá của đồng bằng Bắc Bộ. Và
như vậy, chúng ta mới có thể nhận ra
những đặc điểm riêng của văn hoá (nói
chung) và văn hoá dân gian (nói riêng) của
vùng đất xứ Đông này.
Đồng bằng Bắc Bộ là một vùng lãnh
thổ tương đối dồng nhất. Điều kiện tự
nhiên và và cư dân ở đây có một mối quan
hệ về nguồn gốc và lịch sử, trình độ phát
triển và các hoạt động kinh tế, về tổ chức
xã hội và văn hoá. Đặc trưng văn hoá của
cư dân được thể hiện ở bề dày truyền thống
về di sản văn hoá vật chất, tỉnh thần và có
những đặc trưng khác với các vùng văn hoá
khác trong nền văn hoá Đại Việt, thể hiện
tính đa dạng và thống nhất của văn hoá
dân tộc (quốc gia) chứ không phải là sự biệt
lập.
Những "sắc thái" riêng xứ Đông không
hoàn toàn giống như xứ Đoài hay Sơn Nam
và lại càng không như ở kinh đô Thăng
Long. Theo đó là ứng xử của con người
trong môi trường cụ thể ấy. Chẳng hạn,
cũng là đắp đê để ngăn lũ lụt, phát triển
sản xuất, bảo đảm đời sống nhưng ở gần
lưu vực sông Hồng thì hướng vào ngăn lũ
đầu nguồn là chính, còn ở xứ Đông thì
hướng nhiều vào mục đích ngăn mặn và
chống lũ lụt do triều cường. Cư dân có
truyền thống lâu đời làm nông nghiệp, làng
nghề cổ truyền, chăn nuôi và đánh cá... Là
một vùng đất có nhiều cửa sông nên văn
hoá truyền thống dày dặn và tính giao lưu,
phát tán lớn. Mức độ phát tán của xứ Đông
có lẽ còn eao hơn một số nơi khác của đồng
bằng Bắc Bộ bởi các điều kiện thúc đẩy
tính mở và hướng biên của địa bàn này.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49
Xứ Đông từ cửa Nam Triệu đến Ngải
Am, có ít nhất đến 14 cửa sông đổ ra biển
đã cho chúng ta hình dung ra diện tiếp xúc
của cư dân rất lón. Đường sông đưa các
cuộc hành trình buôn bán, trao đổi rộng và
thâm nhập sâu vào trong nội địa một cách
dễ dàng. Tính phổ quát xa rừng - nhạt biển
là của đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng xứ Đông
không nhạt biển lắm. Đất đai, địa hình, chế
độ tưới tiêu và thuỷ lợi (hay trị thuỷ nói
chung), cũng như các tồn tại, diễn biến của
quá trình sản xuất ở các vùng Thanh Hà,
Kinh Môn, Kim Thành (thuộc tỉnh Hải
Dương) và một số huyện như Thuỷ Nguyên,
Vĩnh Bảo, Tiên Lãng... (của Hải Phòng)
ngày nay) có thể cho thấy điều đó.
Đồng bằng Bắc Bộ trong những năm
cuối thập kỉ 70 của thế kỉ XX, năng suất
lúa đã đạt trên 5tấn/ha. Đi tiên phong là
tỉnh Thái Bình và vùng lân cận của trấn
Bơn Nam xưa. Xứ Đông tham gia vào "cầu
lạc bộ 5 tấn rồi 10 tấn" của miền Bắc thời
kì ấy thì so với các tỉnh trong vùng có chậm
hơn. Điều đó cũng đúng thôi. Bỏi vì thâm
canh, tăng vụ và đưa quy trình giống mới
vào gieo trông nhưng trên một đồng đất
không mầu mỡ bằng dải đất ven sông Hồng
thì sự chậm hơn cũng là đễ hiểu. Bù lại, xứ
Đông - Hải Dương có cách làm riêng, là địa
bàn tiên phong trong luân canh 4 vụ/năm,
trong đó có hai vụ chính. Lượng rau màu
tăng nhanh, đã nâng mức sản lượng lương
thực (quy thóc) đạt mức bình quân cao hơn
trung bình của đồng bằng Bắc Bộ vào cuối
thập kỉ 70 của thế kỉ XX.
9.1. Văn hóa uật chất
Hiện nay trên địa bàn xứ Đông có hàng
nghìn di tích lịch sử và văn hoá, với nhiều
loại hình phong phú và đa dạng. Hệ thống
các dạng (hay loại hình di tích - văn hoá
vật chất) chủ yếu là:
a. Dạng di tích tôn giáo Kiếp Bạc - Côn
Sơn - Yên Tử mà tính chất điển hình của
nó là tôn giáo hoà nhập vào lịch sử văn hoá
và danh thắng. Vùng này được coi là mảnh
đất địa linh nhân kiệt của xứ Đông. Côn
Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm ngày nay thuộc
hai huyện Chí Linh (Hải Dương) và Đông
Triều (Quảng Ninh). Xưa là một vùng rừng
đại ngàn ở rìa đồng bằng có nhiều loại cây
cối đại thụ và động vật hoang dã. Thung
lũng Côn Sơn là một vùng tiểu khí hậu rất
mát về mùa hè và ấm áp vào mùa đông, là
nơi nghỉ mát và du lịch lí tưởng của vùng
đông Bắc Bộ. Thời thịnh Trần đã "nãy nở"
và phát triển một dòng Phật giáo Việt Nam
thiền phái Trúc Lâm mà ba vị tổ là Trần
Nhân Tông - Pháp Loa Đồng Kiên Cương
và Huyền Quang. Vùng này trở thành
"chốn tổ" của Phật giáo Trúc Lâm và cũng
là một trường học Phật giáo đầu tiên của
Việt Nam từ hơn 700 năm trước. Côn Sơn
gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các
danh nhân Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi
Khanh, đặc biệt là vị anh hùng dân tộc -
danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi
đầm máu và nước mắt và là những trang
lịch sử bi hùng nhất trong lịch sử các đanh
nhân đất Việt. Từ xưa, trong dân gian vẫn
tồn tại câu ca đao:
Côn Sơn - Yên Tư - Quỳnh Lâm
Ai chưa đến đó, thiện tâm chưa đành.
Chùa Yên Tử và Quỳnh Lâm Viện là
nơi Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền
Quang trụ trì, thuyết pháp. Vị tổ đệ nhị
Pháp Loa, chỉ trong một năm mà được phật
tử đóng góp số lượng đồng đúc được 1300
pho tượng Phật. Viện Quỳnh Lâm (có chùa
lớn và trường học của các tăng ni, phật tử)
thời Trần trở thành trung tâm giáo dục và
học thuật của đạo Phật. Ở đây đã từng đúc
một pho tượng Phật khổng lồ mà theo như
nội dung của bia chùa Quỳnh Lâm khác
năm Cảnh Hưng thứ 48 (1785) thì tượng
cao 6 trượng (khoảng 230m). Người ta làm
D0
PHẠM HIỆP
ƒ
một toà điện cao 7 trượng (khoảng 33.5m)
để chứa tượng. Đứng ở mé nam cách chùa
tới 10 đặm vẫn có thể nhìn thấy tượng chùa
Quỳnh Lâm. Như vậy. tượng Phật Quỳnh
Lâm đã đạt tới tâm cỡ thế giới (pho tượng
đồng hiện được coi là lớn nhất thế giới là
tượng ở Na-ra (Nhật Bản) cao 16m và nặng
500 tấn). Tiếc thay tượng đồng chùa Quỳnh
Lâm đã bị giặc Minh phá mất.
Cách Côn Sơn 7km đường bộ và khoảng
3km đường chim bay là di tích Kiếp Bạc.
nơi thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng
Đạo.
Đền Kiếp Bạc là nơi thờ tự rất đặc biệt.
có lẽ là "độc nhất vô nhị" ở nước ta bởi cấu
trúc xây dựng và thờ tự của nó. Đền chính
dựa lưng vào núi Ngũ Nhạc nhìn ra Lục
Đầu giang. Hai bên tả hữu là hai dải núi
hình "tay ngai" vươn ra tận sông. bên tả là
chùa (đến?) Nam Tào, bên hữu là chùa
(đền?) Bắc Đấu. Theo quan niệm của người
Việt chỉ có nơi "ngự" của Ngọc Hoàng mới
có "tả Nam Tào, hữu Bắc Đấu" để trông coi
thiên hạ từ việc sinh ra đến khi chấm số tử
(chết) sang thế giới khác. Sự thánh hoá
Trần Hưng Đạo đã đến mức trên "cõi trời"
thì có Ngọc Hoàng, dưới "hạ giới” có Đức
Thánh Trần thay (hoặc sánh) với Ngọc
Hoàng thượng đế vậy. Trong truyền thống
tín ngưỡng của người Việt, khi lễ cầu tài,
lộc. phúc, đức, nhất là việc trừ tai ách, bệnh
tật, xua đuổi tà ma, làm hại trẻ con làm
cho chúng "hữu sinh vô dưỡng” người ta
hay cầu Đức Thánh Trần ở mọi nơi, mọi
lúc. Lễ hội ở đền Kiếp Bạc xưa thường có
bói toán, xóc thẻ, lên đồng, tế lễ trừ tà ma,
bát quyết... rất cầu kì. Các vật phẩm đem
đến lễ, ngoài của ngon vật lạ người ta hay
làm cỗ sống (có khi cả một con lợn mổ thịt
rồi để nguyên đưa vào lễ ở trong đền). Ngày
hội, trên sông Laục Đầu có hàng nghìn chiếc
thuyền đánh cá của ngư dân vùng biển
Đông Bác đổ về cập bến tham dự từ khi
khai hội đến ngày kết thúc. Trên bến là chợ
bán đủ các hàng nông sản và sản phâm
làng nghề các địa phương của xứ Đông và
S HỆ 1q ] R R
vùng Kinh Bắc ”.
Quanh bán kính độ mươi cây số từ Côn
Sơn - Kiếp Bạc - Yên Tử còn có hàng trăm
đình, đền, chùa, miếu mà nổi tiếng nhất là
8 cổ tích ở huyện Chí Linh xưa (Chí Linh
Bát Cổ). Theo sách Đại Nam: nhất thống
ehí của Quốc sử quán triều Nguyễn, 8 cổ
tích - thắng tích ấy là: 1. Dược lĩnh cổ uiên;
9. Tiêu ẩn Cổ Bích; 3. Nhạn Loan cố độ; 4.
Trạng Nguyên cố đường; 5. Phao Sơn cổ
thành là thành cổ Phao Sơn triều Mạc trên
núi Phao Sơn bên sông Lục Đầu; 6. Linh
Phi cổ pháp; 7. Thượng tể cổ trạch và 8.
Ngoạ Vân cổ tháp.
b. Vùng hang động Kính Chủ ö linh
Môn và huyện Thuy Nguyên là một dạng
dị tích hang động 0à lèn núi đá ôi tìa
đồng bằng ven biển, pha trộn giữa tôn giáo.
tín ngưỡng mang chức năng của ca đình,
đền, chùa và miếu mà không gian thờ được
đặt vào (đợi dụng) trong một nơi bí hiểm
của tự nhiên để tạo nên một cõi vừa hư vừa
thực cả bên ngoài và bên trong di tích như
hang Chùa Mộ, động Tâm Long. am Bạch
Vân (Kinh Môn)... Tiêu biểu thuộc dạng
này là động Kính Chủ, được coi là một
“Vân thạch thư thất” (nhà sách trên đá) ö
dãy núi Dương Nham, hoặc như các di tích:
núi Voi, động Chùa Hang, chùa Long Hoa...
núi U Bò, chùa Hàm Long ở núi Vân Ô,
chùa Lân Động... (huyện Thuy Nguyên).
e. Dạng di tích văn hoá gắn liền với
việc đề cao giáo dục, là các văn miếu, văn
chỉ, giảng đường, bia kí ghi danh... Điền
hình là văn miếu Mao Điền, được coi là một
trường học cổ lớn nhất xứ Đông. Hiện còn
hai toà nhà kiến trúc thời Lê, trùng tu vào
thời Nguyễn. Sử cũ ghi lại, khi khởi dựng,
kiến trúc văn miếu Mao Điển giống như
văn miếu Quốc Tử Giám (ở Hà Nội), có hậu
đường, tiền đường, tây vu, đông vu, đền
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Đ]
Khải. Di tích Chu Văn Trinh tiên sinh từ
(đền thờ Chu Văn An) khi ông từ quan
"thoái vị sư" về núi Phượng Hoàng dạy học.
Hay như "Thế khoa đường" và tấm bia đá
khắc in bài thơ khuyến học rất quý bằng
chữ nôm ở làng Mộ Trạch. Chùa Trăm
Gian ở xã An Bình (huyện Nam Sách) hiện
còn nhiều đi vật quý. Chùa này xưa là một
thư viện lưu giữ một lượng bản khắc gỗ ván
in đồ sộ của các thợ khắc in sách về kinh
Phật và sách khảo cứu của nhiều tác gia
thời phong kiến hiện vẫn còn nhưng chưa
dược khai thác, nghiên cứu.
3.9. Văn hoá xã hội uà tỉnh thần
Truyền thống văn hoá và "gien di
truyền" về sự học hành đỗ đại khoa và nổi
danh của xứ Đông thời phong kiến có lẽ là
vào hạng nhất trong nước. Kể từ năm 1075
nhà Lý mở khoa thi đầu tiên đến khoa thì
cuối cùng vào năm 1919 triều Nguyễn, qua
183 khoa thi, số tiến sĩ Nho học trên đất
Hải Dương xưa là 616 người. Khoa thi lấy
người đô đầu là trạng nguyên của nước Đại
Việt vào năm 1806 đời Lý Nhân Tông thì vị
trạng nguyên ấy là Mạc Hiển Tích. Ö xứ
Đông, trong thế giới tâm linh của cư dân
đồng bằng sông nước cũng có nét ít thấy ở
các trấn - xứ khác của Bắc Bộ. Có những vị
thần được tôn thờ, được thánh hoá từ một
"môi trường nước" vào một nhân vật của
đời sống như Đoàn Thượng, sau khi chết
ông được hoá thân thành vị thần Đông Hải
Đại Vương và được thờ ở khắp các vùng
sông nước xứ Đông. Một vị thân khác là
quan lớn Tuần Tranh (được thờ ở ngã ba
sông Tranh, thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh
Hai Dương).
Trải qua nhiều thế hệ, các quy định về
lập tục, lối sống, sinh hoạt văn hoá, lao
động sản xuất, bao vệ tài nguyên môi
trường và bảo đảm an ninh xã hội... dần
thăm sâu vào đời sống con người, trở thành
các tập tục, phong cách, lề thói... tựu chung
lại là nếp làng và nếp nhà. Mà cái "nếp" ấy
chính là sức fhứi hay những dạng địa
phương của văn hoá.
Sắc thái địa phương của người xứ Đông
còn là tính cởi mở, phóng bhoáng và sự
thăng hoa của tính hướng biên. Xa rừng
nhưng không phải là nhạt biển lắm như
đặc trưng phổ biến trong văn hoá vùng của
Bắc Bộ. Không thấy ở đâu mà ngoài những
ông trạng Nho học (trạng Chữ) nổi tiếng,
xứ Đông còn có cả trạng Án, trạng Chạy,
trang Vật, trạng Lặn, trạng Bơi, trạng Cở...
trong đời sống thực và trong cä văn học dân
gian.
Có di tích là có lễ hội. Qua nghiên cứu
100 lễ hội của xứ Đông, bước đầu chúng tôi
thấy có 43 lễ hội được tổ chức vào tháng
Giêng. 14 lễ hội tổ chức vào tháng Hai, 21
lễ hội tổ chức vào tháng Ba. Hai lễ hội kéo
đài suốt mùa xuân, 9 lễ hội tổ chức vào
tháng tâm. Các tháng khác cũng có nhưng
không đáng kể và phạm vi hẹp. Như vậy,
thời điểm tập trung của lễ hội là mùa xuân
(72%), trong mùa xuân lại tập trung nhất
là vào tháng giêng (44%).
Lễ hội ở xứ Đông có nhiều nét đặc sắc.
Hội chùa Đồng Ngọ (Thanh Hà) có tục
đánh Chuông. Hội chùa Hào Xá (Thanh
Hà) có tục đua thuyền và nấu cơm thi trên
thuyền nan, tục bắt vịt. Hội đền Quát (Gia
Lộc) là một hội thi bơi chải trên sông của
các Hà Chài (các làng đánh cá cư trú ven
sông) thu hút hầu hết các làng làm nghề
đánh cá ven sông thuộc Hải Dương ngày
nay. Phần lễ của hội này có rước kiệu dâng
hương và tế ở đền Quát (thờ Yết Kiêu).
Hàng trăm chiếc chải (thuyền bơi) được
trang trí các giống rồng, phượng, chim, cá...
Tay bơi chít khăn đầu rìu, áo chẽn màu.
thất lưng xanh hoặc đổ. Người đứng đầu
chải gõ mỗõ phất cờ xướng những điệu vui
nhộn, các tay bơi hoạ lại để lấy đà bổ đầm
cho khớp tạo nên sức mạnh ví dụ: Xướng:
)2
PHAM HIỆP
Nào giai di! Hoạ: - Dô huậy. Bổ cho sâu! -
Dô huậy. Vươn cho đài! - Dô huậy. Giai ở! -
Dô huậy. Cố mà lên! - Dô huậy. Hoặc: Cô
yếm xanh! - Dô huậy. Lấy anh gõ mỗi - Dô
huậy. Cô yếm đỏ! - Dô huậy. Lấy anh phất
cờ! - Dô huậy. Những cô ngồi bời - Dô huậy.
Lấy các anh bơi chải! - Đô huậy... Người
cầm nhịp nhanh nhẹn, tháo vát và hài hước
đặt ra những lời hóm hỉnh, ngắn gọn, gây
cười để những tay bơi phấn khích tăng
thêm sức mà giành chiến thắng. Hội đền
Sượt (xã Thanh Bình, thành phố Hải
Dương) có tục đánh bệt (đánh hổ dữ) và
dâng cúng thứ rượu Hoàng tửu được chưng
cất rất cầu kì. Hội chùa Giám (Cẩm Giàng)
có tục bốc thuốc lấy khước cầu sức khoẻ.
Hội chùa Trông (Ninh Giang) có tục rước
nước ở giữa dòng sông Luộc về tắm tượng
và thay áo. Chiếc áo thay ra cắt nhỏ, chia
cho các giáp và khách thập phương đem về
lấy khước gọi là đải miễu để trừ tà ma, tật
ách. Hội đền Sinh (Chí Linh) có lễ phồn
sinh. Hang đá trên núi có hình linh vật âm.
Bên trong có chiếc "chày" (dương) và chiếc
"cối" (âm), bên ngoài có hình "đầu tre con"
đều bằng đá. Tín ngưỡng dân gian cho rằng
người muộn con hay con ốm yếu thì đến
đây làm lễ, đem "chày giã vào cối" và "xoa
đầu trẻ" thì lĩnh ứng và toại nguyện.
Hội chọi trâu Đồ Sơn “mồng chín tháng
tám” khá đặc biệt. “Dù ai buôn đâu bán
đâu. Mồng chín tháng tám chọi trâu thì uê"
là câu ca dao đã đi vào đời sống không biết
từ thuở nào. Có người cho tục chọi trâu là
truyền thống thượng võ của dân tộc. Có lẽ
còn hơn thế. Đó cũng vân là những lễ nghi
trong nông nghiệp của người Việt vùng
chiêm trũng. Đồng bằng ven biển vốn ít
trâu, nên “con trâu là đầu cơ nghiệp,
chiếm vị trí độc tôn trong loại tài sản có giá
trị của nhà nông. Kinh nghiệm chọn trâu
khoẻ ở Đồ Sơn không ở đâu bằng. Những
eon trâu khoẻ là loại độc khoang, tha ức,
trường đùi, đuôi trai, da bạc. Và trâu chọi
thì thêm: sừng uênh, mình trường, da udi,
lông sâu róm, cổ thon, tai nhỏ, mắt đó, mu
mắt dày...
3.3. Đặc biệt, xứ Đông còn có nhiều
hoạt động binh tế mang tính chất xã hội uè
uăn hoứ vùng chiêm trũng rất điển hình.
Vài chục năm trước đây các làng quê vùng
chiêm trũng ở Tứ Kì, Ninh Giang, Thanh
Hà của Hải Dương, vào cữ tháng một (âm
lịch), thời kì nước ở cửa các sông, lạch rút
nhanh, chỉ độ đăm bảy ngày là phơi bờ bỏ
bãi. Giặt hái lúa mùa muộn đã xong, các
làng ở vùng này nô nức vào Hội đánh sông.
Gió heo may, cá đồng rút xuống các mương
ngòi trong nội đồng và những đoạn sông
nhỏ, độ sâu chỉ còn độ 1m. Những cư dân
ven bờ sông tập trung cả già trẻ, gái trai
thành một đội quân quy mô đem đầy đủ các
loại "vũ khí" đánh bắt như vó, nơm, dậm,
rập, lưới, chải, rổ, giỏ... ào xuống sông, ngòi.
Trẻ em, phụ nữ thì đánh bắt ở ven bờ, bằng
vó, dậm, nơm nhỏ, đàn ông và thanh niên
khoẻ mạnh thì đi vào giữa dòng dùng các
dụng cụ đánh bắt lón như rập, lưới, chài...
có khi úp được cá phải lặn xuống để bắt
nên họ chỉ mặc quần đùi, đầu để trần. Có
một dụng cụ nhỏ bé mà người đánh sông
thường đeo luôn vào bên sườn là dây xiên
cá. Xiên làm bằng cật tre "bánh tẻ" được
chẻ ra vót nhọn một đầu dài độ 10em, bản
rộng 1em. Đầu kia buộc một sợi dây tơ tằm,
dây gai hoặc cước thật chắc. Có người còn
làm xiên bằng xương trâu bò, chạm trổ và
đánh bóng để dùng trong nhiều năm. Bắt
được cá thì xiên qua mang rồi deo vào
người cho tiện mỗi khi lặn ngụp. Người ta
có cách buộc chặt xiên cá vào bên người mà
không ảnh hưởng đến việc đánh bắt dưới
sông.
Thông thường, việc đánh sông được bắt
đầu vào một giờ nào đó, có khi giữa trưa
hay nửa đêm, khi nước thuỷ triểu rút
mạnh. Những người ở rìa sông quan sát
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
được và hô lên: "đánh sông, đánh sông
thôi!" Thế là tiếng gọi truyền râm ran cả
làng. Từ xóm này sang xóm khác đồng loạt
bật dậy khi đang ngủ say hoặc cùng bỏ đỏ
công việc, ca nhà vớ lấy dụng cụ và cùng
hăm hở chạy ra nhập vào đoàn. Thường
thường người ta lập các đoàn đi ngược lên
ngon sông, đánh xuôi về cửa sông không
phân biệt ranh giới của làng nào. “Cá dưới
sông, may aL thì người ấy được”. Khi mọi
người đã ào xuống sông rồi thì chỉ còn nghe
tiếng ồn ào của tiếng nơm úp rập. Mỗi khi
có người bắt được con cá to thì mọi người
cùng reo lên cổ vũ. Tốc độ "hành quân" của
đoàn đánh cá phụ thuộc vào việc nước rút
nhanh hay chậm. Có khi vừa đánh vừa đợi
nước rút, có lúc phải ào đi vì nước cạn quá
nhanh. Thường mỗi buổi đánh sông diễn ra
trong vài ba giờ đồng hồ, đôi khi diễn ra cả
ngày vì người ta theo nước từ ngòi ra sông
lớn. Có người được nhiều cá quá, say sưa
phải chuyển cho con cháu mang về nhà
trước rồi đi tiếp. Vào dịp này người ta
thường vui vẻ tặng các bạn không may vài
ba con đem về "để lấy khước" nhưng thật ra
đó là sự giao hảo trong ngày hội. Thời gian
đánh sông hàng năm diễn ra khoảng 10 -
15 ngày cuối tháng một, đầu tháng chạp.
Sau mỗi buổi đánh sông, làng xóm vui
như tết. Bếp nhà nào cũng thơm mùi cá
rán, cá nướng, canh riêu. Trẻ em xách cá,
bưng cá đi biếu thầy giáo, biếu ông bà, thầy
thuốc, chủ nợ hoặc người mà gia đình mang
ơn. Người lón rung đùi bên cút rượu và
mâm cơm có nhiều món cá được chế biến
phong phú. Đây là hoạt động khai thác sản
phẩm thiên nhiên, không ai phải bỏ vốn
đầu tư. Một trận đánh sông có thể được từ
dăm bảy cân cá, cải thiện nhiều bữa ăn
tươi. Người "sát cá", may mắn được nhiều
hơn thì bán đong gạo, mua sắm, may áo
quần cho trẻ. Đánh sông thực sự là ngày
S
hội tưng bừng, no say, vui vẻ ở các làng quê
vùng chiêm trũng, cửa sông của xứ Đông.
Hội thi pháo đất có lẽ cũng là một lễ
hội tương đối đặc biệt ở các làng xã dọc
đường 17 và ven sông Luuộc của hai huyện
Tứ Kì và Ninh Giang (Hải Dương ngày
nay). Từ cuối tháng ba, đầu tháng tư âm
lịch (cuối xuân, đầu hè) khi nông nhàn, thu
hoạch vụ chiêm chưa tới, ở các làng Chiềng,
Đọ, Bùng, Bõ, Bói Vé, Tranh, Hóp,
Nguyễn, Hoà... (Ninh Giang) hoặc Chợ
Đồn, Quý Cao, Tiên Động (Tứ Kì) thường
nghe tiếng nổ vang đội "ình", "ình" phát ra
thưa nhặt. Đó là những ngày chuẩn bị cho
hội thi pháo đất. Phạm vi và quy mô có thể
trong làng hoặc vài ba làng với nhau. Mấy
năm gần đây, hai huyện Tứ Kì và Ninh
Giang giao ước với nhau luân phiên mở hội
thi pháo đất như một lễ hội truyền thống
về thể thao để tưởng nhớ các quân sĩ thời
hai bà Trưng đánh giặc Đông Hán, ôn lại
chiến công xưa đã dùng pháo đất gây tiếng
nổ liên hồi và tiếng hò reo làm áp lực phá
thế bao vây của giặc. LỄ hội còn làm vui
thêm cuộc sống sau những ngày lao động
cực nhọc để chuẩn bị bước vào mùa gặt tới.
Trò vui lại dùng nguyên liệu tại chỗ trên
đồng đất quê hương, chẳng tốn kém gì.
Vốn văn hoá xứ Đông còn phải kể đến
sự phong phú về văn hoá dân gian, văn học
- nghệ thuật, mĩ thuật, kiến trúc và âm
thực... Ví dụ, hát xướng cũng là những cuộc
trình diễn khá phức tạp và thú vị. Đôi khi
là một cuộc tế thành hoàng được "văn nghệ
hoá" trong dân gian với đủ các bước hành
tự và nghỉ lễ để "thần và người" hoà hợp,
chung vui. Có những cuộc diễn xướng ở sân
đình trang phục lộng lẫy và oai vệ như một
"triểu đình" đang hoạt động. Người xem
náo nức thâu đêm. Cũng có khi mở hội làng
mời ä đào về hát. Trong khi hành lễ "diễn
viên" vừa hát vừa múa theo trình tự của
54 PHẠM HIỆP
chủ tế theo "chín khúc" (cửu khúc). Các
"khúc" ấy gồm: I1. Nguyên hoà khúc (hát
dâng rượu), 9. Thới hoà bhúc (rước thần
vào tại vị), 3. Thọ hoà bhhúc (dầng rượu
tuần đầu). 4. Dư hoà khúc (dâng rượu tuần
thứ hai), 5. Ninh hoà bhúc (đãng rượu tuần
thứ ba, tuần cuốt, theo phong tục của người
Việt là "rượu ba tuần"), 6. Hồi hoà bhúc
(nhận rượu lộc của thần ban cho và uống, 7.
An hoà bhúc (cáo biệt thần và cầu an), 8.
Thuần hoà khúc (chờ mong thần ban thêm
phúc, lộc) và Ø9. Ứng hoà khúc kết thúc
phần tế thần để chuyển sang các cuộc vui
khác). Cũng có một số cuộc lễ còn hát thêm
bài "tạ ca" để tạ ơn thần linh.
Căn cốt của xứ Đông xưa, nay vẫn
thuộc về tỉnh Hải Dương ngày nay. Vùng
đất thuộc Hải Phòng ngày nay là nơi cư
dân xứ Đông xưa tiến dần ra các cửa sông
và ven biển trong một quá trình lịch sử lâu
đài nên sự tụ cư muộn hơn so với các làng
mạc thuộc Hải Dương ngày nay. Tỉnh Hải
Dương cho đến nay vẫn được dân gian gọi
là tỉnh Đông - xứ Đông. Vùng đất này vừa
mang đậm nét truyền thống văn hoá của
người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. lại vừa có
sắc thái riêng làm phong phú nền văn hoá
dân tộc. Vì vậy, nó rất cần được nghiên cứu
sâu nhằm góp phần xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân
tộc, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước hiện nay.
F.n
(1) Phạm Đình Hồ: Vũ Trung tuỳ bút,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
((3) Nguyên Trãi toàn tập, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1978.
(3) Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Văn hoá
Uuùng uà phân Uùng Uuăn hoá Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
(4) Phạm Hiệp, Báo Hai Phòng cuối tuần,
số 37 (2000).