BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MAI MỸ HẠNH
HÀNH VI TỰ HỦY HOẠI BẢN THÂN
CỦA VỊ THÀNH NIÊN
Ở CÁC ĐÔ THỊ PHÍA NAM, VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 62 31 04 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC
Tp. Hồ Chí Minh - 2024
Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. HUỲNH VĂN SƠN
2. PGS.TS. TRẦN THỊ THU MAI
Phản biện 1: PGS.TS. BÙI THỊ HỒNG THÁI
………………………………..
Phản biện 2: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HẰNG PHƯƠNG
………………………………..
Phản biện 3: TS. TRẦN THỊ PHƯƠNG
………………………………..
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp
tại:……….................…………………………………
vào …………giờ……….ngày……….tháng………năm……….
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Đại học Sư phạm TP.HCM
- Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Tchức Y tế thế giới (WHO), hầu như bất kỳ người nào cũng đã từng thực hiện hành
vi tự hủy hoại tại một thời điểm nào đó trong cuộc sống. Hành vi này bao gồm: cố ý gây hại cho
bản thân về mặt thể chất (cắt, đập đầu vào một thứ gì đó, tự đốt bản thân, đấm vào tường), tham
gia vào hành động nguy hiểm (bài bạc, quan htình dục không an toàn, lạm dụng chất ch
thích), sở hữu mối quan hệ tình cảm lệch lạc và bỏ sức khỏe của bản thân. Trên thế giới, các
nghiên cứu cho thấy khoảng 4% người trưởng thành trong các mẫu phi lâm sàng cho biết đã từng
tự gây thương tích vào một thời điểm nào đó trong đời, thì thanh thiếu niên cho biết tỷ lệ này cao
hơn đáng kể (Klonsky ED, Oltmanns TF, Turkheimer E., 2003; Brown RC, Plener PL., 2017).
bằng chứng cho thấy việc cố tình tự làm hại bản thân đã trở nên phổ biến hơn trong những
năm gần đây. Một số nghiên cứu đã tìm thấy tỷ lệ tự làm hại bản thân cao hơn những người
thuộc thế hệ (E. David Klonsky và cộng sự, 2003).
Đặc biệt, các đô thị phía Nam, Việt Nam trung tâm công nghiệp, khoa học công nghệ, đổi
mới sáng tạo, tài chính, ngân hàng, logistics, văn hóa, y tế và giáo dục của Việt Nam. Vùng kinh
tế trng điểm phía Nam cũng là khu vực thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất cả ớc tcác dự án
FDI, khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động. Hiện nay các đô thị phía Nam đang phải đối
mặt với nhiều “rào cản”, thách thức như tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân bị chậm lại ktừ
khi dịch Covid-19 xảy ra. Điều này cũng ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội,
trong đó có công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em, vị thành niên. Giáo dục là quốc sách hàng đầu
để thúc đẩy một vùng lãnh thphát triển. Quan tâm nghiên cứu đxuất các biện pháp nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực sớm từ các vùng này điều cần thiết vì cần liên kết với nhau chặt
chẽ hơn giữa vấn đề phát triển con người và kinh tế bền vững để tạo ra sự đồng bộ với mục tiêu
phát triển chung, hướng đến sự phát triển bền vững tại khu vực kinh tế trng điểm phía Nam.
Căn cứ vào thực tiễn tình hình nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam, đtài Hành vi tự hu
hoại bản thân của vị thành niên ở các đô thị phía Nam, Việt Nam” đưc xác lập.
2. Mục tiêu đề tài
Chỉ ra được thực trạng hành vi tự hủy hoại của VTN các đô thị phía Nam, Việt Nam và các
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi này. Từ đó, đề xuất và thực nghiệm biện pháp phòng ngừa hành vi
tự hủy hoại bản thân của VTN ở các đô thị phía Nam, Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lí luận về hành vi tự hủy hoại bản thân của VTN.
- Xác định thực trạng biểu hiện hành vi tự hủy hoại bản thân của VTN các đô thị phía
Nam, Việt Nam tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tự hủy hoại bản thân của VTN ở
các đô thị phía Nam, Việt Nam.
- Đề xuất một số biện pháp phòng ngừa hành vi tự hủy hoại bản thân của VTN ở các đô thị
phía Nam, Việt Nam và tiến hành thực nghiệm điển hình một biện pháp dựa trên kết quả khảo sát
về tính cần thiết, tính khả thi từ các nhà giáo dục, nhà tâm lý học.
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện, mức độ hành vi tự hủy hoại ở VTN và các biện pháp phòng ngừa hành vi này
VTN.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu chính: vị thành niên ở các đô thị phía Nam, Việt Nam.
- Khách thể nghiên cứu bổ trợ: giáo viên, cán bộ quản lý, nhà tâm lý học, bác sĩ tâm thần, phụ
huynh.
2
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Chỉ nghiên cứu biểu hiện về mặt hành vi tự hủy hoại theo tiếp cận
hoạt động (hành vi bên trong, hành vi bên ngoài) và nghiên cứu biểu hiện hành vi tự hủy hoại
bản thân không nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tự sát.
- Phạm vi về địa bàn:
+ Nghiên cứu thực trạng tiến hành trên một số đô thị, phía Nam dựa trên phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên.
+ Nghiên cứu thực nghiệm tiến hành khu vực TP. Hồ Chí Minh dựa trên phương pháp chọn
mẫu thuận tiện.
- Phạm vi vkhách thể: Chỉ nghiên cứu trên vị thành niên đang học tập tại các trường Trung
học.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Biểu hiện suy nghĩ gây tổn tại tâm mức độ cao hơn so với các hành vi tự làm hi
chính cơ thể mình, hành vi bỏ bê bản thân của VTN các đô thị phía Nam, Việt Nam.
- Yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tự hủy hoại của VTN chủ yếu xuất phát từ các vấn đề liên
quan đến việc giải tỏa những CX tiêu cực chính bản thân như sthất vọng về bản thân, muốn
mọi người chú ý hoặc hiểu nỗi đau của họ.
- Các biện pháp phòng ngừa hành vi tự hủy hoại mức độ cao về tính cần thiết tính khả
thi. Hai biện pháp được tiến hành thực nghiệm minh chứng được tính khả thi của các biện pháp
này trong thực tiễn.
7. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận
Hành vi tự hủy hoại bản thân được các nhà nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu dựa trên sự
tiếp cận tnhiều quan điểm đthể phân tích toàn diện, hệ thống cấu trúc vvấn đề này.
Ngoài tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu khoa học như quan điểm hệ thống - cấu trúc, quan điểm
lịch squan điểm thực tiễn thì luận án kế thừa phối hợp chủ yếu các tiếp cận sau trong
nghiên cứu này tại Việt Nam, bao gồm: Quan điểm phát triển; Quan điểm nhận thức; Quan
điểm hành vi học
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng 6 phương pháp nghiên cứu, bao gồm: Phương pháp nghiên cứu luận,
phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, phương pháp phỏng vấn, nghiên cứu trường hợp điển hình,
phương pháp thống kê toán học.
8. Những đóng góp mới của đề tài
Luận án có những đóng góp mới trong vấn đề nghiên cứu này tại Việt Nam như sau:
- Về sở luận: hệ thống hóa được các công trình nghiên cứu liên quan trong ngoài
ớc; trình bày được các biểu hiện hành vi tự hủy hoại bản thân ở vị thành niên dựa trên tiếp cận
của Tâm lý học hoạt động (hành vi bên trong và hành vi bên ngoài).
- Về nghiên cứu thực trạng: luận án tiến hành nghiên cứu tại 6 tỉnh (Tp. Hồ Chí Minh, Sóc Trăng,
Bình Dương, Cần Thơ, Đồng Nai, Long An, Kiên Giang, Tây Ninh) và 2 Tp. (Tp. Hồ Chí Minh
và Cần Thơ), trong đó hành vi tự hủy hoại của VTN lần đầu được nghiên cứu tại Sóc Trăng, Cần
Thơ, Long An, Kiên Giang, Tây Ninh.
- Về đxuất các biện pháp: 7 biện pháp được đề xuất 2 biện pháp được tiến hành thc
nghiệm cho thấy hiệu quả trong việc phòng ngừa hành vi này VTN các đô thị phía Nam,
Việt Nam góp phần vào công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh trong bối cảnh hin
nay.
3
CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ HỦY HOẠI BẢN THÂN CỦA VỊ THÀNH NIÊN
Chương này sẽ trình bày tổng quan vtình hình nghiên cứu về hành vi thuhoại trong
và ngoài nước, trình bày cơ sở lý luận về hành vi tự huhoại bản thân bao gồm khái niệm, phân
loại, biểu hiện, các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi này, đặc điểm tâm lý VTN và biểu hiện hành
vi tự huhoại bản thân ở VTN.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành vi tự huhoi
Trong 20 năm qua, vấn đề nghiên cứu về tự hủy hoại được các nhà nghiên cứu trên thế
giới rất quan tâm, nhiều công trình được thực hiện thông qua các phương pháp nghiên cứu lý
luận và phương pháp nghiên cứu thực tiễn có thể khái quát lại 3 nhóm nghiên cứu chính:
1.1.1. Các nghiên cứu về biểu hiện và mức độ hành vi tự hủy hoại của vị thành niên
Trong vấn đề nghiên cứu về biểu hiện hành vi thủy hoại, tiếp cận đầu tiên là các nhà nghiên
cứu phân tích các biểu hiện liên quan cố gắng phân biệt giữa hành vi tsát hành vi
tự hủy hoại. Vào cuối những năm 1930, Karl Menninger đầu tiên đã mô tả một hiện tượng được
gọi “Hội chứng cắt cổ tay”. Năm 1952, Erwin Stengel đã giới thiệu khái nim “c gắng tự
tử” nhưng phân biệt vi “hành vi tự sát”, “có chủ ý tự đầu độc” “cý tự gây thương tích”.
ớng dẫn chẩn đoán thống các rối loạn tâm thần DSM - 5 của APA đã đưa ra phân loi
cùng các tiêu chuẩn chẩn đoán riêng biệt cho tlàm tổn thương. Trong phần tổng quan các nghiên
cứu trên thế giới này, luận án sẽ chyếu tập trung vào tự hủy hoại (Self - harm) hoặc cố ý tự hủy
hoại (Deliberate self - harm).
1.1.1.1. Nghiên cứu về biểu hiện hành vi tự hủy hoại của vị thành niên
Trên thế giới, nghiên cứu về biểu hiện hành vi tự hủy hoại thường được nghiên cứu song
hành với mục tiêu xác định mức độ tự hủy hoại bản thân. De Leo và Heller (2004), vấn đề tự hủy
hoại nguy xuất hiện nhiều hơn lứa tuổi VTN (Hawton, Bergen, Casey, Simkin, Palmer,
Cooper, J., ... và Owens, 2007).
Hawton, Bergen, Kapur, Cooper, Steeg, Ness, và Waters (2012) tiến hành phân tích đa biến
cho thấy rằng sự lặp lại liên quan đến tuổi tác, hành vi tcắt, tự gây hại trước đó điều trị
tâm thần. Người bệnh luôn có khuynh hướng làm chính bản thân mình bị đau. Họ sẵn sàng dùng
dao cắt vào tay chân, bứt tóc, đốt da hoặc cào cấu cơ thể, đấm tay vào tường…
Riêng với nghiên cứu của tác giả Huỳnh Văn Sơn cs (2017), còn nghiên cứu các biểu
hiện tự hủy hoại theo nghĩa rộng hơn bao gồm cả những suy nghĩ bi quan, tự hạ thấp bản thân
cho phép người khác làm tổn thương CX của mình…
1.1.1.1. Nghiên cứu về mức độ hành vi tự hủy hoại của vị thành niên
Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào việc khái quát tỉ l% và khá ít các công trình đ
cập đến các mức độ cụ thể. vậy, trong phần tổng quan này sẽ khái quát các nghiên cứu về mức
độ VTN tự hủy hoại bản thân qua các số liệu %. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy mức độ
VTN tự hủy hoại có mức độ từ 6% trở lên, mức độ thhiện khác nhau trong các nghiên cứu trên
nhiều quốc gia.
Đặc biệt, khi nghiên cứu về mức độ hành vi tự hủy hoại, các nhà nghiên cứu trên thế
giới còn quan tâm đến việc chỉ ra mức độ tái diễn hành viy ở VTN trong nhiều năm. Phân
tích đa biến cho thấy rằng sự lặp lạiliên quan đến tuổi tác, hành vi tự cắt, tự gây hại trước đó
điều trị tâm thần. sgia tăng rệt hành vi này các phát hiện chỉ ra rằng độ tui
bắt đầu tự hủy hoại đang giảm dần, có xu hướng trẻ hóa. Tự hủy hoại là một mối quan tâm
lớn về sức khỏe cộng đồng, đặc biệt thanh thiếu niên. Theo Matthew K. Nock (2009) cho
thấy tỷ lệ tự hại này đang tăng lên hoặc những sai lệch báo cáo giữa những người trưởng
thành khiến họ phủ nhận tiền sử tự hại hoặc cả hai. Ngoài ra, tình hình nghiên cứu sự khác biệt