
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA GIỚI NHO HỌC
TRUNG QUỐC MẤY NĂM NAY
NGUYỄN TÀI THƯ(*)
Từ cuối năm 2004 đến nay, ở Trung Quốc, xuất hiện một hiện tượng học
thuật chưa từng có, đó là nghiên cứu, phục hưng và truyền bá Nho học.
Tháng 10 năm 2004, ở Bắc Kinh đã diễn ra lễ kỷ niệm 2555 năm năm sinh
Khổng Tử và tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế lớn về Nho học. Dự hội
thảo có khoảng 300 học giả Trung Quốc và thế giới với hơn 200 bản luận
văn khoa học về Nho học được trình bày. Sau hội thảo này, Trung Quốc
còn liên tiếp tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề về Nho học với thế giới hiện
đại và các hoạt động Nho học khác. Nhiều phương diện tư tưởng và vấn đề
của Nho học đã được đề cập. Dưới đây, tôi chỉ giới thiệu một số nội dung
cơ bản và có ý nghĩa thiết thực đối với hiện nay của các hoạt động trên.
1. Vai trò của Nho giáo trong nền văn minh đương đại ở thế kỷ XXI
Trên cơ sở nhận định của Huntington về những yếu tố cấu thành của các
nền văn minh thế giới hiện đại là văn minh Âu - Mỹ với trụ cột là Kitô
giáo, văn minh Á Đông với trụ cột là Nho giáo, văn minh Trung Cận Đông
với trụ cột là Islam giáo (Hồi giáo) xung đột với nhau và tạo nên cục diện
của thế giới đương đại, các học giả đã bàn tới đặc điểm chung của thế giới
hiện nay và sự cần thiết phải xây dựng tư tưởng làm cơ sở cho việc giải
quyết những mâu thuẫn của nó.
Mọi người đều có nhận định chung là thế giới ngày nay đang đi theo xu
hướng toàn cầu hoá, tạo nên cục diện văn minh thế giới đương đại khác với

các thế kỷ trước. Nhưng, nội dung và tính chất của văn minh đương đại là
gì thì có nhiều quan điểm khác nhau. Có người cho rằng, đặc điểm của văn
minh đương đại là kinh tế nhất thể hoá, chính trị nhất thể hoá, xã hội nhất
thể hoá. Có người lại cho rằng, đó là kinh tế toàn cầu hoá, văn minh vật
chất toàn cầu hoá, nhưng văn minh tinh thần thì đa nguyên hoá, dân tộc
hoá, nên phải thực hiện phương châm “cầu đồng tồn dị” (coi trọng cái
giống nhau, bảo tồn những cái khác nhau).
Còn về tính chất của nền văn minh đương đại, văn minh của thế kỷ XXI là
gì, thì theo các học giả, đây là vấn đề khó; vì nền văn minh này mới bắt
đầu, còn đang trong quá trình hình thành, chưa có cơ sở đầy đủ để quyết
đoán. Luận điểm của Huntington đã được một số học giả lấy đó làm căn cứ
để phân tích. Năm 1993, Huntington có bài viết với nhan đề Sự xung đột
của các nền văn minh. Đến năm 1999, ông lại có chuyên khảo Sự xung đột
của các nền văn minh và việc xây dựng lại trật tự thế giới, trong đó có dự
đoán rằng, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của xung đột văn minh. Có người cho
rằng, ý kiến của Huntington như một loại thần chú đã trở thành hiện thực
sau sự kiện 11/9/2001 (nước Mỹ bị bọn khủng bố quốc tế dội bom xuống
thành phố Niuoóc và Oasinhtơn) và tiếp theo đó là “chiến tranh
Ápganítxtan”, “chiến tranh Irắc”, làm cho cả thế giới phải lo ngại (Trương
Tiễn, Đại học Nhân dân Trung Quốc). Từ đây, có người nêu lên rằng, nếu sự
xung đột giữa các nền văn minh cứ tiếp diễn và người ta dùng bom hạt nhân
để giải quyết thì nhân loại sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt. Và, vấn đề đặt ra là, thế giới
phải chấp nhận tư tưởng gì và hành xử ra sao để mới có thể tránh được thảm
hoạ có thể xảy ra như dự báo trên.
Có người nhắc lại ý tưởng đã từng xuất hiện ở Mỹ vào đầu những năm 90
của thế kỷ XX. Đó là ý tưởng của một giáo sư người Mỹ gốc Hoa - Khổng
Hán Tư đề xuất ý đồ xây dựng “Luân lý phổ biến” cho thế giới. Ý tưởng
này được giới học thuật và thế giới toàn cầu lúc đó hưởng ứng nhiệt liệt và

trên cơ sở này, vào năm 1997, Tổ chức Văn hoá Khoa học giáo dục của
Liên hiệp quốc (UNESCO), trong hội nghị Tôn giáo thế giới họp ở
Chicagô (Mỹ) đã đề xuất Tuyên ngôn luân lý thế giới. Trong Tuyên ngôn
này, có đoạn văn như sau: “Cái gọi là luân lý thế giới không phải là chỉ một
hình thái ý thức mang tính thế giới, hoặc là một tôn giáo thống nhất đơn
nhất, vượt khỏi mọi tôn giáo hiện có, càng không phải là một tôn giáo
trong đó giữ vai trò khống chế hết thảy các tôn giáo khác. Luân lý thế giới,
trong con mắt của chúng tôi, là ý thức chung làm cơ sở mang giá trị có sức
ràng buộc, mang tiêu chuẩn không thể thủ tiêu, cùng với tôn trọng thái độ
cá nhân. Không có ý thức chung cơ sở đó đối với luân lý thế giới thì chóng
hay chầy mỗi một tập đoàn xã hội sẽ bị hỗn loạn hoặc bị chuyên chế uy
hiếp và cá nhân cũng sẽ bị tuyệt vọng”. Một số học giả tham dự hội thảo,
hoặc là công khai, hoặc là gián tiếp trong bài viết của mình, tán thành quan
điểm này và đề xuất chủ trương để đáp ứng.
Phát biểu xoay quanh quan điểm trên, trước hết là các học giả người Hoa ở
hải ngoại. Giáo sư Đỗ Duy Minh (Đại học Harvard, Mỹ) cho rằng, giữa các
nền văn minh cần phải đối thoại, chứ không phải đối đầu và xung đột. Và,
muốn đối thoại được thì chỉ có thể dùng tư tưởng “nhân” của Khổng Tử, vì
đó là “giá trị hạt nhân của văn minh Nho gia”, vì “Thông qua nhân, các loại
giá trị đều có thể được nuôi dưỡng và phát triển”, “Nhân cũng là giá trị
tổng hợp, mỗi một giá trị đặc thù đều có thể làm phong phú và sâu sắc nội
hàm của Nhân”. Giáo sư Thành Trung Anh (Đại học Honolulu, Mỹ) thì cho
rằng, với văn minh nhân loại của thế kỷ XXI, không thể dùng chủ nghĩa lý
tính phương Tây. Bởi tuy chủ nghĩa này đã tạo ra sự phát triển của khoa
học - kỹ thuật, của kinh tế và của dân chủ, pháp chế, nhưng nó cũng đưa lại
sự khủng bố, bá quyền và chủ nghĩa thực dân mới. Ngược lại, nếu thực
hiện phương châm tu dưỡng của nhà Nho mà Khổng Tử đã nêu ra là “chí ư
đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ” (mục tiêu ở đạo, căn cứ ở đức, chỗ dựa

ở nhân và vui chơi ở trong lục nghệ) và noi theo cách xử thế “vô ý, vô tất,
vô cố, vô ngã” (không cố ý, không tuyệt đối khẳng định, không cố chấp,
không cho mình là duy nhất đúng) đã có trong Luận ngữ thì thế giới tuy có
bất đồng, nhưng vẫn giữ được cục diện hoà hợp, vẫn bảo đảm được bộ mặt
“hoà nhi bất đồng” mà thời xưa Khổng Tử đã nói. Giáo sư Lý Thuỵ Trí
(Úc) cho rằng, sự sản xuất của các xí nghiệp phương Tây khiến người ta
chỉ chú ý đến lợi ích vật chất, mà không từ bất cứ một thủ đoạn nào, đã phá
hoại văn minh, phá hoại tinh thần nhân văn thì Nho giáo, với tính chất đạo
đức và văn minh của mình, rất cần thiết phát huy tác dụng để ngăn chặn xu
hướng công lợi của văn minh phương Tây. Ý kiến của các giáo sư trên
nhận được sự hưởng ứng của nhiều người, do họ sống và công tác ở Mỹ,
Úc, được trực tiếp tiếp xúc với nền văn hoá phương Tây và suy nghĩ nhiều
về nền văn hoá đó.
Trung Quốc ngày càng có quan hệ rộng mở, lượng thông tin từ ngoài
truyền vào nhiều, giới học thuật trong nước cũng có điều kiện xem xét và
so sánh văn minh Nho giáo và văn minh phương Tây. Giáo sư Trương Tiễn
(Đại học Nhân dân Trung Quốc) cho rằng, tư tưởng “trung thứ” của Nho
giáo có thể dùng làm cơ sở cho việc giải quyết các bất đồng của thế giới
hiện đại, vì nguyên tắc của “trung thứ” là “cái mình muốn thì làm cho
người” (“Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”), “cái mình
không muốn thì đừng làm cho người” (“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”) sẽ
hoá giải được các bất đồng và xung đột. Hơn nữa, theo ông, tư tưởng trên
cũng có trong Kinh Thánh của Kitô giáo, như “cần yêu người như mình”
và cũng có trong “thuyết lương tri” của đạo Islam, nên các bên dễ thừa
nhận nhau. Giáo sư Trịnh Gia Đống thì đề xuất khái niệm “hoà” của nhà
Nho; cho rằng, “hoà” dễ đi tới chấp nhận sự khác biệt và vượt qua sự khác
biệt. Ông dựa vào câu nói của Trương Tải đời Tống: “Thù hận tất phải lấy
hoà để giải quyết” (“hận tất hoà nhi giải”) và nói: Không phải là lấy oán trả

oán, anh chết tôi sống, cũng không phải là một mực thoái nhượng, nhẫn
nại, mà là dốc sức để tìm lấy một con đường hợp lý bao hàm tính khác biệt
và vượt qua khác biệt. Giáo sư Ngô Quang (Viện Khoa học xã hội tỉnh
Triết Giang) cho rằng, các tư tưởng: nhân ái, hài hoà, thành tín, trung dung
của Nho giáo có thể trở thành cơ sở để giải quyết các xung đột hiện nay
trên thế giới. Ông nói: quan niệm giá trị hạt nhân của Nho gia là bốn phạm
trù lớn: nhân ái, hài hoà, thành tín, trung dung. Những quan niệm giá trị hạt
nhân này có tính phổ quát, đang phát huy tác dụng thực tế trong tiến trình
toàn cầu hoá, hiện đại hoá và trở thành quan niệm giá trị cơ bản mà toàn
nhân loại có thể thừa nhận. Ý kiến của các học giả trên, tuy khác nhau về
nội dung cơ bản của Nho gia, song đều cho thấy sự thống nhất là có thể
dùng tư tưởng Nho gia để giải quyết các xung đột, các mâu thuẫn của thế
giới ngày nay.
Nhưng, có một thực tế là, Nho giáo đã tồn tại hơn 2000 năm lịch sử, có lúc
nó tạo được xã hội hài hoà, thống nhất; nhưng cũng có lúc nó bất lực trước
những xung đột và mâu thuẫn của xã hội. Chính quyền xây dựng trên cơ sở
tư tưởng Nho giáo phải dùng đến biện pháp bạo lực để giải quyết hoặc phải
dùng tư tưởng Phật giáo và Lão – Trang để hỗ trợ. Do đó, trong thế giới
ngày nay, với phạm vi rộng lớn hơn và phức tạp hơn bất cứ một xã hội nào
trước đó, thì việc sử dụng Nho giáo làm công cụ tinh thần duy nhất của thế
giới liệu có hiệu lực thực tế không? Đó là vấn đề còn phải tiếp tục đi sâu
tìm hiểu và biện minh.
2. Nho học và luân lý môi trường hiện đại
Trong xã hội hiện đại, luân lý môi trường ngày càng trở nên quan trọng.
Theo các học giả Nho gia, để xây dựng được luân lý môi trường, cần thiết
phải mở rộng nội hàm của khái niệm luân lý từ môi trường xã hội sang môi
trường tự nhiên, phải khắc phục sự cách biệt và đối lập giữa con người và tự
nhiên, giữa chủ thể và khách thể và phải trở về với triết học phương Đông cổ

