NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ ...
52
TỤC THỜ CÁ ÔNG ở VEN BIỂN nam
TRUNG BỘ
_____________________• _____
NGUYỄN THANH LỢI
1. N guồn gốc tụ c thờ cá O ng ở ven
biển N a m T ru n g Bộ
Chí Minh, Tiền Giạng, Bến Tre... những nơi đã từng lưu dấu chân của Nguyền Ánh hoặc như truyền thuyết ở Bình Thuận kể rằng, vua Gia Long trong một lần ngự thuyền rồng ở Huế, chẳng may thuyền gặp phong ba, trôi dạt vào đến tận Bình Thuận. Vua được cá Ông cứu, đưa thuyền vào bờ, nhưng cá thì kiệt sức mà chết [28, tr.36]. Riêng ở thôn Quảng Hội (xã vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà) lại có truyền thuyết liên quan đến Quan Công và ông Nam Hải. Một con phượng hoàng đẻ ra hai trứng, một trứng rổt xuống biển Đông hoá thành ông Nam Hải (cá voi) và trứng kia rơi trên đất liền, được một vị hoà thượng ấp trong đại hồng chung, sau 100 ngày nở ra Quan Thánh, vị này sau bị dẹp sau ót do chui ra từ trong chuông (?).
Tục thờ cá Ông là một tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của ngư dàn ven biển nước ta, từ Thanh Hoá vào đến tận Kiên Giang. Ó ven biển Quảng Ninh cũng có tục thờ cá voi trong những miếu nhỏ ở những nơi cá voi vào bờ hoặc nơi cá voi chết, song không có lăng thờ [23, tr.571]. Dọc theo bờ biển, hầu hết các làng chài đều có các lăng miếu thờ cá Ông với những nghi thức cúng tê hết sức trang trọng.
Các thư tịch cổ như Thối thực kí văn, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí... đều miêu tả cá Ông tính tình hiền lành hay cứu người, là vật hiển linh, thường chỉ xuất hiện ỏ biển phía Nam, từ sông Gianh vào đến Hà Tiên. Còn sự tích nhà Phật kể rằng: Một hôm Phật Bà Quan Âm tuần du trên biển Đông, thấy dân lành đói khổ, thường xuyên phải ra biển kiếm ăn trong điêu kiện mưa gió bão bùng, tính mạng có lúc bị đe doạ... Động lòng thương, Phật Bà đã xé vụn chiêc áo cà sa của mình, quăng xuống biến, biến thành vô vàn con cá voi. Cùng với bộ xương voi và “phép thâu đường’’ (phép rút ngắn đường đi) đã được Phật Bà ban cho, cá voi làm nhiệm vụ cứu người giữa bão tôi
Theo truyền thuyết của dân chài, thì tục thờ cá Ông bắt nguồn từ chuyện một chàng sĩ tử bị thầy đồ rú t gươm chém đầu và hoá thành cá voi, suốt bôn mùa bơi trên biển để cứu người bị nạn.
M ột tru y ề n th u y ế t khác kể về việc Nguyễn Anh (sau này là vua Gia Long) trong quãng đời bôn tẩu của mình, được cá Ông cứu sông trong một lần thuyền sắp bị đắm, lúc đang bị quân Tây Sơn rượt đuổi trên biển (rất giông truyền thuyết phổ biến ỏ Vàm Láng thuộc xã Vàm Láng, huyện Gò Công, truyền tỉnh Tiền Giang). Dạng thuyêt này cũng khá phổ biến ở các tỉnh Nam Bộ như Bà Rịa - Vũng Tàu, Tp. Hồ
Trong thần thoại Chăm, cá voi vôn là hoá thân của vị thần Cha-Aih-Va. Vì nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian rèn luyện phép thuật, Cha-Aih-Va đã cãi lời thầy tự ý biến thành cá voi, ra sông lớn mà đi và sau đó bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng Biển), cũng có lúc hoá thân thành thiên nga, trở thành ân nhân của những người bị đắm thuyền [10, tr.l]. Cũng theo thần thoại này (Bài ca Patan Gahlau), có một thời gian dài, vua cá voi sông ở Lào và người ta đã lập những ngôi đền ở đây để thờ phụng thần hộ mệnh [1, tr .117-118].
TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l
53
tiến hành, coi như một hình thức “giỗ ông” vậy.
Quảng Nam - Đà Nẵng: Tam Hải (20/1 âm lịch), Thanh Khê (6/1 âm lịch), Mân lịch), Tân Thái, Thọ Quang (26/1 âm Chánh (16/2 âm lịch), An Vĩnh (20/2 âm lịch), An Bàng (15/1 âm lịch), cẩm Thanh (10/2 âm lịch) [7, tr.46].
Và trong dòng chảy của tín ngưỡng này, cùng tồn tại ở vùng Nam Đảo (châu Á), Nhật Bản những huyền thoại về các thần dạt vào từ biển. Đã có một truyền thuyết về con cá voi thần kì, chở đến cho người miền núi phía Nam Việt Nam một hài nhi cứu thế, giải phóng loài người khỏi bị đau khổ. Trong khi đó ở Campuchia lại không tìm thấy dấu vết gì về sự thờ cúng này [8, tr.122].
Quảng Ngãi: Bình Thạnh (18/1 và 15/8 âm lịch), Bình Thuận (15/2 và 15/8 âm lịch), Bình Dương (8/1 và 15/7 âm lịch), Nghĩa An (16/1 âm lịch), Phổ Thạnh (3/1 âm lịch).
Bình Định: Nhơn Hải (12/2 âm lịch), Đề Gi (10/4 âm lịch), Tiên Châu (15/12 âm lịch), lăng Õng ở sô 72 Nguyễn Huệ, Quy Nhơn (5/2 âm lịch).
Tục thờ cá Ông vốn là tín ngưỡng của người Chăm (thuộc khu vực văn hoá Malayo - Polynési) mà những lưu dân người Việt trên bưốc đường Nam tiến đã tiếp thu được trong quá trình giao lưu văn hoá và tín ngưỡng này đã ăn sâu vào kí ức cư dân ven biển thông qua việc tổ chức các lễ hội cúng cá voi hằng năm diễn ra trên vùng đất mới này [16, tr.24-27].
Khánh Hoà: Trí Nguyên (12/5 âm lịch), Khánh Cam (6/4 âm lịch), Cam Linh (16/7 âm lịch), Bá Hà 1 (16/2 âm lịch), Xương Huân (23/6 âm lịch), Cù Lao (16/6 âm lịch), Trường Tây (16-17/7 âm lịch), Vĩnh Trường (11- 2 âm lịch).
0 miền Bắc, do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, chuyên đánh bắt cá voi nên không có tục thờ này. Trong dân gian hay lưu truyền câu “Tại Nam vi thần, tại Bắc vi ngư” (ở miên Nam là thần, miền Bắc chỉ là cá) là vì vậy.
Bình Thuận: Thuỷ Tú (20/6 âm lịch), Bình Thạnh (16/6 âm lịch), Hưng Long (15- 17 âm lịch), Hiệp Hưng, Bình Hưng (15- 17/2 âm lịch), Liên Hương, Tả Tân (15-17/6 âm lịch).
tháng cúng Nhìn chung, ngày
Về tín ngưỡng, đa số ngư dân Nam Trung Bộ theo đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. Trong hoạt động ngư nghiệp, họ coi trọng việc thờ cúng các vị thần hữu hình và vô hình như Hà Bá, Ngũ vị Long vương, Bát Bửu công chúa, Các Bác, Bà chúa Xứ, Bà chúa Đảo, ông Sứa, Rái Cá, ông Nược (cá heo), bà Tám (rùa biển), Mộc Trụ thần xà, bà Lạch (rắn biển)... Tuy nhiên, cá Ông là vị phúc thần được ngư dân thờ cúng tôn nghiêm, kính tín vởi những nghi thức, lễ hội uy nghiêm nhất.
2. Đ ặc đ iể m thờ cúng
2.1. N g h i th ứ c c ú n g t ế
Vê thòi gian mở lễ hội cá Ong thì không có ngày thông nhất chung, mà mỗi nơi tuỳ thuộc vào ngày cá Ông đầu tiên luỵ hoặc ngày nhận sắc vua phong. Lễ hội này được tuỳ thuộc vào ngày Ông “lụy”, ngày vua ban sắc phong hoặc theo phong tục, công việc làm ăn mà định ngày cúng, song hầu hết lễ cúng cầu ngư tập trung vào hai mùa xuân và mùa thu. Mùa xuân rộ nhất là cuối tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch. Mùa thu rộ nhất là mùng 10/8 âm lịch, thời điểm kết thúc vụ cá. Lễ tế cá Ong thường kết hợp với lễ cầu ngư, lễ xuồng thuyên hằng năm, mang tính chất tạ ơn thần thánh và cầu mong mùa màng bội thu tốt đẹp. Lễ hội được tổ chức trong ba ngày đêm liền, có nơi kéo dài đến năm hoặc bảy ngày đêm.
NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ ...
54
2.2. Đ ô i tư ợ n g th ờ tự
Trong tín ngưỡng thò cá Ông, Nam Trung Bộ là địa bàn có nhiều sắc phong hơn so với Nam Bộ và được bảo quản ở tình trạng tốt. Cá Ông thường được phong với các thần hiệu như: “Đông Hải cự tộc ngọc lân tôn thần”, “N am Hải Đại Nam tướng quân”... Sắc Khánh Hoà tỉnh, N inh Hoà phủ, Đông Hải thôn, phụng sự Đông Nam Sát Hải Lang Thát N hị Đại tướng quân chi thần. Hộ quốc tí dân nẫm trứ linh ứng. Kim phi 'thừa cảnh mệnh niễm thần hưu, trứ phong vi Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Hạ đắng thần. Chuân kì phụng sự thứ cơ thần kì tương hựu bảo ngã lê dân. Khăm tai!
Khải Định nhị niên tam nguyệt thập bát nhật.
An “Sắc mệnh chi bảo”.
Dịch nghĩa: Lăng Ong ở làng Hưng Lương (xã Nhơn Lý, Tp. Quy Nhơn) hiện còn 6 sắc phong của vua Minh Mạng (1826), vua Thiệu Trị (1843, 1844), vua Tự Đức (1850), vua Đồng Khánh (1892) và vua Khải Định (1924) [19, tr.34].
Sắc cho thôn Đông Hải, phủ Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà nơi đang thờ vị thần Đông Nam Sát Hải Lang Thát N hị Đại tướng quân, từ lâu đã giúp nước che dân nghe rất linh ứng. Trâm thừa mạng lớn, xét đức mỏng nên luôn nghĩ đến sự linh thiêng của thần, nay đặc phong Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Hạ đang thần. Các người hãy theo đó mà phụng sự cho long trọng. Thần hãy giúp trẫm che chở dân đen. Kính thay!
Ngày 18 tháng 3 năm Khải Định thứ 2 (1917) [3, tr.9]
(Phạm Hoàng Quân phiên âm và dịch nghĩa).
Đình Trường Tây (Nha Trang, Khánh Hoà) có 9 sắc thần, trong đó có sáu sắc phong cho cá ông vào các năm: Thiệu Trị thứ 3 (1843), Thiệu Trị thứ 1 (1847), Tự Đức thứ 3 (1850), Tự Đức thứ 33 (1880), Đồng Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909). Các lăng Ong khác ở Khánh Hoà cũng thuộc loại có nhiều sắc phong trên địa bàn Nam Trung Bộ: Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, Tp. Nha Trang, một sắc đời Khải Định thứ 5 - 1920), Xương Huân (Tp. Nha Trang, năm sắc), Cửa Bé (phường Vĩnh Trường, Tp. Nha Trang, bôn sắc), Bá Hà 1 (xã Ninh Thuỷ, huyện Ninh Hoà, bôn sắc), Lương Hải (xã Vạn Lương, huyện Vạn Ninh, một sắc).
Trong các lăng Ông, thường ở chánh điện có bàn thờ ông Nam Hải, chỉ có một chữ “Thần” viết bằng chữ H án hoặc chữ “Phước”, “Mặc tướng” và ngọc cốt trong quách. Bàn thờ không có tượng, ngai. Phía trên bàn thờ là bức đại tự lớn “Nam Hải chư thần". H ai gian bên thờ T ả b an liệt vị và Hữu ban liệt vị với đầy đủ các đồ thờ cúng.
Dinh vạn Thuỷ Tú (phường Đức Thắng, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) có 24 sắc phong, chỉ riêng đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847) đã có đến 10 sắc phong; vạn Tả Tân (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) có 16 sắc, lâu nhất là sắc phong đời Minh Mạng thứ 5 (1824); vạn Nam Nghĩa có sắc phong đời vua Thành Thái (1900); vạn Long Hải, Liên Hương có sắc phong đời vua Khải Định; vạn Bình Thạnh, Phước Lộc (Lagi) có nhiều sắc phong đời các vua Nguyễn bị đốt huỷ lúc tiêu thổ kháng chiến sau năm 1945 [24, tr.43-44].
Trong sô' bảy bản văn tế bằng Hán Nôm trên địa bàn thị xã Hội An (Quảng Nam) thấy có cả một tập thể thuỷ thần, trong đó N am Hải cự tộc ngọc lân (cá voi) ở vị trí thứ 8 trong số 60 đối tượng được thỉnh nhắc trong bài văn [20, tr.1461. Sắc thần lăng Õng thôn Đông Hải:
TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl
55
Các bưốc trong lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà là: lễ rưóc sắc, lễ nghinh thuỷ triều, lễ tế sanh, lễ chánh tế và hát thứ lễ.
Nghi thức cúng cá voi ở Bình Thuận bao gồm:
Chiêu ngày thứ nhát: rước ông Sanh, ngư dân đưa kiệu ra sông hoặc cửa biển, đọc văn tế, hát chèo bả trạo đưa Ông để rước Ông và các thuỷ thần vê dinh lăng vạn an vị.
Các lăng Ông ở Khánh Hoà trên chánh điện có bài vị thường ghi "Nam Hải cự tộc ngọc lân Đại tướng quân”. Trong các bản văn tế, ngoài “vị thần chủ” là Nam Hải, còn có cả các đối tượng khác trong hệ thông thần linh biển cũng được tỉnh nhắc đến như: Lý Ngư, Lý Lực, Hà Bá, ông Sứa, Rái Cá, ông Nược (cá heo), bà Tím (rùa biển), Mộc Trụ thần xà (rắn biển), bà Lạch, ông Hèo, cô Hồng (rắn biển). Đặc biệt, do đây là vùng đất chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự giao lưu văn hoá Việt - Chăm, nên hầu hết các lăng Ông đêu có ban thờ Thiên Y Ana với niêm kính tín rấ t sâu sắc của cộng đồng ngư dân.
Sáng sâm ngày thứ hai: làm lễ cúng cáo yết và mổ heo, cắt phần lưng, bụng để nấu các món cúng lễ, phần còn lại để sông đưa lên bàn thờ chính điện để tế. Sau đó làm lễ dâng trầu, dâng rượu, đọc sắc phong, bài tế, hát múa bả trạo hầu Ông.
Buổi trưa đến chiêu tối thường tổ chức cúng lễ khai diên, tô chức múa hát bả trạo, hát tuồng tại nhà võ ca [27, tr.342-343],
Quy mô tổ chức lễ hội tuỳ thuộc vào tình hình thu nhập của từng địa phương, vì mọi chi phí đểu dựa vào sự đóng góp tự nguyện trong vạn ghe. Năm nào biển được mùa, không xảy ra chìm ghe, chết người, hư mất phương tiện đánh bắt thì việc cúng kiến được tô chức to hơn, các hoạt động vui chơi sôi nổi và phong phú hơn, hát bội kéo dài ngày hơn. Trâu bò, heo gà được giết thịt, ăn uống linh đình trong dịp cúng tế này.
2.4. Đ á m ta n g c á O n g
Vạn Thuỷ Tú (Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) thờ các vị thần là Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần, Thuỷ Long thánh phi nương nương tôn thần và Thái hiệu tiên sư tôn thần. Phía sau chánh điện là nhà Tiên vãng thờ các bậc Tiền hiền, Hậu hiền, những người có công dựng làng, lập vạn. Trên địa bàn huyện đảo Phú Quý (thuộc tỉnh Bình Thuận), bên cạnh các bài văn tê nói đến các vị thần linh như thầy Nại, công chúa Bàn Tranh, bà chúa Ngọc hay thần phò trợ cho nghê' nghiệp như bà Tằm, trong dân gian hiện còn lưu giữ khá nhiều văn tế bằng chữ Hán như: Nam Hải văn, Nam Hải bổn mạn kí văn, Thừa ân Nam Hải văn, Cáo cựu thần Nam Hải nhập liệm tản vị văn... [26, tr.860]
2.3. L ễ h ộ i c ú n g c á Ô n g
Cũng giông như ở Nam Bộ, lễ cúng cá Ong ở các tỉnh Nam Trung Bộ vê cơ bản là lễ cúng đình hằng năm.
Cư dân ven biển từ Thanh Hoá vào đến phía Nam đều có tục thờ cá Ông. Do vậy, khi gập cá Ông "luỵ" hay "lị”, ngư dân thường tổ chức mai táng rất chu đáo. Thông thường cá voi chết do bị cá ép, bị bệnh già, môi trường ô nhiễm, đôi khi cũng do vô ý vướng vào lưới đánh cá. Trường hợp cá bị sóng lớn đánh dạt vào bờ nhưng chưa chết, ngư dân sẽ tìm mọi cách đưa cá xuống nước, trở ra biển. Người đầu tiên thấy xác cá Ông được xem là trưởng tang, coi như con ông Nam Hải. Người đó phải đội dây Diễn trình tế lễ thần Nam Hải ở Quảng Nam - Đà Nẳng gồm năm phần vói các lễ: lễ vọng (lễ cáo giỗ hay lễ tiên thường, có ý nghĩa báo cáo vê việc cúng giỗ, tế), lễ nghinh Ông Sanh (nghinh Ông), lễ tế cô hồn, lễ chánh tế, lễ xây chầu bả trạo và hát hội [7, tr.37-38].
NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ ...
56
rơm mũ bạc như để tang cha mẹ mình. Dân làng tổ chức đám tang và xem anh ta như một vị cao niên được trọng vọng trong làng. Nếu người đó là phụ nữ thì bị bãi miễn và trưởng tang phải là một người con trai trong gia đình. Người này ở địa phương nào thì được phép cung nghinh xác Ong vê cấp táng ở lăng của địa phương đó và thường xuyên canh gác bên cạnh xác cá voi cho đến khi hoàn tấ t công việc ma chay.
Hải (huyện Núi Thành, Quảng Nam) khu mộ có 60 - 70 hài cốt cá ông trên diện tích l.OOOm2. Trên đảo Hòn Tranh (huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) có một ngôi mộ chôn đến 72 con cá voi chết tập thê vào năm 1925. ớ Đầm Môn (huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà) có trường hợp 11 con cá voi lụy cùng một lúc. Những nơi phát hiện được cá Ong chết dạt vào bờ mà quá lởn thì phải dùng đăng quây lại dưói bến cho thịt ruỗng mục ra. Ngư dân miền Trung quan niệm rằng nêu vùng biển nào có cá Ong chết tấp vào nhiều thì sẽ được mùa đánh bắt trong nhiều năm liền.
Trong bài khảo cứu Tín ngưỡng và ngạn ngữ dân gian vùng thung lủng Nguồn Sơn, tinh Quảng Bình (1901), Cadière mô tả: “Khi chôn cất, cá phải được phủ liệm trọn vẹn bang vải hoặc lụa. Người đầu tiên thấy cá được mang tước là trưởng nam và thi hành phận sự ấy... Trưởng nam của cá voi cũng thi hành phận sự y như một trưởng nam trong gia đình với người quá cô. Ong ta bận áo chế đại tang, đội mủ rơm, áo rộng, xô lai, gấu áo bẻ ra ngoài, một tấm vải nhỏ kết đăng sau, nghĩa là anh ta được xem như là người thân thuộc gần nhất của bậc linh thiêng vừa tạ thế. Chính anh ta là người sẽ cử hành mọi tang lễ và nhận nhiều ăn lành nhất của cá voi" [6, tr.298].
Trong lễ chôn cất cá Ông, có một điêu giông nhau giữa các địa phương là người đầu tiên thấy cá ồn g luỵ, trong đám tang phải ăn mặc như trưởng nam. Cụ thể là nón rơm sô tưa, áo quần màu trắng, ống rộng, không vắt sổ, đường may lộn trái và một mảnh nhỏ gắn sau lưng và đi giật lùi trước linh cữu trong đám tang. 0 Khánh Hoà, tang phục thường may bằng vải đỏ. Toàn thê ngư phủ trong làng có bổn phận tập trung đông đủ để cử hành lễ mai táng cho trọng thể. Trước đây thòi gian hành lễ có thê từ ba đến 10 ngày tuỳ theo khu vực. Ngày nay lễ diễn ra trong ba ngày ba đêm, chi phí rấ t tốn kém.
Đúng ba năm, thịt cá voi rữa hết, người ta tiên hành lễ quật mộ, hài côt đem vào lăng thờ, gọi là “thượng ngọc cốt”. Ngọc cốt được rửa bằng rượu trắng và phơi khô, do một ngư dân cao tuổi phụ trách và được cho vào các thùng, quách, khạp, niêm phong cẩn thận, đưa vào lăng thờ. Theo ngư dân, khi không trúng mùa cá, họ đến đây làm lễ rưởc ngọc cốt, đô rượu trắng vào ngọc cót, hứng lấy và đem rưới vào dàn lưới, cầu mong cho đánh bắt được nhiều cá tôm. Lăng Thuỷ Tú chứa hơn 100 bộ xương cá voi, trong đó có hàng chục bộ xương gần 200 năm tuổi. Lăng An Thạnh (xã Tam Thanh, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) hiện còn giữ trên 70 bộ Tuỳ theo ông Lớn hay ông Cậu, việc chôn cât cá voi có khác nhau. Theo ngư dân thì cá voi lớn gọi là cá Ong, nhỏ hơn thì gọi là cá Cô và cá Cậu. Ngoài ra, tuỳ theo địa phương và đặc điểm hình dáng, địa bàn hoạt động mà cá voi có nhiều tên gọi khác nhau: ông Khơi, ông Lộng, ông Chuông, ông Kìm, ông Xưa, ông Đựng, ông Hoa, ông Ngư, ông Thông, ông M áng, ông Thoi, ông Mun, ông Đăng, ông Hổ... Khi chôn cất ông Lớn, người ta xây bọc ván xung quanh, phía trên đổ cát trắng, nơi nào có điều kiện thì xây mộ tập thể bằng xi măng. Với ông Cậu thì an táng nơi mộ phần. Các lăng Ông đều có các khu nghĩa trang dành để mai táng cá Ông như Tam Hải (huyện Núi Thành, Quảng Nam) có đến trên 300 mộ cá voi (lớn nhất nước), lăng ồng ở xã Xuân
TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l
57
xương cá voi, trong đó có bộ dài đến 25m (từ năm 1960) với trọng lượng cá voi trôn 40 tấn, bộ xưa nhất là năm 1841 [13],
Phú Yên) có đến ba lăng thờ cá Ong. Tỉnh Khánh Hoà có 50 lăng dọc theo các huyện thị ven biển: Vạn Ninh (13 lăng), Ninh Hoà (15 lăng), Tp. Nha Trang (11 lăng), thị xã Cam Ranh (11 lăng), trong đó có 12 lăng phân bô' trên các đảo. Mỗi xã phường ven biển trong tỉnh thường có một lăng, có nơi có đến hai, ba, bốn lăng (nhiều thôn trong một xã), thậm chí phường Vĩnh Nguyên (Tp. Nha Trang) có đến sáu lăng. Thôn Sơn Hải (xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận) có hai điểm thờ. Bình Thuận có 26 lăng, dinh, vạn thờ cá voi, chỉ riêng huyện đảo Phú Quý đã có đến 9 lăng thờ thần Nam Hải. Ngoài việc chôn cất, người được coi là con ông Nam Hải phải chịu tang trong ba năm. Tang phục thay đổi tuỳ nơi, nhưng đêu phải bịt khăn điêu màu đỏ. Trong khi thọ tang, cử hành theo nghi lễ cổ truyền, hoàn toàn dựa vào Thọ Mai gia lễ nhưng rút ngắn hơn so với lễ tang người. Cũng theo ngư dân, trong thời gian chịu tang này, người trưởng nam luôn mạnh khoẻ, nhưng về đường tài lợi chỉ ở mức trung bình. Mãn tang, người này sẽ làm ăn thịnh vượng và gặp nhiều may mắn.
2.5. K iê n tr ú c lă n g O n g
Về niên đại, đa sô' các lăng Ông ở Nam Trung Bộ có niên đại lâu hơn các lăng Ông ở Nam Bộ, cá biệt có những lăng được thành lập rấ t lâu như: Thuỷ Tú (1762), được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia tháng 1-1996; lăng An Thạnh (xã Tam Hải, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) xây dựng năm 1781; lăng ông thôn Hưng Long (xã Nhơn Lý, Tp. Quy Nhơn) xây vào đầu thê kỉ XIX dưới thời vua Gia Long, trùng tu năm 1992; lăng Thạch Long (Tp. Phan Thiết) xây năm 1795.
Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông gắn với một loại hình kiên trúc mà cư dân ven biển thường gọi là lăng. Tuỳ theo quy mô lởn nhỏ, ở mỗi địa phương có những tên gọi khác nhau: lăng, vạn, dinh, lạch, đình, điện, đền, miếu. Hầu như các làng ven biển làm nghề cá đều có lăng miếu thờ cúng thuỷ thần mà tiêu biểu nhất là cá Ông với thần hiệu “Nam Hải cự tộc ngọc lân tôn thần'. Một số địa phương cũng gọi ông Nam Hải vối những tên khác như Đông Hải đại vương, Nam Hải thuỷ thần... Lăng Cô thôn Từ Thiện (Ninh Thuận) thờ bà Nam Hải đại vương (cá voi cái). Tương tự, các lăng thờ cá voi cái ở Cam Linh (thị xã Cam Ranh, Khánh Hoà - năm 1945, một con cả voi cái dài 4m bị lính N hật bắn chết, trôi dạt vào bờ và được dân địa phương đưa vào lăng thờ cúng) và một số làng chài ở Ninh Thuận, từ Vĩnh Hi vào đến Cà Ná như ở Ninh Chữ, Sơn Hải, Cà Ná cũng gọi các lăng thờ cá cái là lăng Cô.
Kiến trúc của lăng Ong cơ bản mang dáng dấp một ngôi đình, vừa mang chức năng tín ngưỡng vừa mang chức năng thê tục. Lăng thường được xây gần sông, biển và quay ra hướng đông. Lăng thường được chia làm ba phần. Phần trước là võ ca, coi như sân khấu, dùng làm nơi hát tuồng, chèo đưa Ông, hò bả trạo... trong các kì hội lễ. Phần giữa là chánh điện, thờ ngọc cô't cá ông (xương cá voi), các bài vị thuỷ thần, Tiền hiền, Hậu hiền. Phần nhà sau (có những trường hợp xây ra hai bên), dùng để hội họp, tiếp khách và là nơi phục dịch. Trước sân có bình phong chạm trổ long, li, quy, phụng.
Ó Nam Trung Bộ, các lăng Ông phân bô' dày đặc ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận. Quảng Nam - Đà Nang có 20 lăng, phường Mân Thái (quận Sơn Trà, Tp. Đà Nằng) có tới hai lăng. Chỉ riêng xã Hoà Tâm (huyện Tuy Hoà, tỉnh Các lăng thờ cá Ông ở Khánh Hoà thường nằm trong các vạn chài, ở địa thế
NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÔNG ỏ...
58
quăng lưới, buông câu. Đội hình chèo thuyền gồm tổng mũi, tổng lái, tổng khoan và các tay chèo. Đây là loại hình diễn xướng tổng hợp nhiêu làn điệu dân ca như: hò, vè, lí, hát tuồng, nói lối. Nội dung hát của bả trạo gần như một vở diễn, nên lời hát đầy dãy những câu văn cầu siêu, cầu hồn vói những lớp từ ngữ Hán lẫn Nôm xen kẽ. Múa bả trạo được tổ chức trong ngày cúng ở lăng Ông của làng nghề cá hoặc ở miếu âm linh, thường tổ chức hằng năm hay hai, ba năm một lần. cao, thoáng, mặt hướng ra biển. Duy chỉ có lăng Ông phường Xương Huân (Tp. Nha Trang) nằm sâu trong nội ô (sô 4 Lê Lợi) nhưng vẫn được ngư dân thờ cúng chu đáo (khuôn viên của lăng hiện nay đã bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá). Một sô điểm thờ cá Ông nằm chung trong đình làng như: Trường Tây, Trí Nguyên, Trường Đông (Tp. Nha Trang), Bá Hà 1, Đông Hà (huyện Ninh Hoà). Lăng ông Cù Lao (phường Vĩnh Thọ, Tp. Nha Trang) nằm trong cụm cơ sở tín ngưỡng dân gian gồm đình làng - ngôi tiền hiền - chùa làng - lăng Ông.
Lăng Ông Thuỷ Tú được xây dựng trên khuôn viên rộng 1.963m2 với diện tích xây dựng 530m2, kiến trúc hài hoà, cân đổi theo dạng chữ tam, gồm chánh điện, tiền vãng và võ ca. Ban đầu, lăng chỉ là một ngôi nhà gỗ, lợp lá. Năm 1882, lăng được xây bằng gạch, lợp ngói âm dương. Năm 1849, người ta xây tiếp võ ca và năm 1916 xây cổng tam quan. Nơi đây hiện đang lưu giữ bộ xương cá voi lốn nhất Đông Nam Á và trở thành điểm tham quan văn hoá.
2.6. C ác s in h 'h o ạ t v ă n h oá d â n g ia n
Hát bội là loại hình nghệ thuật quan trọng không thể thiếu được trong bất kì lễ hội cúng cá Ông của ngư dân ven biển Nam Trung Bộ. Hát bội trong lễ hội này còn gọi là hát thứ lễ, hát án hay hát cúng lăng. Khai chầu hát thường là những tuồng tích có tính chất “đánh đông dẹp bắc” như Tiết Nhơn Quý chinh đông, Lưu Kim Đính hạ san, Mộc Q uế Anh dâng cây... Kết thúc kì hát bao giờ cũng có màn "tôn vương", coi như hết cơn bĩ cực đến thời thái lai, thường là tuồng Sơn Hậu. Các vở tuồng thường kết thúc có hậu, ít cảnh binh đao chết chóc. Thời gian diễn tuồng có khi kéo dài đến 2 - 3 giờ sáng nhưng vẫn thu hút rất đông khán giả và người xem rấ t hào hung. Các đêm hát này không dính dáng đến nghi lễ. chỉ mang tính chất giải trí.
Tuỳ theo đặc điểm của các vùng miên, hoạt động không thể thiếu được trong lễ hội cúng cá Ông là đua thuyền, lắc thúng chai, giã gạo, đấu võ cổ truyền, đi cà kheo, kéo co, bóng chuyển, đá bóng cùng những hoạt động văn nghệ dân gian như hát dân ca, hát hò khoan... Hát bả trạo còn gọi là hò đưa linh, chèo cầu ngư, hát bạn chèo đưa Ông là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian mang tính nghi lễ, gắn vối tục thờ cá voi của cu' dân ven biển từ Quảng Bình đến Bà Rịa - Vũng Tàu: “Các bản chèo - ít ra từ vùng nam Hải Vàn đến sát Bà Rịa - đều có những văn bản giông nhau trên đại thê, để diễn xướng trong các lễ đưa đám cá voi, mở mùa cá theo cách thức trình bày mang tính hát bội rõ rệt" [29, tr.265].
3. V à i n h ậ n x é t
Hát bả trạo là gọi theo hình thức diễn xướng. Bả là cầm, nắm; trạo là mái chèo. Trong hát bả trạo, lời hát và động tác múa diễn tả lại quá trình đi biển từ lúc thuyền ra khơi đánh cá cho đến lúc về bên, trong hành trình dó có lúc vất vả chông chọi với giông bão; có lúc biển lặng trăng thanh, - Nằm trong dòng chảy của tục thờ thần biển nước ta, tục thờ cá Ông của cư dân ven biển Nam Trung Bộ có những nét độc đáo riêng. Từ việc tiếp thu tín ngưỡng của dân tộc Chăm, tục thờ cá ông của người Việt ngày nay đã có những biến cải
TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l
- Đà Nang, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
59
8. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thê giới, Nxb. Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du.
rất cơ bản qua đô'i tượng thờ tự, nghi lễ, diễn xướng, kiến trúc, bài trí
9. Nguyễn Văn Khánh - Giang Nam chủ biên (2003), Địa chí Khánh Hoà, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Kim (1985), v ề tục thờ cúng cá voi (cá Õng) ở vùng ven biển Bên Tre, Tài liệu đánh máy.
- Nó góp phần bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thông: nét đẹp của phong tục, các loại hình diễn xướng dân gian, nghệ thuật sân khấu, tinh thần cố kết cộng đồng.
11. Trần Việt Kỉnh (2002), “Tìm hiểu thêm vê' lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà” trong Khánh Hoà diện mạo văn hoá một vùng đất, tập 4, Bảo tàng Khánh Hoà - Chi hội Văn nghệ dân gian Khánh Hoà.
12. Hình Phước Liên (1999), Lễ hội cầu ngư ở Khánh Hoà, Luận văn tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.
13. Tuyết Linh
(1996), “Danh
thắng ở huyện đảo Phú Quý”, Tạp chí Dãn tộc và thời đại, số 26.
- Tục thờ này làm thoả mãn nhu cầu tâm linh của phần lớn ngư dân, tuy nhiên, cũng cần phải gạt bỏ đi những yếu tô mê tín, lạc hậu. Tập tục này còn mang đậm giá trị nhân văn, thể hiện thê ứng xử vãn hoá của ngư dân trưốc biển cả.
- Tục thờ cá Ong là loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian độc đáo của cư dân ven biển nước ta, cần được bảo tồn, nghiên cứu và có một thái độ ứng xử phù hợp. Có thể nghiên cứu, định hưống cho lễ hội này thành ngày hội văn hoá dân gian miền biên như một số địa phương bước đầu tổ chức thành công.o
N .T .L .
14. Nguyễn Thanh Lợi (2001), “Tục thờ cá Õng ở Khánh Hoà”, Tạp chí Khoa học công nghệ và môi trường Khánh Hoà, số tháng 6.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1901), Nouvclles
1. Antoine Cabaton rccherches sur le Cham, EFEO.
15. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Tục thờ cá Ông ở Bà Rịa - Vũng Tàu”, trong Thông báo văn hoá dân gian 2002, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Nguyễn Chí Bền, Lê Thê Vịnh biên soạn (2003), Địa chí Phú Yên, Nxb. Chính trị Quôc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Thanh Lợi (2003). “Giao lưu văn hóa Việt - Chăm nhìn từ tục thò cá ông”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2.
3. Trần Bích (2003), “ông thần Nam Hải”,
Báo Sài Gòn tiếp thị 2003.
17. Nguyễn Thanh Lợi (2003), “Tín ngưỡng thờ cá voi ở thành phô' Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam A, số 6.
4. Tôn That Bình (1982), “Một sô' tín ngưỡng, tục lệ của cư dân vùng biển từ Bình Trị Thiên đến Bình Thuận”, Tạp chí Dán tộc học, số 2.
18. Nguyễn Thanh Lợi (2004), “Tục thờ cá Ong ỏ Nam Bộ” trong Nam Bộ đất và người, tập 2, Hội Khoa học Lịch sử Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ.
19. Ngọc Minh (1998), “Di tích văn hoá Quy
Nhơn”, Tạp chí Xưa và Nay, số 48B, tháng 2.
5. Phạm Vũ Dũng (1999), “Thò cúng cá Ông ở Khánh Hoà trong dòng thờ cúng của ngư dân ven biển Nam Trưng Bộ” trong Văn hoá phi vật the Khánh Hoà, Nguyễn Văn Khánh chủ biên, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
20. Nguyễn Đức Minh - Trần Văn Nhân (1991), “Một sô' lễ hội nước ở hội An”, trong Đô thị cô Hội An, Kỉ yếu hội thảo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
tín 6. Đỗ Trình Huệ (2000), Văn hoá ngưởng gia đình Việt Nam qua nhãn quan học giả L. Cadière, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
21. Lê Quang Nghiêm (1970), Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hoà, Tác giả xuất bản, Sài Gòn.
7. Nguyễn Xuân Hương (1997), Tục thờ cúng cá Ông của ngư dân vùng biển Quảng Nam
NGUYỀN THANH LỢI - TỤC THÒ CÁ ÕNG ỏ ...
27. Nguyễn Duy Thiệu (2002), Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Anh Ngọc (2002), “Lễ hội cầu ngư ở Mân Thái” trong Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Trần Thương, “Những điều kì thú về cá
voi ở Bình Thuận”, Tạp chí Du lịch Việt Nam.
29. Tạ Chí Đại Trường (1989), Thần, người
23. Nguyễn Hồng Phong - Vũ Khiêu chủ biên (2003), Địa chí Quảng Ninh, tập 3, Nxb. Thế giới.
và đất Việt, California, USA.
30. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân
gian Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
24. Sở Khoa học công nghệ và môi trường Bình Thuận (1994), Một số vấn đề cấp bách về văn hoá - xã hội cư dân vùng biên Bình Thuận 1991-1993.
25. Sỏ Văn hoá - Thông tin Bình Thuận
(chưa xuất bản), Địa chí Bình Thuận.
31. Lê Thế Vịnh, “Cá Ông trong tâm thức người dân làm nghề biển ở Phú Yên” trong Tìm hiểu đặc trưng di sản văn nghệ dân gian Nam Trung Bộ, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam - Liên hiệp các hội Khoa học kĩ thuật Phú Yên - Trường Cao đẳng Sư phạm Phú Yên (2005), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Võ Thị Tân (2000), “Sưu tầm tư liệu Hán Nôm trên đảo Phú Quý” trong cuốn Những thành tựu nghiên cứu khoa học (Nguyễn Thê Nghĩa chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
60
TIN TỨC
(T iếp theo tr a n g 82)
xuất bản từ năm 2007 đến hết năm 2010. Có m ặt tại buổi đánh giá đề cương, ngoài sự có mặt của các thành viên Hội đồng khoa học, còn có TS. Phạm Văn Vang, Trưởng ban Ban Kê hoạch tài chính của Viện Khoa học xã hội Việt Nam; TS. Vi Quang Thọ, Giám đôc Nhà xuất bản Khoa học xã hội; PGS. TS. Võ Quang Trọng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hoá.
Sau khi nghe GS. TS. Nguyễn Xuân Kính, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hoá trình bày đề cương biên soạn, các thành viên trong Hội đồng (GS. TSKH. Tô Ngọc thanh; GS. Tsi Lê Chí Quế; PGS. TS. Việt giới thiệu diện mạo văn học dân gian theo thể loại: tục ngữ, câu đô', truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, giai thoại văn học, truyện Nôm bình dân, vè, ca dao, kịch bản chèo, kịch bản tuồng dân gian; do GS. TS. Nguyễn Xuân Kính, PGS. TS. Trần Đức Ngôn, GS. TS. Kiều Thu Hoạch, PGS. TS. Nguyễn Thị Huế, PGS. TS. Nguyễn Chí Bên, TS. Vũ Tô' Hảo, PGS. Hà Vãn cầu , TS. Nguyễn Xuân Yến,... biên soạn.
Khổng Diễn; PGS. TS. Phạm Quang Hoan; PGS. TS. Trần Đức Ngôn; PGS. TS. Nguyễn Tri Nguyên; PGS. TS. Trần Đức Cường) đã nhận xét, nêu câu hỏi và đêu khắng định việc giám định văn bản và việc in chữ d ân tộc (hoặc p h ầ n p h iên âm tiếng dân tộc) là hết sức đúng đắn và cần thiết. Sau khi nghe GS. TS. Nguyễn Xuân Kính trả lời các câu hỏi và tiếp thu sự góp ý của Hội đồng, từng thành viên trong Hội đồng đã bỏ phiếu kín đánh giá. Kết quả, Hội đồng nhất trí tán thành việc biên soạn bộ Tông tập văn học dân gian các dân tộc thiều số Việt Nam.
Ngày 17 tháng 8 năm 2001, tại sô' 1 Liễu Giai, Hà Nội, Hội đồng khoa học do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thành lập, dưới sự chủ trì của PGS. TS. Trần Đức Cường, Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam, đã họp để đánh giá "Đề cương biên soạn Tổng tập văn học dân gian các dãn tộc thiểu sô Việt N am ". Đây là công trình do Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Viện Nghiên cứu văn hoá hợp tác thực hiện. Công trình nhằm giới thiệu văn học dân gian các dân tộc thiểu sô' theo thê loại, dưởi hình thức song ngữ. Công trình gồm 23 tập khố lớn, được tổ chức biên soạn và