PHẠM VĂN TÚ - Tín ngưỡng thờ cá voi. . 4 6

TÍN NGƯỠNG THỜ CÁ VOI Ở CÀ MAU

PHẠM VĂN TÚ

kính và gọi là cá Ông. Thực ra, theo các nhà hải dương học thì cá Voi là một loài động vật biển có tên khoa học là Balaenus thuộc bộ Cetacea, họ Balaenidae có nguồn gô"c từ loài động vật ăn thịt sống trên bờ và dưới cạn. Khoảng 70 triệu năm về trước, loài động vật này chuyến xuống nước và thích nghi với môi trường mối, từ đó chúng biến đổi cơ thể để trỏ thành loài động vật dưới nước. Vì là loài động vật sông dưói nước, cá Voi có các đặc điểm:

- Thở bằng phổi chứ không thỏ bằng mang như các loài cá

vú)

- Nuôi con bằng tuyến sữa (động vật có

- Đuôi nằm theo chiều ngang với mặt nước biển (horizontal)

ín ngưỡng thờ cá Voi là hiện tượng văn hóa dân gian phổ biến từ bờ biến miên Trung vào đến các tỉnh ven biển Nam Bộ đến tận Cà Mau - Kiên Giang. Tín ngưỡng thờ cá Voi được thực hiện ở các cơ sở thờ tự thường gọi là lăng Ông và các hành vi thờ tự tập trung nhất vào ngày cúng tế hằng năm là ngày lễ hội nghinh Ông. Sự lan tỏa của tín ngưỡng này diễn ra cùng với sự phát triển của người Việt ở vùng biển miền Trung vào khai thác đánh bắt thủy hải sản tại vùng biên Nam Bộ và sau đó một bộ phận ngư phú định cư ở nơi đây.

Trong khảo cứu này chúng tôi đề cập đến một sô" vấn đề có liên quan đến tục thờ cúng cá Voi ở Cà Mau mà điểm tập trung nhâ"t là ở cửa biển sông ông Đốc

Đốĩ tượng thờ cúng của tín ngưỡng này là cá Voi mà người đời suy tôn lên với sự thành Vối những đặc điểm này, cá Voi là động vật sống dưới nước nhưng không thể sông ở tầng sâu được vì phải hít thở bằng phổi. Khi gặp sóng to gió lốn, cá Voi tránh nạn bằng cách ẩn nấp vào những vật lớn (thường là các thuyền ghe lốn) rồi cùng vào bờ, do đó thường hay mắc cạn ở gần bò. Chính vì đặc tính này mà dân gian cho rằng, cá Voi chết vì mắc cạn do đưa thuyền vào bờ, cứu mạng ngư phủ qua cơn sóng gió.

Bên vách tường của lăng thờ cá Voi ở hòn Đá Bạc

ơ một khía cạnh khác, tập tính kiếm mồi của cá Voi là tìm những bầy cá nhỏ ở những khu vực tương đối gần bờ như cá thu, cá mòi, cá ngừ... Theo b ả n năng, nhữ ng loài cá này khi thây bóng dáng cá Voi thì chúng dồn nhau chạy thành từng đàn. Người ngư dân liên hệ hai sự kiện này lại vối nhau và cho rằng cá Voi đã chỉ dẫn và lùa cá giúp ngư dân được một mẻ lưới bội thu.

TCVHDG SỐ 3/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ồi 4 7

ngài xé chiếc áo cà sa thành muôn mảnh, thả trên mặt biển, làm phép biến thành cá Voi nhưng lúc đầu thân hình cá quá nhỏ đê đảm đương trọng trách cứu người, ngài mượn bộ xương của ông Tượng trên rừng lồng vào thân cá đê cá có thân hình to lớn. Sau đó ban phép “thâu đường” (rút ngắn con đường lại) nhờ đó cá nhanh chóng cứu giúp người lâm nạn. Sau đó Phật bà ban cho những người đi biên mười hai câu

nguyện gọi là thập nhị đại nguyện để cầu cứu cá Ong mỗi khi gặp nạn trên biến [1, tr.117].

Từ những nhận thức đơn giản đó, cá Voi đã được thiêng hóa thành những huyền thoại, truyền thuyết, mang đậm tính chất thần thoại tích hợp với Phật giáo.

Bên cạnh đó, với chức năng là Ngư tướng của Phật bà, đi bên cạnh cá Voi luôn luôn có sự hộ tông của một đội âm binh gồm cá đao, cá mực, tôm, cá ép. Cũng theo truyền thuyết này, nếu cá Ong thấy người bị lâm nguy mà không giải cứu sẽ bị cá đao xử tội.

Xuất phát từ truyền thuyết này, trong lăng cá Ông ở sông Ông Đốc hiện nay người ta vẫn thấy cặp đao của cá đao được thờ ở vị trí hai bên hương án thờ cá Ông.

Dựa vào thông tin chúng tôi thu thập được, các truyền thuyết có nguồn gô'c của người Chăm thường kể về cá Voi như sau: "Cá Voi vôn là hóa thân của vị thần biển tên là Cha-Aih-Va, vì nôn nóng trở vê' xứ sở sau một thời gian khổ luyện pháp thuật, vị thần này đã cãi lời thầy, tự ý biến thành cá Voi ra sông lớn mà đi, sau đó bị thầy trừng phạt. Cha-Aih-Va bị các loài thủy tộc ở biển Đông hành hình, bị hóa thành Thiên Nga... sau cùng trở lại hình người. Cha- Aih-Va đổi tên và tự xưng là Pô-Ri-I-Ăk tức là thần sóng biển. Từ đó trở đi, vị thần này là ân nhân của những người đi biển bị đắm thuyền. Mỗi khi nghe nạn nhân kêu cứu, vị thần này hóa thành cá Voi tới cứu thuyền và người bị nạn" [2, 5].

Các truyền thuyết vê' cá Voi cứu người ở bờ biển miền Trung và một vài khu vực biển ỏ Nam Bộ đã được lịch sử hóa theo những sự kiện lịch sử có th ậ t vào thời Gia Long trên các chặng đường thoát thân khi đương đầu với quân Tây Sơn. Các truyền thuyết này đều nói đến việc cá Voi cứu vua G ia Long th o á t khỏi q u a n q u â n Tây Sơn ở những địa danh cụ thê như:

- Vùng biển Kì Hoa và cửa Sót (Hà Tĩnh): “Khi Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ đánh chiếm thành Gia Định lần thứ ba, phải bỏ chạy ra biển để sang Xiêm. Thuyền ra đến Theo tác giả Toan Ánh, truyền thuyết người Việt vê' cá Voi được lưu truyền đại để như sau: Một hôm, P hật bà Quan Am trong một chuyến tuần du vùng biển phương Nam, thấy cảnh khổ của chúng sinh khi phải đương đầu và chết chìm trong giông tố,

PHẠM VĂN TÚ - Tín ngưỡng thờ cá voi... 4 8

ngoài khơi thì hết nưóc ngọt. Trước tình trạng nguy khôn đó, bỗng xuất hiện một cá Voi dâng đến cho dòng nước ngọt, cứu quan quân khỏi chết khát. Sau đó trên đường đi, đoàn thuyền lại gặp bão lón. Một lần nữa cá Voi lại hiện đến cứu, đưa thuyền lánh vào đảo Côn Sơn. Vì vậy, sau khi lên ngôi, nhớ ơn cứu mạng Gia Long phong sắc cho cá Voi là Nam Hải Ngọc Lân” [4].

Ông Đốc có con là ngử phủ đi làm thuê cho tàu của ông út Bí, khi con ông Tư Ngàn ra khơi, hôm đó biển động dữ dội, giông rất lớn trong lúc đang phụ lưởi thì bị gió giật té xuống biển m ất dạng. Tàu vào bờ báo cho ông Tư Ngàn và gia đình tổ chức tang sự. Trong khi đó con ông trôi tởi Đá Bạc (cách đó khoảng 20km) thì được ghe lưới Kiên Giang vớt lên. Thời gian từ khi rớt xuống biển cho đến khi được vớt lên là một ngày một đêm. Khi kể về thời gian này, anh cho biết khi đã gần kiệt sức, anh khấn vái xin cá Ông cứu mạng và sẽ cạo đầu, ăn chay trường thờ cá Ông. Sau đó anh cảm thấy phía dưới lưng được đỡ lên và có cảm giác như nằm trên tấm phản gỗ, trôi nổi một ngày một đêm cho đến khi được vớt lên.

- Vùng biển Quảng Nam Đà Nẵng: “Gia Long trên đường chạy trôn quân Tây Sơn, khi đến Cù Lao Chàm thì bị quân Tây Sơn rượt sát nút. Trong lúc nguy cấp, vua cầu trời khấn Phật, bỗng đâu một con cá Voi khổng lồ hiện ra nổi lên từ mặt nước xông đến phía quan quân Tây Sơn quẫy mình gây sóng gió làm đắm một số thuyên của quân Tây Sơn. Khi lên ngôi, Gia Long phong tặng cá Voi danh hiệu Ngọc Lân Nam Hải cự tộc" [4].

- Vùng biển Gò Công Tiền Giang: “Gia Long khi còn là hoàng tử Nguyễn Ánh bị săn đuổi bởi nghĩa quân Tây Sơn đã phải chạy thẳng vào vùng cực Nam ở Soài Rạp (giũa Gia Định và Gò Công). Một trận bão cuồng điên nổi lên. Chiếc thuyền lớn tròng trành như sắp lật. Vị vua tương lai cầu khấn trời. Thế là một điều kì diệu xảy ra: một con cá Voi xuất hiện, nó đội thuyền lên và bơi thoát ra khỏi vùng bão rồi đặt thuyền cặp bãi Vàm Láng (Gò Công)” [1, tr.117].

- Vùng biển Cà Mau: Các ngư dân ngư phủ ở Cà Mau cũng thường kể đến thần tích của cá Ỏng tương tự như ở Gò Công, nhưng đa số câu chuyên về cá Voi ở nơi đây không mang nặng ý nghĩa lịch sử hóa mà mang ý nghĩa thực tiễn và được phổ biến theo hình thức truyền miệng. Một số truyện kể về công đức cá Voi tiêu biểu như sau:

+ Năm 1966, ông Nguyễn Văn Ngàn (tự Tư Ngàn) ở khu vực II thị trấn Sông + Hiện nay, tại khu di tích thờ cá ông ở Đá Bạc, trên tấm vách bên ngoài tường của điện thờ, người ta còn thấy lời tường thuật được ghi bằng chữ sơn màu đỏ của một ngư dân thoát nạn nhờ sự cứu giúp của cá Voi như sau: “Vào ngày 29 tháng 4 năm 1966 âm lịch tôi đang đi trên ghe cào ngoài khơi (thuộc đảo) Hòn Chuôi, ghe bị phá nước (nước tràn vào ghe do bị nứt lườn) lại gặp trận giông to sóng lơn phủ vào ghe chỉ còn lá be (một miếng be bể ngang khoảng từ 20cm-60cm, ghe được ghép lại từ nhiều miếng be) nữa là chìm. Tôi định năm anh em phải chêt, tôi đã vái ông: Sông được vê nhà tôi xin cạo đầu. Lúc đang tá t nước thì ghe nổi lên, thấy ghe th ậ t nhẹ nhàng còn sóng thì êm, đúng bôn tiếng đồng hồ vào tới làn nước đục vùng nước cạn gần bờ), ngang m ũi Hòn Đá Bạc, tôi nghe ghe chuyển một cái, nhìn thấy một khôi đen, da láng cách mũi ghe 10m. Tôi tránh qua thì ghe chìm xuông, song đưa tôi vào mũi Hòn. Lúc này tôi mói biết Ông “độ” (phù hộ). Tới Hòn tôi thấy khôi đó là đầu Ông ngang khoảng 3m, không thấy chiều dài, sóng dập tàu vào đá giật tởi bảy lần, năm anh em lên được bờ đá, lúc đó ghe chìm” [xem ảnh].

TCVHDG SỐ 3/2007 - NGHIÊN c ứ u TRAO Đ ổi 4 9

Bên cạnh cách nhìn nhận từ góc độ dân gian vê sự linh thiêng và tính từ thiện của cá Voi, trong các thư tịch cổ của triều đình cũng nhìn nhận vê sự kiện này như sau:

vể địa điểm ở cửa sông Ông Đốc để tiện việc cúng tế khi ra khơi hoặc thuận lợi cho việc thờ tự, nhang khói đôi với mọi người dân ở nơi đây. Vào năm 1949, tàu tuần Pháp bắn pháo vào sông Ông Dô/, lăng ông bị cháy và hư hao nặng, ngư dân ngư phủ tìm lại được một số xương cốt cá cho vào quách dời tạm về vàm Rạch xẻo Đôi thuộc khu vực trong dinh của quận Sông Ông Đốc cất miếu đê thò. Ó vị trí này việc tổ chức thờ tự trở nên khó khăn vì một khi cúng lễ phải đi qua dinh quận. Năm 1960, sau khi chính thức thành lập quận Sông Ông Đốc, chính quyền chế độ cũ buộc dân chúng phải dời lăng. Đến năm 1963, quận trưởng quận Sông Ông Đốc là đại uý Trần Văn Tâm kí cho phép xây dựng lăng nằm trên địa phận đồn cũ là khu vực lăng ngày nay.

- Trịnh Hoài Đức trong cuốn Gia Định thành thông chí viết: “Cá biển có cá Voi đầu tròn, ở trán có lỗ phun nước, mũi miệng như con voi, mình trơn láng không có vảy, đuôi chẻ đôi như đuôi tôm, tính hiền lành, hay cứu giúp người. Người đánh cá thường gọi để lùa cá vào lưởi. Thuyền đi biển bị đắm, cá này thường đưa người lên bờ. Dân vùng biển đêu kính lễ. Có xác cá ấy trôi giạt vào đâu thì ngư dân góp tiền vải, sắm quan tài để liệm chôn, lấy người trùm ngư dân làm tang chủ, lập đên phụng thò. Trong điện thờ phong làm Nam Hải Tướng Quân, vì là ở biển Nam Hải thì mối linh ứng, còn ở biển khác thì không. Mỡ cá ấy chữa bệnh chẩn đâu, phong nhiệt, m ắt đỏ” [3, tr.167].

Nơi thờ cúng cá Voi thường là nơi có cá Ông “luỵ” (chết) tại đó và theo tập tục của ngư dân vùng biển thì người đầu tiên thấy cá Voi chết phải là người chịu tang vì người đó chính là con của cá. Ớ Cà Mau hiện có bôn di tích thờ cá Voi thường được gọi là lăng (nơi có để xương cốt cá).

- Lăng thờ cá Voi tại cửa sông Ông Đốc: Đây là lăng thờ cá Voi lớn nhất trong tỉnh. Lịch sử của lăng cũng đã trải qua mấy độ thăng trầm theo sự thăng trầm của lịch sử. Cá Voi được thờ vào năm 1926 bởi nhóm ngư dân cất miếu thờ tại vàm Rạch Ruộng nhỏ bằng vật liệu cây lá địa phương. Năm 1927 ngu' dân mới bắt đầu xây lãng thờ tại phía đông vàm Rạch Ruộng nhỏ theo hình thức giống như một đình làng gồm có tiền sảnh (nhà võ ca), chính điện, Đông lang là nhà khách, Tây lang là nhà khói (nhà bếp). Đến năm 1930, theo nguyện vọng của mọi người dân, ban trị sự quyết định dời lăng - Lăng thờ cá Voi tại Đá Bạc: Đá Bạc là một địa danh thuộc xã Khánh Bình Tây cách huyện lị huyện Trần Văn Thời khoảng 20km. Đây là địa điểm giáp biển có thắng cảnh với những hòn đá màu trắng xêp chồng lên nhau giữa biển và bên cạnh đất liền là đồng bằng và khu rừng tràm bạt ngàn. Lăng được xây dựng cách đây không lâu. Vào khoảng tháng sáu năm 1995, ngư dân phát hiện xác cá Ông trôi giạt vào bờ ở địa danh Giá Bảy thuộc xã Khánh Bình Tây. Cá có chiều dài 13m, đường kính rộng nhất là 2,5m, hiện nay nguyên bộ xương cá còn lưu giữ ở hòn Đá Bạc. Lăng cá Voi được xây cất trong một quần thể di tích danh lam thắng cảnh vởi Dấu chân tiên bởi vêt hằn tự nhiên trên đá giống như một dấu chân người khổng lồ với đầy đủ năm ngón chân, ở vị trí sát mặt biển hướng ra ngoài khơi có Bàn tay Phật (Phật thủ) là một khôi đá tự nhiên giông như bàn tay năm ngón ở tư th ế đang bắt ấn. Đây cũng là di tích lịch sử văn hóa nơi mà cuộc nhập biên của Lê Quốc Tuý và Mai Văn Hạnh không thành do chiến công mang tên CM 12 của

5 0 PHẠM VĂN TÚ - Tín ngưỡng thờ cá voi...

lực lượng an ninh Cà Mau. Lăng được xây dựng ở độ cao của đỉnh đồi khoảng trên 200m so vởi mực nước biển. Công trình này được thực hiện trong thời gian hơn một năm vì ở vị trí rấ t khó cho việc vận chuyển vật tư xây dựng. loại hình nghệ

Trong ngày lễ này có sự hiện diện của một số ngư phủ đến từ các tỉnh miền Trung, từ Quảng Nam đến Bình Thuận, với truyền thống của nghề cá biển các hình thức tín ngưỡng cầu ngư cũng đã được thực hiện ở nơi đây (đôi khi có cả hình thức hát bả trạo, một th u ậ t diễn xướng thường được tổ chức trong các lễ hội cầu ngư ở miền Trung).

- Lăng cá Voi ở Vàm Rạch Chèo: Rạch Chèo là tên một địa danh của khu vực dân cư thuộc huyện Phú Tân cách cửa biển khoảng 17km. Lăng được thành lập vào khoảng năm 1923 với hình thức kiến trúc theo kiểu đình làng. Vì đây là vùng bãi bồi nên lăng ngày càng lùi vào trong đất liền và người dân định cư nơi đây đa số sinh sông bằng nghê' nông nghiệp nên lăng cá Voi không còn phù hợp với đời sông tinh thần của cộng đồng dân nông nghiệp nữa, thêm vào đó, qua các cuộc chiến tranh, di tích này đã bị phá hủy toàn bộ.

Các cộng đồng ngư dân ở Cà Mau đa số có nguồn gôb gần xa từ các tỉnh miền Trung hoặc từ các tỉnh ven biển Nam Bộ chuyển cư đến sinh sống ở nơi đây. Sự cộng cư này cùng với các sinh hoạt văn hóa tinh thần của nghề khai thác đánh bắt cá biển truyền thông đã đem lại cho cộng đồng ngư dân ven biển Cà Mau những hình thức tín ngưỡng thờ cúng mà tiêu biểu nhất là tín ngưỡng thờ cá Voi và các lễ cầu ngư. Tín ngưỡng thờ cá Voi có tác dụng bổ sung nhu cầu tín ngưỡng cho cộng đồng dân cư. Nếu như người Việt có các thiết chế tín ngưỡng là đình làng và các miếu thò' thần; người Hoa có các thiết chê cung thờ bà Thiên Hậu, miếu thờ Quan Công, ông Bổn... thì ngư dân ngư phủ kể cả những người sinh sông bằng các nghề nghiệp khác lại có thêm thiết chế tín ngưỡng là lăng thờ cá Voi.O

P.V.T

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Toan Ánh, Hội hè đình đám, Nxb. Trẻ.

2005, tr.117.

2. Bariavungtau.com;

Bariavungtautourist.com, “Lễ hội nghinh Ông ở Vũng Tàu".

3. Trịnh Hoài Đức, Gia ĐỊnh thành thông

chí, Nxb. Giáo dục. 1999.

4. Nguyễn Xuân Hương, Tục thờ cúng cá Ong của ngư dàn vùng biển Quảng Nam ■ Đà Nang, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Vàn hoá Hà Nội, 1997.

5. Phan Quốc Vinh, "Khám phả đảo ngọc",

My.opera.com.

- Miếu thờ cá Voi tại cửa biển Khánh Hội: Khánh Hội là một xã thuộc huyện u Minh có vị trí ở bờ biển phía tây tiếp giáp với vùng biển của cửa sông Ông Đốc. Đây là vùng cư dân chuyên sông bằng nghề khai thác đánh bắt thủy hải sản và đây cũng là nơi các thuyền ghe ở các tỉnh miền Trung đên giao lưu mua bán hải sản và thường tạm trú lại sau một đợt ra khơi. Do nguồn gôc là ngư dân ngư phủ từ miền Trung, họ đem theo tín ngưỡng thờ cá Voi nên đã cùng với ngư dân địa phương xây dựng miếu thờ. Hằng năm đến ngày cúng tế cá Voi, ở nơi đây diễn ra nghi thức cúng tê rất trang trọng và thường tổ chức hoạt động vui chơi giải trí vói các đoàn h át bội hoặc đoàn cải lương. Sau cơn bão số 5, miếu thờ cá Voi đã bị sập đổ, ngư dân đã sửa chữa lại. Nhưng vào tháng 7 năm 1999 miếu đã sập đô hoàn toàn xuông lòng sông do sự phát triển của các phương tiện giao thông thủy bộ gây ra sự sạt lở hai bên bờ.

Ngoài ra, tại làng cá xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển thường diễn ra lễ cầu ngư.