XEM TRANH CỦA NGUYỄN TƯỜNG

LINH-MAI SAN

Nguyễn Tường Linh sử dụng họa pháp “đường viền - mảng phẳng”, “đơn tuyến

bình đồ”, vốn là họa pháp truyền thống của các thế hệ nghệ nhân dân gian Việt

Nam nói riêng - phương Đông nói chung. Kết hợp ông còn sử dụng họa pháp

phương Tây tân cổ điển tả thực, theo cách tạo hình thấu thị đường chân trời. Nhìn

chung Nguyễn Tường Linh thiên về thể loại minh họa - miêu tả - trần thuật, và

theo đó mà nêu bật chủ đề tác phẩm. Họa sĩ sáng tác nhiều về đề tài sinh hoạt dân

tộc - dân gian, lịch sử - như: Chợ quê, Chợ miền núi, Làng hoa Ngọc Hà, Trẻ em

rước đèn, Quang Trung đại phá quân Thanh.

Với lối vẽ giản đơn, chân thật mà có thần, có hồn nên dễ đi vào thị hiếu thẩm mĩ

của công chúng. Đặc biệt với thế hệ tuổi thơ học trò càng dễ thấm, dễ đi vào ký ức

học đường. Xem tác phẩm, tôi như được sống lại tuổi cắp sách tới trường với bao

kỷ niệm về tranh truyện và sách “quốc văn giáo khoa thư”. Sách dạy luân lí - đạo

đức trong quan hệ sống, quan hệ làm người. Nhà văn lão thành Sơn Nam, Nam Bộ,

đã “phải lòng” “Giáo khoa thư - Nó ngọt ngào trong sáng như giai điệu mùa xuân”,

nó đã dạy ta biết yêu nhà, yêu nước, yêu đồng loại. Nhà thơ Giang Nam, miền

Trung, thì “Tuổi còn thơ ngày hai buổi tới trường/ Yêu quê hương qua từng trang

sách nhỏ”. Nội dung ngắn gọn, dễ học, dễ thuộc, lại có vẽ minh họa cho mỗi bài

học. Một bộ sách như thế, rõ ràng là vốn quý trong kho tàng văn hóa dân tộc. Là

họa sĩ - nhà giáo dục nghệ thuật, thuộc lớp người cao tuổi, giàu kinh nghiệm sư

phạm, chắc chắn Nguyễn Tường Linh đã thấu hiểu tinh thần giáo khoa thư ấy qua

tranh mà ông đã say sưa bộc lộ.

10 bức sơn dầu của Mai San, so với 30 bức khắc gỗ màu của Nguyễn Tường Linh

có thể nói như một tỷ lệ chênh lệch của phòng trưng bày. Có lẽ tác giả thấm nhuần

ý nghĩa câu nói bất hủ “thà ít mà tốt” còn hơn nhiều mà không gây được ấn tượng

với người yêu cái đẹp.

Mai San tự biết mình, hiểu mình và biết người. Phải chăng từ sự thức tỉnh ấy bà

đang vượt lên chính mình trong bảng màu nghệ thuật? Vẫn những đề tài quen

thuộc về rừng và biển, về tình yêu và sự sống đầy yêu thương gắn bó với cuộc đời.

Nhưng với người họa sĩ sơn cước, người con của dân tộc Nhắng, sinh ra và lớn lên

từ núi rừng thơ mộng Sa Pa, có sương mù nắng gió, đôi khi có cả hoa tuyết nữa,

với biết bao kỷ niệm vui buồn đã theo bà đi suốt hành trình nghệ thuật. Tranh của

bà vì vậy luôn có những nét đẹp tàng ẩn như muốn “tỏ tình” cùng quê hương yêu

dấu. Tác phẩm luôn bắt kịp nhịp điệu, hơi thở cuộc sống rộn ràng, giàu sinh khí

qua ngôn ngữ biểu hiện, tự bạch. Dấu ấn thời gian sâu lắng, trầm tĩnh đã hằn lên

mỗi họa phẩm của bà. Khỏe khoắn, dứt khoát, sống động, ngọt ngào qua những

nhát bút, nhát bay đưa miết mảng màu. Hồn nhiên, thô mộc, nhưng không kém

phần tinh tế, chủ động, luôn là những biểu hiện giao hòa giữa trí năng, tâm năng và

bản năng của người nghệ sĩ đã ở độ tuổi chín chắn, trưởng thành. Phải chăng bà đã

gặp cái nhìn nguyên sơ, trẻ trung, tươi rói của danh họa H.Matisse “Tôi vẽ trong

màu. Như vậy giản dị hơn, thay vì vẽ đường viền và đặt màu trong đó. Cái này

biến đổi cái kia. Tôi vẽ thẳng vào màu”.

Nghệ thuật là gì, nếu không phải là những xúc cảm thẩm mĩ chân thật phát ra từ

con tim và cái đầu mẫn cảm, cùng bàn tay nhu thuận?

Một cuộc đối thoại nghệ thuật giản dị, không có nhiều mới lạ, đột biến, nhưng lại

gây được ấn tượng của vẻ đẹp trẻ trung, chân thật, đáng nhớ đầy hoài niệm của

những ai đã từng trải qua tuổi thơ, tuổi học trò, tuổi thanh xuân của tình yêu, tình

người, với biết bao kỷ niệm của chính mình khi truyền vào tác phẩm - Tranh của

hai họa sĩ được trưng bày tại Nhà triển lãm 16 Ngô Quyền, Hà Nội từ 27-2 đến 11-

3-2008.