
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Trong bối cảnh phát triển hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang chuyển dần từ
kinh tế công nghiệp sang kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức theo xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập, thì nguồn nhân lực ngày càng thể hiện rõ vai trò quyết định đến việc thực hiện
mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một
nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững đều phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ
bản là áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Trong đó, quan trọng nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là
những người được đầu tư phát triển về kiến thức chuyên môn, có kỹ năng, kiến thức, tay
nghề, kinh nghiệm và năng lực sáng tạo. Trước bối cảnh thế giới có nhiều biến động và
cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất
lượng cao, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một môi trường chính trị - xã
hội ổn định. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực con người trong công cuộc
kháng chiến giữ nước và dựng xây đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm
lo phát triển nguồn lực này. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII khẳng định:
“Kinh nghiệm vô giá mà chúng ta khái quát được trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt
của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con
người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người
Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”.
Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
trong đó đáng kể nhất là chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, giúp năng
suất lao động của toàn xã hội được cải thiện, tốc độ tăng trưởng khá và ổn định, từng
bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế... Tuy nhiên, nếu nghiêm túc nhìn nhận
những thành tựu đạt được trên đây so với nguồn lực đã đầu tư, với những điều kiện thuận
lợi và thời cơ đem lại, thì nguồn nhân lực ở Việt Nam đang phát triển chưa tương xứng
với tiềm năng. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung còn thấp, thiếu hụt nhân lực có
năng lực thực hành, công nhân kỹ thuật bậc cao, trình độ ngoại ngữ không đáp ứng yêu
cầu làm việc trong môi trường quốc tế, thiếu các kỹ năng mềm. Tình trạng thất nghiệp
ở nhóm lao động trẻ hoặc không phù hợp giữa công việc và trình độ đào tạo còn khá phổ
biến, năng suất lao động thấp nhiều so với các nước trong khu vực.