Nghiên cứu trao đôi
21
l.T ụ c th ờ n ư ớ c tr o n g q u a n h ệ với c á c tín n g ư ỡ n g d â n g ia n
L ề h ộ i c ầ u nư ớc v à tr ị th u ỷ c ủ a
n g ư ờ i V iệ t ven s ô n g H ồ n g v ù n g H à N ội
tr o n g q u a n h ệ với tụ c th ờ Đ á
Đây là h ìn h thứ c tín ngưỡng d ân gian
TỤC THỜ NƯỚC CỦA NGƯỜI VIỆT VEN SÔNG HỒNG
có ảnh hưởng k h á rõ tro n g hai nhóm lễ hội
liên q u a n đến yếu tố nước. Điều này có cơ
NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNGn
sở từ vai trò và ý ng h ĩa của Đá tro n g tâm
thức d ân gian. Với tín h c h ấ t cứng rắn , đá
luôn được cho là biêu tượng của sự hiện N hìn từ quá k h ứ ch ú n g ta sẽ th ấ y sự di chuyển của người V iệt từ m iền núi qua diện của th ầ n lin h , tạo nên sức m ạnh. Đốì vùng châu thố tới biển là m ột quy lu ậ t tấ t với n h iêu cộng đồng trê n th ê giới, các công yêu. C hính tạ i quá trìn h di chuyên này, cụ b ằn g đá không chỉ đơn th u ầ n là vật người Việt đã lựa chọn cây lú a nước làm dụng lao động, nó là v ậ t th iê n g m ang ý
nghĩa m a th u ậ t. Đá còn lả đặc trứ ng cơ bản
của núi. H ình d á n g sừng sững của núi lại nguồn cung cấp lương thực chủ đạo, th ay thê cho cây lú a nương có n ă n g s u ấ t r ấ t thấp. Yếu tô nước vôn đã r ấ t cần th iế t
trong đời sống con người càng trở n ên có ý thường được xem n h ư trụ c vũ trụ , thông linh giữa trời và đ ất, đá vì th ê có th ể là
phương tiệ n để tru y ề n đ ạ t mong m uôn của nghĩa đặc b iệt q u a n trọ n g sa u sự lựa chọn đó. N hưng ở vùng ch â u th ổ th ấp , người con người với các th ế lực siêu n h iên khác. Việt phải đôi m ặt vởi n ạ n lụ t lội. Vì thê,
Và đương nhiên, có m ột mong m uôn rấ t m ãnh liệt m à con người đã từ ng gửi gắm một hệ quả t ấ t yếu được đ ặ t ra đôi vởi người Việt k h i k h a i th ác ch âu thổ th ấ p là vào đá: đá có th ể m ang sức m ạn h điều
chinh nguồn nưóc theo k h ẩ n nguyện của phải nghĩ tới việc trị th u ỷ và th u ỷ lợi. Yêu tố nưốc, với tín h c h ấ t h a i m ặt và khó có th ể con người. H iện tượng đá cầu m ưa phô biến
khống ch ế đã trở th à n h mối q u a n tâ m hàng đầu trong tâ m thức người V iệt. Các lễ hội trê n th ế giới là m inh chứng về lớp ý nghĩa chuyển tả i k h á t vọng tr ầ n th ế của con phản á n h tục thờ nước của người V iệt ven người qua đá. Tượng nữ th ầ n Nước của sông Hồng vùng H à Nội vì vậy m à chủ yếu
xoay qu an h h ai nhóm chính: nhóm lễ hội
người A zteque vì vậy m à được tạo dựng với m ột tấm che ngực có bôn chuỗi h ạ t bằng đá x a n h .(1>
m ang ý nghĩa cầu nước và nhóm lễ hội thê hiện k h á t vọng trị th u ỷ . T uy h a i nhóm có nhiều n ét khác b iệt kể từ tru y ề n th u y ế t
q u a n h n h ữ n g tư ơ n g đ ồn g c h u n g c ủ a to à n hệ thông. M ột trong n h ữ n g n é t tương đồng
nước v à trị th u ỷ c ủ a ngư ờ i V iệt v en sông Hồng vùng H à Nội. Tục thờ Tứ P háp ở ch ù a S ét tro n g q u a n hệ với đức Thạch Q uang P h ậ t p h ầ n nào cho thấy: đá tro n g lễ
đến lễ hội n h ư n g ch ú n g vẫn gắn k ế t xoay N hữ ng ý n g h ĩa căn b ả n của đá đêu có th ể tìm th ấ y tro n g cả h a i nhóm lễ hội cầu
rấ t dễ n h ậ n th ấ y là cả h ai nhóm lễ hội này đểu chịu ả n h hưởng của các tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo ngoại lai khác.
hội này đã m ang ý ng h ĩa của m ột sinh thực khí. T hạch Q uang P h ậ t (hiện được thờ ỏ chùa D âu) là bức tượng đá m ang ý nghĩa NCS. Viện Nghiên cứu Văn hóa
NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG
22
Đức Bạch H ạc T am G iang có nguồn gốc tru y ề n sin h lực và p h á p th u ậ t tạo m ưa của th u ỷ th ầ n k hi chư a được rưởc vê' Yên Nội nhà su' K hâu Đ à La cho Tứ ph áp dã giũ vai đã phối thờ cùng T hạch K h an h tương quân
ở đền Bạch Hạc. T hạch K h an h ch ín h là T h ầ n Đá. T rong môi q u a n hệ cặp đôi này, trò sinh tạo. B ản th â n h ìn h d án g pho tượng giông n h ư một sin h thực k h í nam đã n h â n m ạnh rõ hơn điều này. Ý ng h ĩa sinh tạo
người ta n h ậ n th ấ y n ú i và nước cho đến tậ n này còn được tìm th ấ y tro n g b ản kể về
nguồn gổc T h á n h Gióng ở Bộ Đ ầu (Thường
Tín). Chi tiế t bà mẹ n ằ m nghỉ trê n một vùng đ ấ t ngã ba sông này v ẫ n chưa bị thê hiện th à n h h a i sự đối lập. c ả h ai đều được sinh từ bọc trứ n g m à rồng th ầ n b a n tặng,
cùng từ nước sin h ra. phiến đá sạch sẽ, ch ân chạm vào m ột vết lõm trê n đó, về n h à m ang th a i là sự huyền
thoại hoá năn g lực phồn thự c của đá. P hổ biến hơn h ế t, tro n g các lễ hội cầu
nưốc và trị th u ỷ ven sông H ồng vùng Hà
Nội, đá được th e h iện tro n g vai trò là núi. N úi hội tụ được cả h ìn h th ể kì vĩ, tín h chất
Với vai trò của m ột thự c th ê chứa đựng linh hồn th iê n g liêng, p h iến đá m à L inh Lang Đại Vương gốỉ lên kh i hoá, thờ trong đền Voi Phục đã gắn k ế t q u a n hệ giữa đá cứng rắ n và cả tư th ế đối lập với nước
k h iên nó trỏ’ th à n h yếu tô x u ấ t hiện quen th iên g với con giao long dài tră m trượng trườn xuống Hồ Tây. T rong lần giáng độ thuộc tro n g nhóm lễ hội m ang ý nghĩa trị
cứu đời, đức H uyền T hiên T rấ n Vũ, m ột vị th ầ n trị thuỷ, đã để lại vết ch â n ở tả n g đá thuỷ. Q uan hệ b ả n c h ấ t giữa đá và nước đã trở th à n h lưỡng p h â n , th à n h đối kháng. Nó lớn trê n đỉnh núi Sái. N úi Sái vì vậy trở
th ê hiện qua h ìn h ả n h người Khổng Lồ. Người Khổng Lồ là m ột sả n phẩm của tư th à n h n ú i thiêng, là nơi tu h à n h của người có công giúp vua Thục ngăn nước, xây thành. duy th ần thoại, khi đó, con người mới bắt đầu
Lể rước nước làng Kim Quan. Ảnh: Hoàng Lé
Nghiên cứu trao dổi
23
Mô tip sinh nở th ầ n kì tro n g nguồn gôc
các n h â n v ậ t tru n g tâm của hai nhóm lễ có ý niệm về ý thứ c v ậ t ch ất. D ần dần, người Khổng Lồ đã m ang nguồn gốc và được gắn với m ột h ìn h d ạ n g so sán h cụ thể. hội này đều cho th ấ y sự liên q u an tối một Trong nhu cầu của sự so sá n h ấy, r ấ t tự con vật r ấ t phố biến, m ang ý nghĩa biểu
tượng cho nguồn nước là con rắ n (mẹ Linh
L ang bị rồng q u ấn , mẹ Sơn T inh th ấy rồng nhiên, hình ả n h núi luôn được sử dụng. Núi đã không còn chỉ là nơi in dâ'u vết người Khống Lồ khi di chuyển, núi là chính p h u n chu tin h , mẹ đức Bạch Hạc Tam người Khổng Lồ đan g tồn tại. N úi được G iang m ộng th ấ y rồng cho 5 quả trứng...). đồng n h ấ t với người K hổng Lồ bởi cùng Đây là con v ậ t đặc biệt, có r ấ t nhiều biến chung tín h c h ấ t kì vĩ, chung tín h c h ấ t bắc th ê và m ang n h iêu ý nghĩa. Một trong
nhữ ng ý nghĩa k h á nồi b ậ t được gắn với
rắn: nó được coi là biêu tượng của tính cầu từ th ê giới siêu n h iên đèn nơi trầ n thế. Sơn T inh là biêu tượng đã được tạo nên trong quá trìn h p h á t triể n n h ư th ế của tư
duy nguyên thuỷ. Lực lượng đại diện cho lưỡng trị giới tính... biếu lộ ở chỗ nó vừa là tử cung, vừa là dương v ậ t{i\ N ét ý nghĩa th iên nhiên hay cho k h ả n ă n g chinh phục này của rắ n m ột p h ầ n x u ấ t p h á t từ chính
hình th ê của ch ú n g nh ư n g p h ầ n khác, do
vai trò đem lại s ự sông của hình tượng. Con rắ n huyên thoại tạo nên sự sinh sôi nảv nở
đã khiến nó được h ìn h dung th à n h một linga của trời cắm sâ u vào lòng đ ấ t (cầu th iên nhiên đêu được n h â n lên theo sức m ạnh của tự nhiên. T h á n h Chèm , Sơn Tinh, T h á n h Gióng, Linh Lang, H uyền T hiên T rấ n Vũ, th à n h hoàng Lệ M ật... tuy m ang tín h c h ấ t khổng lồ khác n h a u như ng suy cho cùng đêu th ể hiện d âu vêt của tục vồng). Sự giao hợp th iê n g liêng này bao giờ
cũng đi kèm với nh ữ n g cơn m ưa, nguồn
tin h quý b á u khởi đầu sự sông. Lốp ý nghĩa này đã đồng n h ấ t rắ n = dương v ậ t = nước thờ Núi, thờ Đá tro n g q u a n hệ với mục đích điểu hoà nguồn nước của người Việt cô. Tên gọi P hù Đống, vì th ế, thực c h ấ t chỉ m ang nghĩa là núi đ á’"’. m à sự chuyển hoá vai trò thì không th ể lúc
nào cũng p h â n b iệt rõ rà n g được.
Giống như m ột sinh thực khí, rắ n còn L ễ h ộ i c ầ u nư ớc v à t r ị th u ỷ củ a n gư ời V iệt ven s ô n g H ồ n g v ù n g H à N ội tín n g ư ỡ n g p h ồ n tr o n g q u a n hệ vớ i là hiện th â n của nhục dục, tức là hiện th â n th ự c của nguồn n ă n g lực sin h sản, m ang lại Tín ngưỡng phồn thực tu y được hiểu công n ă n g đầy đủ cho m ột dương v ậ t sung
m ãn. Trong đạo M ật tông, đấy là đơn giản là sự sù n g bái việc sinh nở của m uôn loài nh ư n g n h ữ n g biểu hiện của nó K undalini, cuộn k h ú c ở chân cột sống, trẽn thì lại r ấ t đa dạng, bởi suy cho cùng, đó luân xa của trạng thái ngủ, nó d ù n g m iệng
chính là mục đích cao n h ấ t của cuộc sông. Tuy nhiên, d ạn g biểu hiện được cho là phô
m à ngậm bít lấy đ ầ u dương vật lại. K hi thức dậy, rắn rít lên và cứng người lại, liên tiếp leo lên các lu â n xa: đ â y là dục năng d ă n g lên, là s ự sống tái h i ệ n . Bởi vậy, hiện tượng rắ n phôi n g ẫ u để sinh ra con
người không p h ải chỉ riêng gặp trong
hu y ền thoại người Việt. Đó là hiện tượng
m ang tín h đồng nguyên v ăn hoá. biến n h ấ t của tín ngưỡng này là việc phụng thờ sinh thực khí, h à n h vi giao phối và các h ìn h thức liên q u a n đến nghi lễ nông nghiệp, cầu được m ùa. Lễ hội cầu nước và trị th u ỷ của người V iệt ven sông Hồng vùng Hà Nội có q u a n hệ k h á m ậ t th iế t với những dạng biểu hiện này.
NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG
24
C húng tôi tìm th ấ y sự tương đồng
của người Việt, h ầ u hết, đểu m ang ý nghĩa cầu m ùa. Lễ hội cầu nưốc và trị th u ỷ của người V iệt ven sông Hồng vùng H à Nội, do tín h c h ấ t cụ th ể tro n g ý nghĩa của việc tố chức hội, càng th ể h iện mô'i liên qu an chặt
trong huyền th o ại vê sự ra đời của các vị th ầ n liên q u an đến yếu tố nước từ một motíp của người Choang. Việc Bô Lạc Đà vôn m ang tín h rồng (rắn) đan g bơi trê n biển, ngậm m ột ngụm nưổc p h u n th ẳ n g vào
rốn của Mễ Lục G iáp, để rồi n à n g trở về chẽ đó. Việc rước tượng Tứ P h á p qua bốn ngôi chùa h à n g tống là: ch ù a Sét, chùa P h á p Vân, ch ù a Yên D uyên, ch ù a D âu để nhà, cái bụng cứ m ôi ngày m ột to dần lên,
và chín th á n g sau, nàng sin h ra m ột ô con... là tổ tiên người C hoang’5’ m ang ý nghĩa cầu m ưa, phục vụ sả n x u ấ t là nghi thức quen thuộc m à trước Cách m ạng th á n g 8, do tín h c h ấ t di chuyển gan gùi b ằn g đường giống như việc đức th á n h Linh L ang Đại
Vương ra đời. H ình ả n h rồng p h u n chu tin h
sông, các làn g vẫn thư ờ ng làm . N hà Lê van có tục đến ch ù a V ua làm lễ cầu m ưa trong dịp đ ầu năm . N hữ ng lễ hội được tổ chức
còn được gặp ở sự ra đời của Sơn Tinh, Xà Nương công ch ú a (đền Đồng N hân, xã Hải Bôi, Đông Anh). T rong môi liên hệ gián tiếp, việc nằm mơ th ấ y rồng, rắ n hay sinh ra một bọc như trứ n g rắ n tro n g sự ra đời vào th á n g 3, 4, 5, 8, tuy không nhiêu, và có vẻ n h ư không gắn bó vói lịch sả n x u ấ t nông nghiệp, n h ư n g chính thời điểm tổ chức này lại th ể hiện tín h khác b iệt cho nhóm lễ hội
của Bạch Hạc T am G iang, T h á n h Gióng ở Bộ Đầu, ông Đông, ông Vực ỏ làn g Ruộng
(xã Vĩnh Ngọc, Đông Anh)... cũng đêu cho
th ấy môi liên hệ với m ột yếu tô m ang vai trò công cụ sinh sản, khởi đ ầu sự sông là rắn. Vì vậy, xét trong q u a n hệ với lớp nghĩa phổ q u át này, h ìn h tượng bô' Rồng mẹ Tiên liên q u an đến nưốc ven sông Hồng vùng Hà Nội. Hội đình C hèm được tổ chức vào th á n g õ, hội Dóng vào th á n g 4, hội ch ù a H àng Khoai, hội làn g Lệ M ậ t là th á n g 3, hội đến Và th á n g 8, n h ữ n g lễ hội này đêu nằm trong nhóm th ể h iện k h á t vọng trị thuỷ. Thời điểm tổ chức lễ hội như vậy là đã khá
của người Việt cũng không phải là hiện tượng độc đáo.
Nêu như các lễ hội cầu nước và trị th u ỷ của người Việt ven sông Hồng vùng Hà Nội
tương khớp với m ùa con nước từ thượng nguồn sông Hồng. T h á n g 3 âm lịch đã có nh ữ n g cơn m ưa lổn, th á n g 4 gắn với lũ tiểu m ãn, th á n g 5, 6 là lũ về thường xuyên, th á n g 7, 8 là đỉnh lũ. Việc tổ chức lễ hội vê có quan hệ với tục thờ sin h thực khí trong tín ngưỡng phồn thực là hiện tượng còn
các n h â n v ậ t a n h h ù n g có công trấ n diệt loài th u ỷ tặc vào n h ữ n g thời điểm không phổ biến n h ư trê n , chắc chắn cho th ấ y mối
quan hệ của lễ hội với nỗi sợ h ãi con nước của cư d ân nông nghiệp. Sự cầu mong diều hoà nguồn nước không th ể m ang ý nghĩa khác vởi mục đích cầu m ong cho con người và vạn v ật sin h sôi. phải giải mã tro n g mối so sá n h vối k h u vực, thì việc nhóm lề hội này gắn bó với các nghi lễ nông nghiệp khác là điều r ấ t dễ dàng n h ậ n th ấ y . Tới m ức, tá c g iả E .p. M aspero”’1 đã xêp lễ hội thờ nước vào nhóm lễ hội nông nghiệp. Sự gắn bó này trước h ết th ể hiện ở chính thời điểm tổ chức lễ hội.
2 T ụ c th ờ n ư ớ c tr o n g q u a n h ệ với c á c tô n g iá o n g o ạ i lai
Lễ hội tru y ề n th ô n g vùng châu thổ sông Hồng nói chung thườ ng được tố’ chức vào m ùa thu và m ùa x u â n theo lịch sản xuất nông nghiệp. Điêu này cho thấy, vê bản chất, các lễ hội dân gian tru y ề n thông T ục c ầ u nước v à t r ị th u ỷ c ủ a ngư ời V iệt ven s ô n g H ồ n g v ù n g H à N ôi tr o n g m ôi q u a n h ệ với P h ậ t g iá o
Nghiên cứu trao đổi
25
M ang theo hệ tư tưởng hoà bình và giải N hữ ng biểu h iện cơ b ả n của tín ngưỡng thoát, P h ậ t giáo đã tìm th ấ y sự hoà hợp sù n g bái các h iện tượng tự n h iên của người hiếm th ấy với các tín ngưỡng d ân gian bản Việt tụ tro n g tục thờ Tứ P h á p cũng đã được địa. T rên thực tê, các h ìn h thức tín ngưỡng
dân gian tru y ề n th ô n g của người Việt đều P h ậ t giáo hoá. M ột nghi thức cầu nước điển h ìn h của người V iệt đã được thực hiện tại
chùa. Cho dù ở vùng H à Nội, ý ng h ĩa cầu chứa đựng dấu ấn P h ậ t giáo, m ang m àu sắc P h ậ t giáo. Nói theo cách của nh ữ n g n h à
nước v ân được n h ấ n m ạn h r ấ t rõ qua mĩ th u ậ t tạo tượng và việc p h ụ n g thờ Tứ văn hoá học, P h ậ t giáo vào V iệt N am chủ yếu bằng con đường tiếp xúc tự nguyện. P háp, th ì chiếc m ũ tì lư trê n đ ầu pháp
Đ iện (chùa Sét) đã trở th à n h vòng "Kim Tục cầu nưốc và trị th u ỷ của người Việt cô", ấ n đ ịn h p h ạm vi ả n h hưởng của Bà vẫn
p h ả i tro n g tầ m kiềm toả của P h ậ t giáo. ven sông Hồng vùng H à Nội cũng không th ể nằm ngoài sự ả n h hưởng đó. T hậm chí, N hư vậy, con đường c h ín h để P h ậ t giáo do vị trí liên kê với tru n g tâm P h ậ t giáo
Luy Lâu, do là kinh đô n h iêu đòi, sự ả n h đi vào nh ữ n g lễ hội nước của người Việt ven sông Hồng vùng H à Nội là k h ắ n g đ ịn h dấu hưởng của P h ậ t giáo đến văn hoá T hăng
Long còn được xem là m ạn h hơn các khu
vực khác. ân ngay từ sự ra đời của n h â n vật. Đây gọi là lô"i ản h hưởng bao trù m , bởi, k h i nguồn gốc đã m ang m àu sắc P h ậ t giáo, nhữ ng N gay từ tro n g n h ữ n g th ầ n tích về các công trạ n g tiếp theo tro n g cuộc đời mặc n h â n v ật thời đại H ùng Vương, thời đại m à n h iên sẽ góp p h ầ n tích cực tôn vinh P h ậ t có lẽ không th ê có liên hệ gì với P h ậ t giáo,
dấu ân của tôn giáo này đã được ghi r ấ t
đậm. Đương nhiên, điêu đó là do vai trò của p háp. H uyền T h iên T rấ n Vũ tà i ba pháp th u ậ t n h ư n g nguồn gốc cũng đã là P h ậ t tử, vị th ầ n m ang đậm m àu sắc Đạo giáo này - các n h à Nho sau này k h i đ ịn h văn huyền
chỉ cần b ằ n g cách kéo dài nguồn gốc - đã trở th à n h hiện th â n cho th u y ế t lu â n hồi và thoại, n h ư n g v ẫn được người d ân chấp n hận, k h ẳ n g đ ịn h ả n h hưởng của P h ậ t giáo k h ả n ă n g th u phục của T am Bảo. không th ể p h â n đ ịn h được b ằ n g môc thời Tục c ầ u nư ớc v à t r ị th u ỷ c ủ a n gư ời gian chính xác. T h á n h Gióng ỏ Bộ Đ ầu V iêt ven s ô n g H ồ n g v ù n g H à N ộ i tr o n g
m ô i q u a n h ệ với Đ ạ o g iá o (trong vai trò là người giúp d ân chông lụ t trước khi bay vê núi Sóc để hoá) được sinh
Niềm tin vào sự m ẩu nhiệm của nhữ ng ra từ một chiếc bọc h ìn h hoa sen bởi m ột bà phép th u ậ t tro n g Đạo giáo, đặc b iệ t là Đạo mẹ tu theo đạo P h ậ t. S au khi được chính
giáo p h ù th u ỷ , đã n h a n h chóng tìm th ấy con m ình cứu khỏi th u ỷ tặc, b à mẹ đã hoá n ên tả n g tương đồng trê n đ ấ t Giao C hâu ngay trê n ta y đức T h á n h th à n h m ột ngôi ngay từ nh ữ n g th ế kỉ đẩu công nguyên. tháp. H iện nay, tượng T h á n h Gióng ở Bộ
Đ ầu vẫn được tạc tro n g tư th ê đứng trê n bệ sen có hình h ai con g iải, ta y chông kiếm , tay kia nân g bảo th á p là linh hồn bà mẹ tụ
Đ ến t h ế k ỉ th ứ V II, Đ ạo giáo p h ù th u ỷ đã r ấ t th ịn h h à n h . Việc Lý Thường M inh đời Đường cho dựng q u á n T am T h a n h đe tạ ơn đức Bạch Hạc T am G iang p h ù giúp ông ta đ á n h giặc Ai Lao chứng tỏ Đạo giáo đã được chính quyền T ru n g ương th ừ a nhận.
lại. Trong tư th ế này, T h á n h Gióng giông như một P h ậ t tử đã quy y P h ậ t pháp, tôn vinh hai biểu tượng th iê n g liêng của nhà
P hật. T huỷ th ầ n T am G iang bảo trợ cho cư dân
NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG
26
T ục c ầ u nư ớc v à t r ị th u ỷ c ủ a ngư ời Việt cổ trê n con đường tiến xuống đồng V iêt ven s ô n g H ồ n g v ù n g H à N ội tr o n g bằng đã được khoác m ột tấ m áo mối, áo của q u a n hệ với N h o g iá o đạo sĩ T ru n g Hoa.
T ại một điểm dừng ch ân khác, dấu ấn Theo d ấu ch ân của kẻ xâm lược, Nho
giáo khó tìm được con đường hòa nh ập thực của m ột vị th ầ n đá trị th u ỷ , giúp Thục P h án chống lụ t ở c ổ Loa tiếp tục được sự tro n g xã hội V iệt N am hơn các tôn giảo
khác. T ừ t h ế k ỉ X , nước Việt độc lập, các m ang phép th u ậ t của Đạo giáo. L ần này, sự hiện diện của vị đạo sĩ được khắc hoạ rõ n ét triều đại cần m ột tập hợp d â n chúng ủng
hộ m ìn h nên p h ả i chú ý ít nhiều đến đời hơn. Từ tên gọi (H uyền T hiên T rấ n Vũ), h ìn h dáng (người khổng lồ), tra n g phục (áo sống của họ, đặc biệt là đời sống tinh
đen, tóc xoã, ta y cầm kiếm ) đến h ìn h thức x u ấ t hiện (ông già trê n núi, chông gậy) và thần... đòi hỏi người cầm đ ầ u p h ả i mượn m ô h ìn h d u y lí của K hổng giáo1 H àng loạt phép th u ậ t (diệt kim kê, cho m óng rùa..), tà i liệu do các nho sĩ chép lại nhữ ng sự
kiện lịch sử m ang m àu sắc huyền bí, những H uyên T hiên trở th à n h m ột vị th á n h Đạo giáo điển h ìn h tro n g tâ m thức người Việt. th ầ n linh p h ụ n g thờ tro n g d ân gian được
các ông vua đặc b iệt q u a n tâm . Vai trò này
của các nho sĩ đã k h iên cho huyên thoại khi Dọc sông Hồng, người V iệt tiếp tục mở đất. Cách thức đắp tường th à n h , m à thực chất là đắp đê ngăn lũ của Thục P h á n ở c ổ Loa được đ ịnh v ăn đã bị nhuộm th êm m ột lớp được lặp lại khi người V iệt đắp th à n h Đại m àu. Nho giáo ả n h hưởng trong các lễ hội
nói chung, lễ hội cầu nưởc và trị th u ỷ ven sông Hồng vùng H à Nội nói riêng là hiện La, có điểu, th à n h Đại La đã đ á n h dâu một lần chuyên đê mói, rộng hơn ra mà thôi. Các lần chuyển dời sa u đó liên tiếp được tượng t ấ t yếu. đảnh d ấu bằn g sự x u ấ t h iện của nhữ ng Biểu h iện đ ầu tiê n và bao trù m của
Nho giáo lên các n h â n v ậ t tro n g nhóm lễ n h â n vật m ang phép th u ậ t đặc biệt. Do đặc điểm địa lí sông Hồng vùng H à Nội, các
hội thờ nước là xu hướng lịch sử hoá, tru y ề n th u y ế t hoá n h â n v ậ t th ầ n thoại. n h â n v ật m ang m àu sắc Đạo giáo đậm n ét này thường được gắn liên vói công trạ n g
N h â n v ậ t được p h ụ n g thờ b a n đầu vốn là các th u ỷ th ầ n hoặc các n h â n v ật chê ngự
được th u ỷ ta i n h ư n g đều trở th à n h những điều hoà nguồn nước, trị thuỷ, chông lầy, chông lụ t của n h ữ n g vị th ầ n trong tín ngưỡng dân gian, ở p h ía cuối của con sông bộ tưổng phò vua d iệt giặc. L inh L ang Đại
a n h em đức B ạch H ạc T a m G ian g đ ều là th u ỷ th ầ n do Long vương p h á i xuồng phò
Hồng khi chảy qua vùng H à Nội, Chử Đạo Tổ cũng được xây dựng theo hướng đi ấy. vương hay U y Đô L inh L ang vốn gốc thuỷ th ầ n đêu quy th u ậ n vương quyên. Năm
vua. T h á n h Gióng vốn là con ông Đổng, m ang ý n g h ĩa n h ư m ột th ầ n linh vừa có
k h ả n ă n g m ang lại n h ữ n g cơn m ưa giông, Một m ặt, điểu n ày p h ả n á n h tín h c h ấ t khốc liệt của cuộc giành giật, vật lộn với tự n h iên và con sông H ồng h u n g dữ để người Việt chiếm lĩnh đồng bằng, ở đó, con người không th ê không cầu viện vào sự giúp đỡ của n h ữ n g điều th ầ n bí, kì diệu; m ặ t khác
vừa có dán g vóc của vị th ầ n trị thuỷ. VỊ th ầ n xuống đời đã được đ ịn h văn tro n g tư
cũng p h ả n á n h hệ q u ả t ấ t yếu của quá trìn h định văn hu y ền th o ại k h á m uộn sau này, khi đó, Đạo giáo đã có đến h à n g chục th ế kỉ ảnh hưởng. th ê của người a n h h ù n g giúp vua đuổi giặc. T h ầ n núi Sơn T inh phò vua H ùng, Chử
Nghiên CÚỈJ trao đôi
27
Đồng Tử với phép th u ậ t và sức m ạnh cũng bê m ặt châu thổ. C húng đ an xen vào n h au vẫn trôn khỏi cuộc đ ụ n g dầu với q u ân lính đên mức khó có th ế n h ậ n b iết đ âu là chặng của vua H ùng đuổi theo, ch àn g tra i Lệ M ật khởi đầu. Tuy nh iên , bóc tách các lóp bồi tụ cuối cùng cũng làm q u a n tro n g triều... mới, sự p h á t hiện ra n h ữ n g dòng chảy Trong hệ thông lễ hội này, đ ằ n g sa u mọi
h àn h động trị quốc của vua đều có sự yểm chính sẽ m ang lại sự h ấp d ẫn lí th ú . Việc tìm hiểu mốì q u a n hệ giữa tục thờ nưốc của
người V iệt ven sông Hồng vùng H à Nội với trọ của các th iê n th ầ n được Trời ban xuống. Không chỉ quy th u ậ n biểu tượng quyên lực các tín ngưỡng và tôn giáo khác một m ặt cao n h ấ t là con trời, d ấu ấ n Nho giáo còn
thê hiện ở sự quy phục của T h ầ n quyển vào k h a n g đ ịnh sức trư ờ ng tồn của một sinh hoạt tâm linh điển h ìn h vùng châu thô này một nhà Nho, bể tôi của vua như hiện nh ư n g hơn h ế t là n h ậ n th ấ y sự uyển
chuyên linh h o ạ t tro n g quá trìn h dung hội tượng thò th u ỷ th ầ n L inh Đ àm . Điểu này càng k h ẳn g định rõ hơn, vai trò của Nho các tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt. giáo đối với các tín ngưỡng b ản dịa. Đọc tín h uyển chuyên lin h hoạt, lưu động
Không chỉ nhuộm m àu cho th ầ n tích, n h ư nước đó của d ân tộc đã được cô Giáo su' Cao X uân H uy xem là nguyên n h â n đ ế hầu h ết các h à n h vi nghi lễ tro n g các lễ hội th ắ n g được cái sức đồng hoá k in h kh ủ n g cầu nưóc và trị th u ỷ đều mô phỏng cho một của m ột d â n tộc kh ổ n g /ÔW.CJ dàn tế của triề u đ ình th u nhỏ. Dường như
qua nhữ ng nghi thức lập đ à n cầu đảo do N.T.V.H triều dinh tổ chức, gắn với việc vua tự chấn
chỉnh những việc làm của m ình, sau đó trời
thường sẽ có m ưa hoặc tạ n h , môi liên hộ
th ẩ n bí giữa vua và Trời càng được n h â n (1) Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (chú biên 1997). Từ điên biểu tượng văn hoá thế giới. Bán dịch của Phạm Vĩnh Cu' chủ biên, Nxb. Đà Nẵng, tr.710 lên. Trong các nghi thức ấy, th ầ y cúng (2) Tạ Chí Đại Trường (1989). Thần, người (hoặc có khi là chính n h à vua) tê Tròi nhu và đất Việt. Văn nghệ, California, tr. 3-10. nghi thức bê tôi tê vua. Q uan sá t m ôt cuộc (3) Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (chủ tế P hụng nghinh, nghi thức tê mở đầu ở biên 1997), sđd, tr. 769. đền Và sẽ th ấy bóng dáng buổi chầu trong (4) Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (chủ triều đình xưa vẫn còn in r ấ t đậm . Kì tê biên 1997), sdd, tr. 763.
Đại hội ở đình N h ậ t T ân năm 2005 vừa qua (được cho là tổ chức lởn n h ấ t trong gần 100
năm trỏ lại dây) vẫn cho th ấy , mọi nghi (5) Liêu Minh Quân (2000), Tộc người Choang với tục sùng bái nước và năng lực phồn thiỉc của nước. Bản dịch của Kiều Thu Hoạch. Tạp chí Văn hoá dân gian, sô 2, tr. 85-93.
thức đêu được tiến h à n h chậm rãi, trong tây lệnh điểu k h iển của đông và hiệu
(6) E.p. Maspero (1964). Lễ thức nông nghiệp của người Cămpuchia. Paris Mouton & Co La H ay e (3 tậ p ) . B ản tiế n g P h áp . xưóng. Lời văn cũng b ằ n g chữ Nho. T ấ t cả nghiêm cẩn như một buổi th iế t triều . (7) Tạ Chí Đại Trường, sđd, tr. 19.
Trong dòng chảy ch u n g của văn hoá,
hiện tượng tiếp xúc và ản h hưởng giữa các Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông, gợi những điểm nhìn tham chiếư. Nxb Văn học. tr. 363
sinh hoạt tâm linh luôn được xem là tấ t yếu. H iện tượng này, m ặt nào có th ể so
sánh vởi dòng chảy của các con sông trê n