
52 NGUYỀ N THANH LỢ I - TỤ C THÒ CÁ ÔNG ỏ ...
T Ụ C T H Ờ C Á Ô N G
ở V E N B I Ể N n a m
T R U N G B Ộ
_____________________ •
__
___
NGUYỄ N THANH LỢ I
1. Nguồ n gố c tụ c thờ cá Ong ở ven
biể n N am T ru n g Bộ
Tụ c thờ cá Ông là mộ t tín ngư ỡ ng dân
gian khá phổ biế n củ a ngư dàn ven biể n
nư ớ c ta, từ T han h Hoá vào đế n tậ n Kiên
Giang. Ó ven biể n Q uả ng N inh cũng có tụ c
thờ cá voi trong nhữ ng m iế u nhỏ ở nhữ ng
nơ i cá voi vào bờ hoặ c nơ i cá voi chế t, song
không có lăng thờ [23, tr.571]. Dọ c theo bờ
biể n, hầ u hế t các làng chài đề u có các lăng
miế u thờ cá Ông vớ i nhữ ng nghi thứ c cúng
tê hế t sứ c tra n g trọ ng.
Các th ư tị ch cổ nh ư Thố i thự c kí văn,
Đạ i Nam nhấ t thố ng chí, Gia Đị nh thành
thông chí... đề u m iêu tả cá Ô ng tín h tìn h
hiề n lành hay cứ u ngư ờ i, là vậ t hiể n linh,
thư ờ ng chỉ xu ấ t hiệ n ỏ biể n phía Nam, từ
sông G ianh vào đế n Hà Tiên.
Theo truy ề n thu y ế t củ a dân chài, thì
tụ c thờ cá Ông b ắ t nguồ n từ chuyệ n mộ t
chàng sĩ tử bị th ầ y đồ rú t gư ơ m chém đầ u
và hoá th à n h cá voi, suố t bôn m ùa bơ i trên
biể n để cứ u ngư ờ i bị nạ n.
M ộ t tru y ề n th u y ế t k h á c k ể về việ c
Nguyễ n Anh (sau này là vua Gia Long)
trong quãng đờ i bôn tẩ u củ a m ình, đư ợ c cá
Ông cứ u sông trong mộ t lầ n thuy ề n sắ p bị
đắ m , lúc đang bị quân Tây Sơ n rư ợ t đuổ i
trên biể n (rấ t giông truy ề n th uy ế t phổ biế n
ỏ Vàm Láng thuộ c xã Vàm Láng, huyệ n Gò
Công, tỉ nh Tiề n Giang). D ạ ng truy ề n
thuyêt này cũng khá phổ biế n ở các tỉ n h
Nam Bộ như Bà Rị a - Vũng Tàu, Tp. Hồ
Chí M inh, T iề n G iạ ng, Bế n Tre... nhữ ng
nơ i đã từ ng lư u dấ u chân củ a Nguyề n Ánh
hoặ c như tru yề n th u y ế t ở B ình T hu ậ n kể
rằ ng, vua G ia Long tron g m ộ t lầ n ngự
th uy ề n rồ ng ở H uế , ch ẳ n g m ay thuyề n gặ p
phong ba, trôi d ạ t vào đế n tậ n Bình Thuậ n.
Vua đư ợ c cá Ông cứ u, đư a th u yề n vào bờ ,
như ng cá thì k iệ t sứ c m à chế t [28, tr.36].
Riêng ở th ôn Q uả ng Hộ i (xã vạ n Thắ ng,
huyệ n V ạ n N inh, tỉ n h K hánh Hoà) lạ i có
truy ề n th uyế t liên qu an đế n Q uan Công và
ông N am Hả i. M ộ t con phư ợ ng hoàng đẻ ra
hai trứ ng, m ộ t trứ ng rổ t xuố ng biể n Đông
hoá th à n h ông N am H ả i (cá voi) và trứ ng
kia rơ i trên đ ấ t liề n, đư ợ c mộ t vị hoà
thư ợ ng ấ p tro ng đạ i hồ ng chung, sau 100
ngày nở ra Q uan T hánh, vị này sau bị dẹ p
sau ót do chui ra từ trong chuông (?).
Còn sự tích n hà P h ậ t kể rằ ng: M ộ t hôm
P hậ t Bà Q uan Âm tu ầ n du trên biể n Đông,
th ấ y dân làn h đói khổ , thư ờ ng xuyên phả i
ra biể n kiế m ăn trong điêu kiệ n mư a gió
bão bùng, tín h m ạ ng có lúc bị đe doạ ...
Độ ng lòng thư ơ ng, P h ậ t Bà đã xé vụ n chiêc
áo cà sa củ a m ình, quăng xuố ng biế n, biế n
thàn h vô vàn con cá voi. Cùng vớ i bộ xư ơ ng
voi và “phép th â u đư ờ ng’’ (phép rú t ngắ n
đư ờ ng đi) đã đư ợ c P h ậ t Bà ban cho, cá voi
làm nhiệ m vụ cứ u ngư ờ i giữ a bão tôi
Trong th ầ n tho ạ i Chăm , cá voi vôn là
hoá th â n củ a vị th ầ n C ha-A ih-V a. Vì nôn
nóng trở về xứ sở sau thờ i gian rèn luyệ n
phép th u ậ t, C ha-A ih-V a đã cãi lờ i th ầ y tự
ý biế n th à n h cá voi, ra sông lớ n m à đi và
sau đó bị trừ ng ph ạ t. C ha-A ih-V a đổ i tên
và tự xư ng là Po R iyah (th ầ n Sóng Biể n),
cũng có lúc hoá th â n th àn h thiên nga, trở
th à n h ân n h ân củ a nh ữ ng ngư ờ i bị đắ m
th uy ề n [10, tr.l]. Cũng theo th ầ n thoạ i này
(Bài ca P a ta n G ahlau), có mộ t thờ i gian
dài, vua cá voi sông ở Lào và ngư ờ i ta đã
lậ p nhữ ng ngôi đề n ở đây để thờ phụ ng
th ầ n hộ m ệ nh [1, tr . 117-118].

TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứ u TRAO Đ ổ l 53
Và trong dòng chả y củ a tín ngư ỡ ng
này, cùng tồ n tạ i ở vùng N am Đả o (châu
Á), N h ậ t Bả n nh ữ ng hu yề n thoạ i về các
th ầ n d ạ t vào từ biể n. Đã có mộ t tru yề n
th uy ế t về con cá voi th ầ n kì, chở đế n cho
ngư ờ i m iề n núi phía Nam V iệ t N am mộ t
hài nhi cứ u thế , giả i phóng loài ngư ờ i khỏ i
bị đau khổ . Trong kh i đó ở C am puchia lạ i
không tìm th ấ y dấ u vế t gì về sự thờ cúng
này [8, tr.122].
Tụ c thờ cá Ông vố n là tín ngư ỡ ng củ a
ngư ờ i C hăm (thuộ c khu vự c v ăn hoá
M alayo - Polynési) m à nhữ ng lư u dân
ngư ờ i Việ t trê n bư ố c đư ờ ng N am tiế n đã
tiế p thu đư ợ c tro ng quá trìn h giao lư u văn
hoá và tín ngư ỡ ng này đã ăn sâu vào kí ứ c
cư dân ven biể n thông qua việ c tổ chứ c các
lễ hộ i cúng cá voi hằ ng n ăm diễ n ra trên
vùng đ ấ t mớ i này [16, tr.24-27].
0 miề n Bắ c, do ả nh hư ở ng củ a văn hoá
Trung Hoa, chuyên đán h b ắ t cá voi nên
không có tụ c thờ này. Trong dân gian hay
lư u tru yề n câu “Tạ i N am vi thầ n, tạ i Bắ c vi
ngư ” (ở m iên N am là th ầ n , miề n Bắ c chỉ là
cá) là vì vậ y.
Về tín ngư ỡ ng, đa số ngư d ân Nam
Trung Bộ theo đạ o thờ cúng ông bà tổ tiên.
Trong hoạ t độ ng ngư nghiệ p, họ coi trọ ng
việ c thờ cúng các vị th ầ n h ữ u hình và vô
hình như Hà Bá, Ngũ vị Long vư ơ ng, B át
Bử u công chúa, Các Bác, Bà chúa Xứ , Bà
chúa Đả o, ông Sứ a, R ái Cá, ông Nư ợ c (cá
heo), bà T ám (rùa biể n), Mộ c T rụ th ầ n xà,
bà Lạ ch (rắ n biể n)... Tuy nhiên, cá Ông là
vị phúc th ầ n đư ợ c ngư dân thờ cúng tôn
nghiêm, kính tín vở i nhữ ng nghi thứ c, lễ
hộ i uy nghiêm nhấ t.
2. Đặ c điể m thờ cúng
2 .1 . N g h i t h ứ c c ú n g t ế
Vê thòi gian mở lễ hộ i cá O ng thì không
có ngày thông n h ấ t chung, mà mỗ i nơ i tuỳ
thuộ c vào ngày cá Ông đầ u tiên luỵ hoặ c
ngày nh ậ n sắ c vua phong. Lễ hộ i này đư ợ c
tiế n hành, coi n hư mộ t h ìn h thứ c “giỗ ông”
vậ y.
Quả ng N am - Đà N ẵ ng: Tam H ả i (20/1
âm lị ch), T h an h Khê (6/1 âm lị ch), M ân
Thái, Thọ Q uang (26/1 âm lị ch), Tân
C hánh (16/2 âm lị ch), An Vĩnh (20/2 âm
lị ch), An Bàng (15/1 âm lị ch), c ẩ m Thanh
(10/2 âm lị ch) [7, tr.46].
Q uả ng Ngãi: Bình T hạ nh (18/1 và 15/8
âm lị ch), B ình T h u ậ n (15/2 và 15/8 âm
lị ch), B ình Dư ơ ng (8/1 và 15/7 âm lị ch),
Nghĩa An (16/1 âm lị ch), Phổ T hạ n h (3/1
âm lị ch).
Bình Đị nh: Nhơ n H ả i (12/2 âm lị ch),
Đề Gi (10/4 âm lị ch), Tiên Châu (15/12 âm
lị ch), lăng Õ ng ở sô 72 Nguyễ n Huệ , Quy
Nhơ n (5/2 âm lị ch).
K hánh Hoà: T rí Nguyên (12/5 âm lị ch),
K hánh Cam (6/4 âm lị ch), Cam Linh (16/7
âm lị ch), Bá H à 1 (16/2 âm lị ch), Xư ơ ng
H u ân (23/6 âm lị ch), Cù Lao (16/6 âm lị ch),
Trư ờ ng Tây (16-17/7 âm lị ch), Vĩnh Trư ờ ng
(11- 2 âm lị ch).
Bình T huậ n: T huỷ Tú (20/6 âm lị ch),
Bình T h ạ n h (16/6 âm lị ch), H ư ng Long (15-
17 âm lị ch), Hiệ p Hư ng, Bình H ư ng (15-
17/2 âm lị ch), Liên Hư ơ ng, T ả T ân (15-17/6
âm lị ch).
N hìn chung, ngày th án g cúng tuỳ
thuộ c vào ngày Ông “lụ y”, ngày vua ban sắ c
phong hoặ c theo phong tụ c, công việ c làm
ăn m à đị nh ngày cúng, song hầ u hế t lễ
cúng cầ u ngư tậ p tru n g vào hai m ùa xuân
và m ùa thu. M ùa x uân rộ n h ấ t là cuố i
thá ng giêng, đầ u th án g h ai âm lị ch. M ùa
thu rộ n h ấ t là m ùng 10/8 âm lị ch, thờ i
điể m kế t thúc vụ cá. Lễ tế cá O ng thư ờ ng
kế t hợ p vớ i lễ cầ u ngư , lễ xuồ ng thuyên
hằ ng năm , m ang tín h c hấ t tạ ơ n thầ n
thán h và cầ u m ong m ùa m àng bộ i th u tố t
đẹ p. Lễ hộ i đư ợ c tổ chứ c trong ba ngày đêm
liề n, có nơ i kéo dài đế n năm hoặ c bả y ngày
đêm.

54 NGUYỀ N THANH LỢ I - TỤ C THÒ CÁ ÔNG ỏ ...
2 .2 . Đ ô i tư ợ n g th ờ t ự
Trong tín ngư ỡ ng thò cá Ông, N am
Trung Bộ là đị a bàn có nhiề u sắ c phong
hơ n so vớ i N am Bộ và đư ợ c bả o q uả n ở tình
trạ ng tố t. Cá Ông thư ờ ng đư ợ c phong vớ i
các thầ n hiệ u như : “Đông Hả i cự tộ c ngọ c
lân tôn thầ n”, “Nam Hả i Đạ i Nam tư ớ ng
quân”...
Lăng O ng ở làng H ư ng Lư ơ ng (xã N hơ n
Lý, Tp. Quy Nhơ n) hiệ n còn 6 sắ c phong
củ a vua M inh M ạ ng (1826), vua Thiệ u Trị
(1843, 1844), vua Tự Đứ c (1850), vua Đồ ng
K hánh (1892) và vua K hả i Đ ị nh (1924) [19,
tr.34].
Đình Trư ờ ng Tây (Nha Trang, K hánh
Hoà) có 9 sắ c thầ n, trong đó có sáu sắ c
phong cho cá ô n g vào các năm: Thiệ u Trị
thứ 3 (1843), T hiệ u Trị thứ 1 (1847), Tự Đứ c
thứ 3 (1850), Tự Đứ c thứ 33 (1880), Đồ ng
Khánh thứ 2 (1887), Duy Tân thứ 3 (1909).
Các lăng Ong khác ở K hánh Hoà cũng thuộ c
loạ i có nhiề u sắ c phong trê n đị a bàn N am
Trung Bộ : Cù Lao (phư ờ ng Vĩnh Thọ , Tp.
Nha Trang, m ộ t sắ c đờ i Khả i Đị nh thứ 5 -
1920), Xư ơ ng H uân (Tp. N ha Trang, năm
sắ c), Cử a Bé (phư ờ ng Vĩnh Trư ờ ng, Tp. N ha
Trang, bôn sắ c), Bá H à 1 (xã Ninh Thuỷ ,
huyệ n Ninh Hoà, bôn sắ c), Lư ơ ng Hả i (xã
Vạ n Lư ơ ng, huyệ n Vạ n Ninh, mộ t sắ c).
Dinh vạ n Thuỷ Tú (phư ờ ng Đứ c T hắ ng,
Tp. P h an T hiế t, tỉ nh Bình T huậ n) có 24 sắ c
phong, chỉ riêng đờ i vua Thiệ u Trị (1841 -
1847) đã có đế n 10 sắ c phong; vạ n Tả Tân
(huyệ n Tuy Phong, tỉ n h Bình T huậ n) có 16
sắ c, lâu n h ấ t là sắ c phong đờ i M inh M ạ ng
thứ 5 (1824); vạ n Nam N ghĩa có sắ c phong
đờ i vua T hành Thái (1900); vạ n Long Hả i,
Liên Hư ơ ng có sắ c phong đờ i vua K hả i
Đị nh; vạ n B ình T hạ n h, Phư ớ c Lộ c (Lagi) có
nhiề u sắ c phong đờ i các vua N guyễ n bị đố t
huỷ lúc tiêu thổ kh áng chiế n sau năm 1945
[24, tr .43-44].
Sắ c th ầ n lăng Õng thôn Đông Hả i:
Sắ c Khánh Hoà tỉ nh, N inh Hoà phủ ,
Đông Hả i thôn, phụ ng sự Đông Nam Sát
Hả i Lang Thát N hị Đạ i tư ớ ng quân chi
thầ n. Hộ quố c tí dân nẫ m trứ linh ứ ng.
Kim phi 'thừ a cả nh mệ nh niễ m thầ n hư u,
trứ phong vi Trừ ng Trạ m Dự c Bả o Trung
Hư ng Hạ đắ ng thầ n. Chuân kì phụ ng sự
thứ cơ thầ n kì tư ơ ng hự u bả o ngã lê dân.
Khăm tai!
Khả i Đị nh nhị niên tam nguyệ t thậ p
bát nhậ t.
An “Sắ c mệ nh chi bả o”.
Dị ch nghĩa:
Sắ c cho thôn Đông Hả i, phủ Ninh Hoà,
tỉ nh Khánh Hoà nơ i đang thờ vị thầ n Đông
Nam Sát Hả i Lang Thát N hị Đạ i tư ớ ng
quân, từ lâu đã giúp nư ớ c che dân nghe rấ t
linh ứ ng. Trâm thừ a mạ ng lớ n, xét đứ c
mỏ ng nên luôn nghĩ đế n sự linh thiêng củ a
thầ n, nay đặ c phong Trừ ng Trạ m Dự c Bả o
Trung Hư ng Hạ đang thầ n. Các ngư ờ i hãy
theo đó mà phụ ng sự cho long trọ ng. Thầ n
hãy giúp trẫ m che chở dân đen. Kính thay!
Ngày 18 tháng 3 năm Khả i Đị nh thứ 2
(1917) [3, tr.9]
(P hạ m H oàng Q uân ph iên âm và dị ch
nghĩa).
Trong các lăng Ông, thư ờ ng ở chánh
điệ n có bàn thờ ông N am H ả i, chỉ có mộ t
chữ “T hầ n ” viế t bằ ng chữ H án hoặ c chữ
“Phư ớ c”, “Mặ c tư ớ ng” và ngọ c cố t trong
quách. Bàn thờ không có tư ợ ng, ngai. Phía
trên bàn thờ là bứ c đạ i tự lớ n “Nam Hả i
chư thầ n". H a i g ia n b ê n th ờ T ả b a n liệ t vị
và H ữ u ban liệ t vị vớ i đầ y đủ các đồ thờ
cúng.
Trong sô' bả y bả n văn tế bằ ng Hán
Nôm trê n đị a b àn thị xã Hộ i An (Quả ng
Nam) thấ y có cả m ộ t tậ p th ể th uỷ thầ n,
trong đó Nam Hả i cự tộ c ngọ c lân (cá voi) ở
vị trí thứ 8 tron g số 60 đố i tư ợ ng đư ợ c
thỉ n h nhắ c trong bài văn [20, tr.1461.

TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứ u TRAO Đổ l 55
Các lăng Ông ở K hán h Hoà trê n chánh
điệ n có bài vị thư ờ ng ghi "Nam Hả i cự tộ c
ngọ c lân Đạ i tư ớ ng quân”. Trong các bả n
văn tế , ngoài “vị th ầ n chủ ” là N am Hả i, còn
có cả các đố i tư ợ ng khác tro ng hệ thông
thầ n linh biể n cũng đư ợ c tỉ n h nhắ c đế n
như : Lý Ngư , Lý Lự c, Hà Bá, ông Sứ a, Rái
Cá, ông Nư ợ c (cá heo), bà Tím (rùa biể n),
Mộ c Trụ th ầ n xà (rắ n biể n), bà Lạ ch, ông
Hèo, cô Hồ ng (rắ n biể n). Đặ c biệ t, do đây là
vùng đ ấ t chị u ả nh hư ở ng m ạ nh mẽ củ a sự
giao lư u văn hoá Việ t - C hăm , nên h ầ u hế t
các lăng Ông đêu có ban thờ Thiên Y Ana
vớ i niêm kính tín rấ t sâu sắ c củ a cộ ng đồ ng
ngư dân.
Vạ n T huỷ Tú (Tp. P h an Thiế t, tỉ nh
Bình Thuậ n) thờ các vị th ầ n là Nam Hả i cự
tộ c ngọ c lân tôn thầ n, Thuỷ Long thánh phi
nư ơ ng nư ơ ng tôn thầ n và Thái hiệ u tiên sư
tôn thầ n. P hía sau ch ánh điệ n là nhà Tiên
vãng thờ các bậ c Tiề n hiề n, H ậ u hiề n,
nhữ ng ngư ờ i có công dự ng làng, lậ p vạ n.
Trên đị a bàn huyệ n đả o P h ú Quý (thuộ c
tỉ nh Bình T huậ n), bên cạ nh các bài văn tê
nói đế n các vị th ầ n linh nh ư th ầ y N ạ i, công
chúa Bàn T ranh, bà chúa Ngọ c hay thầ n
phò trợ cho nghê' nghiệ p nh ư bà Tằ m , trong
dân gian hiệ n còn lư u giữ khá nhiề u văn tế
bằ ng chữ H án như : Nam Hả i văn, Nam
Hả i bổ n mạ n kí văn, Thừ a ân Nam Hả i
văn, Cáo cự u thầ n N am Hả i nhậ p liệ m tả n
vị văn... [26, tr.860]
2 .3 . L ễ h ộ i c ú n g c á Ô n g
Cũng giông như ở N am Bộ , lễ cúng cá
Ong ở các tỉ n h N am T run g Bộ vê cơ bả n là
lễ cúng đình hằ ng năm .
Diễ n trìn h tế lễ th ầ n N am H ả i ở Q uả ng
Nam - Đà N ẳ ng gồ m năm ph ầ n vói các lễ :
lễ vọ ng (lễ cáo giỗ hay lễ tiên thư ờ ng, có ý
nghĩa báo cáo vê việ c cúng giỗ , tế ), lễ
nghinh Ông S anh (nghinh Ông), lễ tế cô
hồ n, lễ chánh tế , lễ xây chầ u bả trạ o và h át
hộ i [7, tr.37-38].
Các bư ố c tron g lễ hộ i cầ u ngư ở K hánh
Hoà là: lễ rư óc sắ c, lễ ng hinh thu ỷ triề u, lễ
tế sanh, lễ chán h tế và h á t th ứ lễ .
Nghi thứ c cúng cá voi ở Bình T hu ậ n
bao gồ m:
Chiêu ngày th ứ nhát: rư ớ c ô n g Sanh,
ngư dân đư a kiệ u ra sông hoặ c cử a biể n,
đọ c văn tế , h á t chèo bả trạ o đư a Ông để
rư ớ c Ông và các th uỷ th ầ n vê dinh lăng vạ n
an vị .
Sáng sâm ngày th ứ hai: làm lễ cúng cáo
yế t và mổ heo, cắ t p hầ n lư ng, bụ ng để nấ u
các món cúng lễ , ph ầ n còn lạ i để sông đư a
lên bàn thờ chính điệ n để tế . Sau đó làm lễ
dâng trầ u , dâng rư ợ u, đọ c sắ c phong, bài
tế , h át m úa bả trạ o hầ u Ông.
Buổ i trư a đế n chiêu tố i thư ờ ng tổ chứ c
cúng lễ k ha i diên, tô chứ c m úa h á t bả trạ o,
h á t tuồ ng tạ i nh à võ ca [27, tr .342-343],
Quy mô tổ chứ c lễ hộ i tuỳ thuộ c vào
tình h ìn h th u n hậ p củ a từ ng đị a phư ơ ng, vì
mọ i chi phí để u dự a vào sự đóng góp tự
nguyệ n trong vạ n ghe. N ăm nào biể n đư ợ c
mùa, không xả y ra chìm ghe, chế t ngư ờ i,
hư m ấ t phư ơ ng tiệ n đ ánh b ắ t th ì việ c cúng
kiế n đư ợ c tô chứ c to hơ n, các ho ạ t độ ng vui
chơ i sôi nổ i và phong p hú hơ n, h á t bộ i kéo
dài ngày hơ n. T râu bò, heo gà đư ợ c giế t
th ị t, ăn uố ng linh đ ìn h trong dị p cúng tế
này.
2 .4 . Đ á m t a n g c á O n g
Cư dân ven b iể n từ T han h Hoá vào đế n
phía N am đề u có tụ c thờ cá Ông. Do vậ y,
khi gậ p cá Ông "luỵ " hay "lị ”, ngư dân
thư ờ ng tổ chứ c m ai tán g rấ t chu đáo.
Thông thư ờ ng cá voi chế t do bị cá ép, bị
bệ nh già, môi trư ờ ng ô nhiễ m , đôi khi cũng
do vô ý vư ớ ng vào lư ớ i đ ánh cá. Trư ờ ng hợ p
cá bị sóng lớ n đán h dạ t vào bờ như ng chư a
chế t, ngư d ân sẽ tìm mọ i cách đư a cá xuố ng
nư ớ c, trở ra biể n. Ngư ờ i đầ u tiên thấ y xác
cá Ông đư ợ c xem là trư ở ng tang, coi như
con ông N am Hả i. Ngư ờ i đó phả i độ i dây

56 NGUYỀ N THANH LỢ I - TỤ C THÒ CÁ ÔNG ỏ ...
rơ m mũ bạ c như để tan g cha mẹ m ình. Dân
làng tổ chứ c đám ta n g và xem anh ta như
mộ t vị cao niên đư ợ c trọ ng vọ ng trong làng.
Nế u ngư ờ i đó là ph ụ nữ thì bị bãi miễ n và
trư ở ng tan g phả i là m ộ t ngư ờ i con trai
trong gia đình. Ngư ờ i này ở đị a phư ơ ng nào
thì đư ợ c phép cung ng hinh xác Ong vê cấ p
táng ở lăng củ a đị a phư ơ ng đó và thư ờ ng
xuyên canh gác bên cạ nh xác cá voi cho đế n
khi hoàn tấ t công việ c m a chay.
Trong bài khả o cứ u Tín ngư ỡ ng và
ngạ n ngữ dân gian vùng thung lủ ng Nguồ n
Sơ n, tinh Quả ng Bình (1901), C adière mô
tả : “Khi chôn cấ t, cá phả i đư ợ c phủ liệ m
trọ n vẹ n bang vả i hoặ c lụ a. Ngư ờ i đầ u tiên
thấ y cá đư ợ c mang tư ớ c là trư ở ng nam và
thi hành phậ n sự ấ y... Trư ở ng nam củ a cá
voi cũng thi hành phậ n sự y như mộ t
trư ở ng nam trong gia đình vớ i ngư ờ i quá
cô. Ong ta bậ n áo chế đạ i tang, độ i mủ rơ m,
áo rộ ng, xô lai, gấ u áo bẻ ra ngoài, mộ t tấ m
vả i nhỏ kế t đăng sau, nghĩa là anh ta đư ợ c
xem như là ngư ờ i thân thuộ c gầ n nhấ t củ a
bậ c linh thiêng vừ a tạ thế . Chính anh ta là
ngư ờ i sẽ cử hành mọ i tang lễ và nhậ n nhiề u
ăn lành nhấ t củ a cá voi" [6, tr.298].
Tuỳ theo ông Lớ n hay ông Cậ u, việ c
chôn cât cá voi có khác n hau. Theo ngư dân
thì cá voi lớ n gọ i là cá Ong, nhỏ hơ n thì gọ i
là cá Cô và cá Cậ u. Ngoài ra, tuỳ theo đị a
phư ơ ng và đặ c điể m h ìn h dáng, đị a bàn
hoạ t độ ng mà cá voi có nhiề u tên gọ i khác
nhau: ông Khơ i, ông Lộ ng, ông Chuông, ông
Kìm, ông Xư a, ông Đự ng, ông Hoa, ông
N gư , ông T hô n g, ôn g M á n g , ô ng T hoi, ô ng
Mun, ông Đăng, ông Hổ ... Khi chôn cấ t ông
Lớ n, ngư ờ i ta xây bọ c ván xung quanh,
phía trên đổ cát trắ n g, nơ i nào có điề u kiệ n
thì xây mộ tậ p th ể b ằ ng xi m ăng. Vớ i ông
Cậ u th ì an táng nơ i mộ phầ n. Các lăng Ông
đề u có các khu nghĩa tra n g dàn h để mai
táng cá Ông n hư T am Hả i (huyệ n Núi
Thành, Quả ng N am) có đế n trê n 300 mộ cá
voi (lớ n n h ấ t nư ớ c), lăng ồ n g ở xã X uân
Hả i (huyệ n N úi T hành, Q uả ng Nam ) khu
mộ có 60 - 70 h ài cố t cá ông trê n diệ n tích
l.OOOm2. Trên đả o Hòn T ran h (huyệ n Phú
Quý, tỉ n h B ình T hu ậ n) có mộ t ngôi mộ
chôn đế n 72 con cá voi chế t tậ p thê vào
năm 1925. ớ Đầ m Môn (huyệ n Vạ n Ninh,
tỉ nh K hánh Hoà) có trư ờ ng hợ p 11 con cá
voi lụ y cùng mộ t lúc. N hữ ng nơ i p h á t hiệ n
đư ợ c cá Ong chế t dạ t vào bờ m à quá lở n thì
phả i dùng đăng quây lạ i dư ói bế n cho th ị t
ruỗ ng mụ c ra. Ngư dân miề n T ru ng quan
niệ m rằ n g nêu vùng biể n nào có cá Ong
chế t tấ p vào n hiề u thì sẽ đư ợ c m ùa đánh
bắ t tro ng nhiề u năm liề n.
Trong lễ chôn cấ t cá Ông, có mộ t điêu
giông nh au giữ a các đị a phư ơ ng là ngư ờ i
đầ u tiên th ấ y cá ồ n g luỵ , trong đám tang
phả i ăn mặ c như trư ở ng nam . Cụ th ể là
nón rơ m sô tư a, áo quầ n m àu trắ ng, ố ng
rộ ng, không vắ t sổ , đư ờ ng may lộ n trá i và
mộ t m ả nh nhỏ gắ n sau lư ng và đi giậ t lùi
trư ớ c linh cữ u tro ng đám tang. 0 K hánh
Hoà, tan g phụ c thư ờ ng m ay bằ ng vả i đỏ .
Toàn thê ngư phủ trong làng có bổ n phậ n
tậ p tru n g đông đủ để cử h àn h lễ mai táng
cho trọ ng thể . Trư ớ c đây thòi gian hành lễ
có thê từ ba đế n 10 ngày tuỳ theo khu vự c.
Ngày nay lễ diễ n ra trong ba ngày ba đêm,
chi phí rấ t tố n kém.
Đúng ba năm , th ị t cá voi rữ a hế t, ngư ờ i
ta tiên hành lễ qu ậ t mộ , hài côt đem vào
lăng thờ , gọ i là “thư ợ ng ngọ c cố t”. Ngọ c cố t
đư ợ c rử a bằ ng rư ợ u trắ ng và phơ i khô, do
mộ t ngư dân cao tuổ i phụ trách và đư ợ c cho
vào các thùng, quách, khạ p, niêm phong cẩ n
thậ n, đư a vào lăng thờ . Theo ngư dân, khi
không trú n g m ùa cá, họ đế n đây làm lễ rư ở c
ngọ c cố t, đô rư ợ u trắ n g vào ngọ c cót, hứ ng
lấ y và đem rư ớ i vào dàn lư ớ i, cầ u mong cho
đánh b ắ t đư ợ c nhiề u cá tôm. Lăng Thuỷ Tú
chứ a hơ n 100 bộ xư ơ ng cá voi, trong đó có
hàng chụ c bộ xư ơ ng gầ n 200 năm tuổ i. Lăng
An T hạ nh (xã Tam Thanh, huyệ n Phú Quý,
tỉ nh Bình Thuậ n) hiệ n còn giữ trên 70 bộ