
Trung Đông Tiền-Hồi Giáo
5
Ngày nay, giống người này chiếm 50% dân số Iran, hầu hết nói một ngôn ngữ là
tiếng Farsi, theo một tôn giáo là giáo phái Shia Hồi giáo. 50% dân số còn lại chia
cho độ 400 sắc dân, quan trọng hơn cả là 12 triệu người Azerbaijan, 6 triệu người
Kurd, đến làm nhiều đợt, định cư ở các vùng ven biên, trừ một số theo ngôn ngữ
và văn hóa Ba Tư, hầu hết vẫn giữ ngôn ngữ và văn hóa riêng của từng sắc tộc, thí
dụ 1.2 triệu dân Turkoman nói một thổ ngữ Thổ và theo giáo phái Sunni.
Trừ dân Kurd, toàn dân, dù theo tôn giáo khác và thuộc chủng tộc khác, đều có
tinh thần dân tộc Ba Tư cao độ và tự coi là những người bảo tồn văn hóa cổ truyền
Ba Tư và bảo vệ giáo phái Shia Hồi giáo. Sắc thái đặc thù này khiến Iran có hai
mặt: Ba Tư và Hồi giáo, nói cách khác là quốc gia chủ nghĩa (nationalism) và cơ
bản chủ nghĩa (fundamentalism), mỗi chủ nghĩa có những thời thịnh suy xen kẽ.
Từ khi sống chung hòa bình trên cao nguyên Iran, các dân tộc ở đó đã biết thờ
Ahura Mazda là thiên lực thiện và giữ một ngọn lửa cháy thường trực trong đền để
làm biểu tượng cho lực ấy. Zarathushtra, mà người Hi Lạp gọi là Zoroaster, hoàn
chỉnh ý niệm này, lập ra Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đề ra thuyết nhị nguyên,
Sáng Tạo là Ahura Mazda và Hủy Diệt là Ahriman, tiêu biểu cho thiện và ác, sáng
và tối, sống và chết... Hai yếu tố này thường xuyên tranh đấu trong mọi phương
diện của cuộc sống, cá nhân và xã hội. Hết tranh đấu thì sự sống cũng hết. Tranh
đấu càng mãnh liệt thì cường độ sống càng tăng. Mỗi cá nhân có quyền tự do
quyết định đứng ở chiến tuyến nào, Mazda hay Ahriman; tùy quyết định này, khi
chết sẽ lên thiên đường hay sa hỏa ngục.
Cả hai dân tộc Media (Mede) và Persia (Perse) đều theo Bái Hỏa Giáo. Cho đến
ngày tôn giáo này bị Hồi Giáo thay thế, Iran trải qua bốn triều đại: Achaemenia,
Seleucis, Parthia và Sassania.

Bái Hỏa Giáo đã bén rễ ở Iran khi Cyrus chào đời. Zoroaster cho vương quốc của
Cyrus phần hồn và Cyrus cho Bái Hỏa Giáo phần xác. Từ sự phối hợp này sinh ra
triều đại Achaemenia và đế quốc Ba Tư kéo dài từ tk V TCN đến tk III TCN.
Nhân vật làm ra lịch sử Iran thời cổ này đã được Cựu Ước đề cập đến, như đã nói
trên đây: Cyrus, có lẽ là con của Cambyses, vua của các người Ba Tư ở Pars và
Mandane, con của Astyages, vua của Media. Lên ngôi năm 559 TK, ông bành
trướng thế lực bằng cách ôn hòa hơn là vũ lực. Năm 550 TK, ông mời vua Media
thoái vị để thống nhất Media và Persia, vẫn giữ lễ, một mực cung kính đối với
người thất thế. Thuở ấy cũng là thời Tam quốc ở Trung Ðông: Iran, Lydia và
Babylon. Cyrus đánh phủ đầu, đem quân tràn qua sông Tigris vào mùa xuân năm
547 TK, chiếm kinh đô Sardis của Lydia, bắt các nghệ nhân đem về kiến thiết
thánh địa Pasargadae của ông. Năm 540 TK ông xuất quân giải phóng Babylon
khỏi tay nhà vua Nabonidus độc tài. Khi ông vào thành, dân chúng ra qùy lạy và
hôn chân ông. Ông dương đông kích tây, tiếng thơm minh quân độ lượng nhân
đức đi trước quân đội, mở mang bờ cõi băng qua sông Nile, qua biển Aegean, qua
sông Indus, trải dài từ Phi Châu đến Tàu. Ông cư xử theo đúng giáo lý Bái Hỏa
Giáo, trị dân theo thiên mệnh, công bình và hòa bình. Năm 530 TK, ông dẫn quân
vượt sông Jaxartes tiễu trừ quân Massagetae, giết được con nữ hoàng Tomyris. Nữ
hoàng thương con, nổi điên phản công, Cyrus ngã ngựa, Tomyris vung gương chặt
đầu ông, quân lính đem xác ông về chôn ở Pasargadae.
Con ông cũng tên là Cambyses nối ngôi, đem quân vây hãm Ai Cập ba năm.
Trong nước có loạn, ông đem quân về, chết dọc đường. Năm 521 TK, Darius 28
tuổi lên ngôi, cưới vợ góa của Cambyses và một người con gái của Cyrus để được
công nhận là có quyền thừa kế. Nhưng dân vẫn nổi loạn khắp nơi, bị Darius dẹp
trong biển máu. Sau đó, Darius cải tổ quân đội và hành chánh hoàn hảo đến nỗi La
Mã phải bắt chước. Năm 517 TK ông đem quân vào Punjab, Ấn Ðộ ngày nay và
Sind, thu hết vàng chở trên xe cải tiến, rồi kéo quân lên Bắc Phi đến tận Libya.
Năm 512 ông tiến quân đến hạ lưu sông Danube, trên đường về, thần phục được

vua Macedonia và người Hi Lạp ở Thrace. Ðế quốc Ba Tư lên đến cực đỉnh;
Darius cho tổ chức lễ No Ruz ở Persepolis, cách Pasargadae 50 dặm, một lễ đài
nguy nga đồ sộ rộng 181,500 dặm vuông, nơi mà 10,000 người gọi là Bất Tử,
thuộc các danh gia vọng tộc Media và Persia họp thành quân cận vệ của vua, đứng
túc trực trong khi thần dân của đế quốc Ba Tư gồm 29 dân tộc khác nhau, diễn
hành trước ngai vàng Achaemenia. Darius chết năm 486 TK, con là Xerxes nối
ngôi. Năm 481 TK Xerxes dẫn quân băng qua Hellespont, tràn qua Macedonia,
đánh bại quân Spartia, chiếm Nhã Thành (Athens), đốt điện Parthenon đang xây
dở dang, nhưng thua quân Hi Lạp ở Plataea. Xerxes chán nản, dẫn tàn quân về
Persepolis, vùi đầu vào trụy lạc trong harem, tức là tam cung lục viện Ba Tư. Năm
465 TK ông bị ám sát. Ðến năm 401 TK anh em trong hoàng gia tranh ngôi, tương
tàn. Ba Tư của nhà Achaemenia bắt đầu suy thoái.
Năm 332 TK, A Lịch Sơn đại đế của xứ Macedonia vượt Hellespont. Vua Darius
III xin dâng đất cầu hòa không được. A Lịch Sơn tiến vào Persepolis, dùng 10,000
ngựa và 5,000 lạc đà chở chiến lợi phẩm, 120,000 lượng bạc, 8,000 lượng vàng,
các mỹ phẩm vô số kể. Nhưng chưa hết, A Lịch Sơn, học trò của Aristotle, người
tự xưng là đầy tớ của chân và mỹ (không có thiện), đã ra lệnh đốt phá kỳ công mỹ
thuật Persepolis, hy vọng là làm thế tất nhiên phá được căn tính Ba Tư. Thì ra từ
ngàn xưa mặt trận văn hóa đã quan trọng đến thế.
Sau khi A Lịch Sơn chết vào năm 323 TK, các tướng của ông tranh nhau chia đế
quốc ông để lại: tướng Antigonus chiếm Hi Lạp, tướng Ptolemy lấy Ai Cập và
Palestine, tướng chỉ huy kỵ binh Seleucis chiếm phần còn lại, Syria, Tiểu á Tế á kể
cả Ba Tư.
Cũng vào thời A Lịch Sơn chết, một sắc dân A Lỵ A từ phía đông biển Caspian
đến định cư ở Ba Tư và đồng hóa với dân Ba Tư. Trong đám họ, năm 247 TK
Arshak nổi lên chiến thắng đế quốc của Seleucis, lập ra triều đại Parthia; năm 163
TK Ba Tư thu hồi độc lập. Năm 36 TK, tại Azerbaizan, họ giết 35,000 trong số
100,000 quân của tướng Mark Antony khiến ông này phải chạy về Ai Cập với vợ

là người đẹp Cleopatra, và đế quốc La Mã phải rút về tây ngạn sông Tigris, từ bỏ
tham vọng bành trướng sang phía đông. Sau 160 năm đô hộ, văn hóa Hi Lạp vẫn
không ảnh hưởng được văn hóa Ba Tư. Triều đại Pathia phóng khoáng, cho dân tự
do tín ngưỡng, có công bảo vệ Ba Tư trong gần bốn thế kỷ (163 TCN-224 SCN).
Ardavan, vua cuối cùng của triều đại Pathia bị Ardashir (226-240 TK) giết để lập
ra triều đại Sassania (208-637 SK). Nhận ra được rằng ngôi vua của ông chỉ có thể
vững nếu được tôn giáo hỗ trợ, ông cùng các đạo sĩ (magi) phục hưng Bái Hỏa
Giáo thành một lực lượng kiểm soát sinh hoạt tâm linh và vật chất của Ba Tư và
bắt dân theo. Các nguyên tắc căn bản của Ba Tư, công bằng và độ lượng, không
còn nữa. Dưới triều con Ardashir là Shapur I (240-271), Mani (sanh năm 216) xuất
hiện ở một làng gần Ctesiphon ở Lưỡng Hà, tự xưng là tông đồ cuối cùng sau
Zoroaster, Phật và Jesus, tổng hợp giáo lý của ba vị thành Mani Giáo
(Manichaeism). Có lúc Mani được Shapur cho vào triều nhưng các đạo sĩ Bái Hỏa
Giáo thấy địa vị bị lung lay bèn cho ông chết một cách từ từ và đau đón vô cùng.
Một ông đạo khác là Mazdak nối gót Mani, cũng bị các đạo sĩ ám sát. Shapur I gây
chiến với La Mã và trong chiến thắng thứ ba bắt được hoàng đế La Mã Valerian
làm tù binh. Ông này chết trong tù. Năm 384 Shapur III (383-388) giảng hòa với
La Mã. Năm 560 Khosrow I lên ngôi, thiên đô sang Ctesiphon ở Lưỡng Hà (ngay
cạnh Baghdad ngày nay), trưng bầy những cảnh xa hoa ngược hẳn với tính giản dị
của Pasargadae buổi ban đầu. Ông chết năm 579, các thừa kế của ông lại Tây tiến,
năm 602 vào Byzantium, năm 613 chiếm Antioch, 614 chiếm Jerusalem, 616
chiếm Sardis và Ephesus, 619 chiếm Alexandria và Ai Cập, 620 đế quốc
Byzantine bị đẩy lui đến tận Constantinople.
Năm 626 Byzantine phản công, năm 628 đòi Armenia và Mesopotamia, lấy cớ dân
hai nơi này đa số theo Ki tô giáo. Ba Tư lại đòi Syria, Palestine và Ai Cập, viện cớ
các lãnh thổ này đã được Cambyses, con của Cyrus chinh phục năm 525 TK, tuy ở
đó không có người Ba Tư hay người theo Bái Hỏa Giáo.
Hai bên tranh chấp chỉ lợi cho Ả Rập Hồi Giáo.

Năm 636 tám vạn quân tinh nhuệ của nhà Sassania đồn trú ở Qadisiya, một tỉnh
nhỏ trên tây ngạn sông Euphrates, phải đối diện một vạn quân Ả Rập ô hợp cháy
nắng, quần áo rách mướp bẩn thỉu mang khiên da bò và gươm cong, cưỡi lạc đà
của Caliph Umar ibn al-Khattab (634-44). Hai bên cầm cự nhau đến tháng 6,637
tướng Rustam của nhà Sassania khiêu chiến nhưng thất bại, tử trận. Năm 638
Ctesiphon thất thủ, Yazdagird III, vua của các vua (shahanshah), bỏ chạy, triều đại
Sassania sụp đổ; quân Ả Rập tiến vào hoàng thành Ctesiphon tráng lệ, cướp phá;
sách qúy trong thư viện bị vứt ngổn ngang đầy đường. Lời dạy của Muhammad
quả không sai, của cải Ba Tư là cốt để chia cho người Ả Rập. Của cải hôi được
không biết cơ man nào mà kể, kích thích lòng tham của người Ả Rập, và quân đội
Ả Rập quen mui đến năm 642 lại kéo sang đánh hai trận nhưng bị kháng cự mãnh
liệt cho đến năm 648-9, giết được bốn vạn dân Ba Tư, xông vào hôi của ở
Persepolis, năm 651 gom tất cả các lãnh thổ Ba Tư thành một quốc gia Ả Rập theo
Hồi Giáo.
Hồi Giáo đã thay Bái Hỏa Giáo; Allah đã thay Ahura Mazda; Muhammad đã thay
Zoroaster, Ummah thay vua, nhưng Ả Rập không thay được Ba Tư. Nguyên nhân
của sự thay thế này là các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo cũng như vua đã quên chức năng
thiêng liêng của mình, say đắm trong phồn vinh, bắt dân chịu sưu cao thuế nặng để
cống hiến cho họ phương tiện hưởng lạc, phản bội lý tưởng Ba Tư. Quân Ả Rập
gầy ốm, đói rách và Hồi Giáo giản dị là những tương phản đầy hấp dẫn đối với
quần chúng phẫn uất triều đình Sassania. Ahura Mazda đã bị các đạo sĩ Bái Hỏa
Giáo giết chết rồi, họ đành chấp nhận Allah. Tuy nhiên không phải là không có sự
chống đối lúc ban đầu.
Ðợt chống đối ban đầu là của các thầy cúng Bái Hỏa Giáo bị mất quyền lợi; đợt
thứ nhì là của những người từ trước vẫn chống lại đám thầy cúng này, những
người mà chúng gọi là theo tà giáo (heresy). Ðó là những người theo Mithras
Giáo, Mani Giáo, và nhất là Mazdak Giáo, một thứ cộng sản chủ nghĩa tôn giáo,
chống lại Hồi Giáo vì ý thức hệ; đợt thứ ba quan trọng hơn cả là của toàn dân Ba

