
TUYE
N TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 235
phần mềm mang tính học thuật và dùng nhiều cho mục đích giảng dạy và nghiên cứu,
chưa thấy áp dụng phổ biến trong thực tế và các dự án. Phần mềm cũng đang trong giai
đoạn hoàn thiện và phát triển.
2.2. Mô hình ngoài nước
Hiện nay, trên thế giới đang có rất nhiều mô hình toán ứng dụng cho việc dự báo
thủy động lực và vận chuyển bùn cát gồm cả mô hình một chiều (1D), mô hình hai
chiều (2D), mô hình ba chiều (3D). Một số các mô hình 1D, 2D, 3D có thể nói đến sau:
Nhóm mô hình 1D
Sớm xuất hiện từ những năm 1980, và đã thành công trong nhiều ứng dụng thực tế
và nghiên cứu. Hầu hết các mô hình 1D được xây dựng trong hệ tọa độ thẳng, giải phương
trình Saint – Venant cho dòng chảy và quá trình vận chuyển bùn cát sử dụng phương trình
của Exner bằng sơ đồ sai phân hữu hạn. Một số mô hình 1D có thể kể đến như:
Mô hình MOBED được phát triển bởi Krishnappan (1981) giải phương trình
Saint – Venant viết dưới dạng bảo toàn cho dòng không ổn định và phương trình liên
tục bùn cát [3]. MOBED có thể dự báo được đặc tính bùn cát của đáy sông như là một
hàm số của thời gian và khoảng cách đối với dòng chảy đơn vị khác nhau.
IALLUVIAL được phát triển bởi Karim and Kennedy (1982), mô hình này chỉ
ứng dụng trong trường hợp đối với dòng chảy ổn định [4].
SEDICOUP được phát triển bởi Holly và Rahuel (1990), đây là mô hình mô
phỏng biến đổi đáy dựa vào phương trình Saint – Venant tính cho bùn cát hỗn hợp,
thành phần bùn cát lơ lửng và bùn cát đáy được xử lý riêng biệt [5].
Mô hình 3ST1D được phát triển bởi Papanicolaou et al. (2004); nó có khả năng
tính được nước nhảy thủy lực và mô phỏng được dòng chảy tới hạn; vì thế nó có khả
năng ứng dụng trong điều kiện dòng không ổn định, biến đổi nhanh như dòng chảy
trong các sông miền núi [6]. Tuy nhiên, mô hình 3ST1D chỉ tính cho vận chuyển bùn
cát tổng mà không tách biệt được giữa bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng.
HEC-6 do Thomas và Prashum (1977) phát triển, sử dụng sơ đồ sai phân hữu
hạn trong hệ tọa độ thẳng, giải phương trình vi phân ở dạng bảo toàn năng lượng thay
cho phương trình động lượng [7]. HEC-6 không áp dụng được đối với dòng chảy không
ổn định.
FLUVIAL 11 được phát triển bởi Chang (1984), sử dụng hệ tọa độ cong để giải
phương trình Saint – Venant 1D đối với dòng chảy. FLUVIAL 11 có tính đến dòng
chảy thứ cấp trong sông cong bằng cách biến đổi độ lớn của vận tốc theo chiều dòng
chảy [8].
GSTARS được phát triển bởi Molinas và Yang (1986), mô hình được phát triển
trong hệ tọa độ cong. Molinas và Yang đã bổ xung lý thuyết dòng năng lượng nhỏ nhất
để xác định chiều rộng và hình dạng tối ưu để ổn định điều kiện thủy lực và bùn cát [9].
OTIS được phát triển bởi Runkel và Broshears (1991) [10], sử dụng hệ tọa độ
cong. Runkel và Broshears đã biến đổi phương trình tải và khuếch tán với số hạn thêm