
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
405
VAI TRÒ CỦA NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN
CỦA DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI CẦU CÔNG NGHỆ
TỪ NƯỚC NGOÀI: NHÂN CHỨNG TỪ CÁC DOANH NGHIỆP
NGÀNH CHẾ TÁC VIỆT NAM
Nguyễn Khắc Minh1, Đặng Thu Hương2, Phùng Mai Lan3
1Trường Đại học Thăng Long, email: khacminh@gmail.com
2Trường Đại học Kinh tế quốc dân, email: huongtb2020@gmail.com
3Trường Đại học Thuỷ lợi, email: lanpm@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU
Các lý thuyết của Solow đã giúp làm rõ
vai trò của tích luỹ tư bản hiện vật và nhấn
mạnh tầm quan trọng của tiến bộ công nghệ
như lực đẩy quan trọng đằng sau tăng trưởng
kinh tế bền vững. Nhưng một vấn đề đặt ra
là “làm sao có được công nghệ tiên tiến“ khi
nền kinh tế đã nghèo không những về tiền
của mà còn cả tri thức để tạo ra công nghệ
mới. Câu hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp
của các nền kinh tế này là phải lựa chọn giữa
"làm và mua công nghệ" để sao cho các
doanh nghiệp có thể tồn tại trong cạnh tranh
và phát triển và cũng góp phần vào sự phát
triển của đất nước. Đây là sự lựa chọn có vai
trò quyết định đến sự thành bại và phát triển
của doanh nghiệp. Lựa chọn giữa làm (tự
nghiên cứu và phát triển công nghệ) và mua
công nghệ (từ các doanh nghiệp khác trong
nước hoặc nước ngoài) đều có phục vụ mục
đích tồn tại và phát triển của công ty trên cơ
sở khả năng của nó. Làm công nghệ (tự
nghiên cứu và phát triển) sẽ gặp khó về cơ
sở vật chất đặc biệt đối với các doanh nghiệp
mới ra nhập hoặc doanh nghiệp vừa và nhỏ
thì nguồn vốn để đáp ứng cho nghiên cứu
phát triển có thể rất lớn, vượt quá khả năng
của họ, thêm vào đó đội ngũ cán bộ có
chuyên môn giỏi cũng như mặt bằng công
nghệ chung của cả nước còn thấp và đầu tư
vào nghiên cứu phát triển sẽ gặp rủi ro rất
cao, do đó việc tự đầu tư để nghiên cứu toàn
bộ dường như là vấn đề không thể thực hiện
được. Mua cũng có thể gặp khó là mua công
nghệ nào, từ nước nào để sao cho doanh
nghiệp có khả năng thanh toán và phát triển,
mua cũng có thể gặp rủi ro do hợp đồng
chuyển giao, do năng lực công nghệ hoặc
trình độ công nghệ của doanh nghiệp còn
thấp. Đó chính là sự lựa chọn giữa làm và
mua công nghệ của doanh nghiệp. Có rất
nhiều doanh nghiệp tự đi lên bằng cách chọn
chiến lược mua công nghệ chủ yếu và tự
nghiên cứu những mảng công nghệ bổ sung
để đảm bảo chi phí có thể tồn tại và phát
triển. Có rất nhiều các nghiên cứu cho thấy
vai trò và đặc điểm của cầu trong các việc
mua công nghệ là để phát triển công nghệ
(Arora & cộng sự, 2001; Rigby &Zook,
2002; Gans & Stern, 2003), để xây dựng
năng lực hấp thụ cần thiết nhằm tạo ra sản
lượng kỹ thuật mới (Cassiman &Veugelers,
2006). Nghiên cứu này nhằm mục tiêu là
xem xét vai trò của nghiên cứu và phát triển
và một số nhân tố khác đến cầu công nghệ từ
nước ngoài trong ngành chế tác Việt Nam.
Tuy xem xét các điều kiện phía cầu nhưng
giả thuyết của nghiên cứu dựa vào phát hiện
của Ceccagnoli và Higgins (2008) rằng việc
mua công nghệ là những chiến lược bổ sung
cho các công ty lớn vì sự hợp tác của họ có
xu hướng làm tăng năng suất cận biên của
nghiên cứu nội bộ.

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
406
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mô hình lựa chọn hecman
Vì giả thiết của nghiên cứu là công ty phải
lựa chọn giữa cầu “công nghệ" là hàng hóa
bổ sung hay thay thế cho nghiên cứu và sáng
chế của công ty, nên mô hình lựa chọn thích
hợp sẽ là mô hình Heckman (1979). Ý tưởng
này được mô hình hóa bằng 2 phương trình
dưới đây:
Quyết định lựa chọn giữa mua công nghệ
từ nước ngoài hoặc không mua:
ij 1 2 3 4 5 6 ij
( , , , , , , )
t ijt ijt ijt jt ijt ijt t
y f x x x x x x
(1)
Quyết định tỷ lệ chi tiêu giành mua công
nghệ từ nước ngoài:
ij 1 2 3 4 5 6 ij
( , , , , , , )
t ijt ijt ijt jt ijt ijt t
z g x x x x x x
(2)
Trong đó yịjt là biến lưỡng phân lấy giá trị
bằng 1 nếu doanh nghiệp i ngành j năm t
quyết định mua công nghệ nước ngoài và
bằng không trong trường hợp ngược lại.
Zijt là chi tiêu mua công nghệ nước ngoài
trên tổng chi tiêu cho mua công nghệ của
doanh nghiệp i ngành j năm t .
ijt và ijt là các biến ngẫu nhiên mà nắm
bắt ảnh hưởng của mất biến.
Các biến đặc trưng của công ty: X1ijt
(KLijt) ; tỷ lệ vốn trên đầu người tính theo
triệu đồng của công ty i , ngành j ở thời gian t
. X2jt (Ageijt) đo tuổi của công ty i, ngành j ở
thời gian t. X3ijt (quymoijt) đo quy mô của của
công ty i, ngành j ở thời gian t theo vốn. X4ijt
(tongsangcheijt) bao gồm tổng số bằng sáng
chế cấp quốc gia và quốc tế của doanh
nghiệp- biến này được lấy làm xấp xỉ cho R
&D của doanh nghiệp..
Biến thị trường sản phẩm: X5ijt (ttruongijt)
đo sự mở rộng nhiều loại sản phẩm như sản
phẩm mới của doanh nghiệp i, ngành j năm t.
Biến môi trường đầu tư: X6ijt (hatang1ijt):
chỉ ra rằng công ty phải đối mặt với những
khó khăn về cơ sở hạ tầng cơ bản như đất đai,
điện, năng lượng… X7ijt (hatang2ijt): biến chỉ
ra rằng công ty phải đối mặt với những khó
khăn về cơ sở hạ tầng giao thông như đường
xá, sân bay... những khó khăn này làm cho
môi trường đầu tư không thuận lợi do đó cầu
công nghệ nói chung và đặc biệt cầu công
nghệ nước ngoài sẽ giảm khi khó khăn này
tăng lên.
Biến thị trường công nghệ: X8ijt(cgiaonnijt):
Chuyển giao công nghệ từ nhà cung cấp nước
ngoài cho doanh nghiệp mà mọi điều khoản
ghi rõ trong hợp đồng.
Biến ngành công nghiệp: X9jt (Herfjt) đo
bằng chỉ số tập trung - chỉ số Herfindahl.
Mức tập trung của ngành công nghiệp j.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả ước lượng cho thấy hệ số của biến
tongsangche bằng 0,0021 và có ý nghĩa
thống kê ở mức 5%. Như vậy kết quả thực
nghiệm này đã ủng hộ giả thuyết của nghiên
cứu, tổng các bằng sáng chế có tác động
dương lên cầu công nghệ từ nước ngoài.
Bảng 1. Kết quả ước lượng mô hình
Mô hình
ra quyết định
Mô hình
cầu nhập khẩu
Mn1 Hệ số Tob Hệ số
KL
-0,0002*
(0,0001) KL
0,0004**
(0,0002)
Age
0,016***
(0,0042) Age
-0,011**
(0,005)
quymo
-0,17***
(0,034) quymo
0,157***
(0,045)
ttruong
-0,16***
(0,055) ttruong
0,106*
(0,059)
hatang1
-0,03***
(0.010) hatang1
0,0061
(0,011)
hatang2
0,041***
(0.011) hatang2
-0,009
(0.011)
Herf
-0,39***
(0,1211) Herf
-0,95***
(0,349)
cgiaonn
0,234
(0,151) cgiaonn
-0,067
(0.155)
tong
sangche
0,002**
(0,0009) tong
sangche
-0,0005
(0,0009)
_cons
(0,109)
_cons
2,018***
(0,263)
Ghi chú: *, **, *** mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
Nguồn: Tính toán của tác giả

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2018. ISBN: 978-604-82-2548-3
407
Các mô hình cũng trình bày các kết quả
đáng chú ý khác liên quan đến ảnh hưởng của
việc cầu công nghệ từ nước ngoài, thỏa thuận
công nghệ chuyển giao công nghệ (cgiaonn),
quy mô doanh nghiệp (quymo)… hầu hết đều
có dấu như mong muốn và có ý nghĩa
thống kê.
Nhìn vào kết quả ước lượng từ mô hình
lựa chọn và cầu công nghệ nước ngoài. Kết
quả của hai mô hình không hoàn toàn trùng
khớp là có thể hiểu được. Mặc dù các biến
độc lập của cả hai mô hình là như nhau
nhưng hành vi ra quyết định cầu là hành vi
mong muốn còn hành vi cầu lại là thực tế nên
kết quả có sự khác biệt nhau. Ví dụ tuổi của
doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp quy mô nhỏ
hơn, doanh nghiệp càng có kinh nghiệm
trong tổ chức và quản lý thì càng có mong
muốn mua công nghệ nước ngoài do khó có
đủ kinh phí đầu tư hoạt động R&D trong khi
thực tế thì các doanh nghiệp có tuổi đời ít
hơn, quy mô lớn hơn lại thường dành nhiều
chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại
nhằm nhanh chóng tăng khả năng cạnh tranh
trên thị trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng các phát minh sáng chế của các công ty
trong ngành chế tác nói chung là các phát
minh sáng chế phục vụ cho công nghệ thực tế
đã được cầu.
3. KẾT LUẬN
Bài viết này sử dụng dữ liệu về điều tra
doanh nghiệp và điều tra công nghệ của các
doanh nghiệp ngành chế tác từ 2012-2016 để
kiểm định giả thuyết “Các phát minh sáng
chế về công nghệ của các doanh nghiệp thuộc
ngành chế tác Việt Nam là bổ sung cho cầu
công nghệ từ nước ngoài”. Đây là đóng góp
của chúng tôi cho nghiên cứu về giao dịch
công nghệ. Để thực hiện mục tiêu kiểm định
giả thiết này, chúng tôi đã xây dựng mô hình
lựa chọn kiểu Heckman, nhằm phân biệt hai
hành vi của công ty: một là hành vi quyết
định cầu công nghệ từ nước ngoài (cầu hay
không) và sau đó là hành vi quyết định phần
chi tiêu cho công nghệ, nghĩa là dành bao
nhiêu phần trăm trong tổng chi tiêu về mua
công nghệ cho cầu công nghệ từ nước ngoài
trên cơ sở tập hợp các điều kiện như đặc
trưng công ty, ngành, thị trường sản phẩm,
thị trường công nghệ…. Những phát hiện của
chúng tôi cho thấy rằng các phát minh sáng
chế của các công ty trong ngành chế tác nói
chung là các phát minh sáng chế phục vụ cho
công nghệ thực tế đã được cầu. Cuối cùng,
nghiên cứu của chúng tôi đặt ra câu hỏi về
việc liệu sự vận động của các công ty sang thị
trường công nghệ bên ngoài có phải là chỉ là
ngắn hạn hay “khởi động” có thể giúp cải
thiện năng suất nghiên cứu và phát triển
trong nội bộ công ty sẽ diễn ra khi nào thì
công ty có thể có nghiên cứu có khả năng
thay thế cầu công nghệ từ nước ngoài.
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Arora, A., M. Ceccagnoli and W. Cohen
(2007), ‘Trading knowledge: the
determinants of transactions in technology
and
R&D
in the U.S. manufacturing sector,’
in N. R. Lamoreaux and K. L.
Sokoloff
(eds), Financing Innovation in the United
States, 1870 to the Present. MIT Press:
Cambridge, MA, pp. 365–403.
[2] Cassiman, B. and R.
Veugelers
(2006), ‘In
search of complementarity in innovation
strategy: internal R&D and external
knowledge acquisition,’ Management
Science, 52(1), 68–82.
[3]
Ceccagnoli,
M. and M. J. Higgins (2008),
‘Enhancing
research productivity through
the
market
for technology,’ Unpublished
working paper,
College
of Management,
Georgia Institute of Technology.
[4] Heckman, J. (1979) “ Sample selection bias
as a specification error,” Econometrica,
47,153-161
[5] Nicholls-Nixon, C. L. and C.
Y.
Woo (2003),
‘Technol ogy
sourcing and output of established
firms in a regime of encompassing
technological change,’ Strategic Management
Journal,24(7), 651–666.