BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

**********

KHUẤT THỊ MINH THU

CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐẾN SỐ THU THUẾ Ở CÁC TỈNH

THUỘC KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP.HCM, Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

**********

KHUẤT THỊ MINH THU

CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐẾN SỐ THU THUẾỞ CÁC

TỈNH THUỘC KHU VỰC MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng

Mã ngành: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH

TP.HCM, Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Các yếu tố quyết định số thu thuế tại các

tỉnh miền Đông Nam Bộ” là công trình nghiên cứu của riêng tôi và thực hiện dưới

sự hướng dẫn của GS.TS.Sử Đình Thành.

Cơ sở lý luận tham khảo từ các tài liệu được nêu trong phần tài liệu tham

khảo, số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực, không sao chép

bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.

TP.Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2018

Người thực hiện luận văn

KHUẤT THỊ MINH THU

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ........................................ 1

1.1 Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 3

1.3 Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................. 3

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 3

1.5 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 3

1.6 Ý nghĩa thực tiễn ................................................................................................. 4

1.7 Kết cấu luận văn .................................................................................................. 4

Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƯỢC KHẢO NGHIÊN CỨU TRƯỚC . 6

2.1 Các khái niệm chính của đề tài .......................................................................... 6

2.1.1 Khái niệm thuế, số thu thuế ......................................................................... 6

2.1.2 Nguồn gốc của thuế ..................................................................................... 6

2.2 Phân loại thuế ...................................................................................................... 7

2.3 Vai trò của thuế ................................................................................................... 8

2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế của quốc gia/ địa phương ................ 11

2.5 Một số nghiên cứu về số thu thuế của quốc gia/địa phương ......................... 15

2.6 Quy trình nghiên cứu ........................................................................................ 19

2.7 Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 21

2.7.1 Các biến sử dụng trong mô hình ............................................................... 21

2.7.2 Nguồn dữ liệu ............................................................................................ 22

2.8 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 23

Chương 3: THỰC TRẠNG SỐ THU THUẾ TẠI ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN

ĐÔNG NAM BỘ ..................................................................................................... 27

3.1 Tổng quan về vị trí địa lý, tình hình kinh tế xã hội các tỉnh miền Đông Nam

Bộ .............................................................................................................................. 27

3.2 Thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế các tỉnh miền Đông

Nam Bộ ..................................................................................................................... 29

3.2.1 Thực trạng về số thu thuế .......................................................................... 29

3.2.2 Thực trạng về phát triển kinh tế- xã hội khu vực Đông Nam Bộ .............. 32

3.2.3 Thực trạng về lực lượng lao động ............................................................. 33

3.2.4 Thực trạng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................... 34

3.2.5 Thực trạng việc thành lập doanh nghiệp trong nước ................................. 37

3.2.6 Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI ..................... 38

3.2.7 Thực trạng về phát triển cơ sở hạ tầng ...................................................... 39

Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 42

4.1. Thống kê mô tả ................................................................................................. 42

4.2 Kết quả thực nghiệm ......................................................................................... 42

4.2.1 Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động gộp ...................................... 42

4.2.2 Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động cố định ................................ 44

4.2.3 Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động ngẫu nhiên .......................... 46

4.2.4 Kết quả kiểm định hiện tượng thiếu biến .................................................. 48

4.2.5 Kết quả kiểm định đa cộng tuyến hoàn hảo .............................................. 48

4.2.6 Ma trận hệ số tương quan .......................................................................... 49

4.2.7 Kết quả kiểm định tự tương quan .............................................................. 50

4.2.8 Kết quả kiểm định phương sai sai số ......................................................... 50

4.2.9 Kết quả kiểm định phân phối chuẩn của phần dư ..................................... 51

4.2.10 Kết quả kiểm định lựa chọn giữa Pooled và FEM .................................. 53

4.2.11 Kết quả kiểm định lựa chọn giữa FEM và REM ..................................... 53

4.3 Các kiểm định bổ sung ...................................................................................... 55

4.4 Kết quả hồi quy chính thức .............................................................................. 56

4.5 Thảo luận kết quả.............................................................................................. 57

Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................................... 62

5.1 Kết luận và hàm ý chính sách rút ra từ nghiên cứu ...................................... 62

5.1.1 Kết luận ...................................................................................................... 62

5.1.2 Hàm ý chính sách ...................................................................................... 62

5.2 Một số căn cứ để đề xuất giải pháp ................................................................. 61

5.3 Một số giải pháp để tăng số thu thuế tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ ........ 63

5.4 Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................... 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT Từ viết tắt Giải thích

1 DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa

2 FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

3 NSNN Ngân hàng Chính sách xã hội

4 GDP Tổng thu nhập quốc gia

5 OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

6 TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

7 VN Việt Nam

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Quy trình nghiên cứu ................................................................................ 18

Bảng 3.1: Số thu thuế của các tỉnh Đông Nam Bộ ................................................... 29

Bảng 3.2: Số vốn FDI đầu tư vào các tỉnh Đông Nam Bộ qua các năm ................... 34

Bảng 3.3: Tình hình doanh nghiệp đăng kí thành lập mới ........................................ 35

Bảng 3.4: Số tiền nộp ngân sách nhà nước ............................................................... 37

Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình ................................................... 40

Bảng 4.2: Kết quả hồi quy theo mô hình Pooled ...................................................... 41

Bảng 4.3: Kết quả ước lượng theo phương pháp tác động cố định........................... 43

Bảng 4.4: Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động ngẫu nhiên ......................... 44

Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả mô hình Pooled, FEM, REM ....................................... 45

Bảng 4.6: Kết quả kiểm định Ramsey ....................................................................... 46

Bảng 4.7: Kết quả kiểm định VIF ............................................................................. 47

Bảng 4.8: Hệ số tương quan giữa các biến ............................................................... 47

Bảng 4.9: Kết quả kiểm định Breusch-Pagan LM .................................................... 48

Bảng 4.10: Kết quả kiểm định phương sai sai số đồng nhất ..................................... 49

Bảng 4.11: Kết quả kiểm định phân phối chuẩn của phần dư .................................. 50

Bảng 4.12: Tổng kết các kiểm định theo điều kiện của Gauss & Markor ................ 50

Bảng 4.13: Kết quả kiểm định F ............................................................................... 51

Bảng 4.14: Kết quả kiểm định Hausman .................................................................. 52

Bảng 4.15: Kết quả kiểm định Wald hiệu chỉnh ....................................................... 53

Bảng 4.16: Kết quả kiểm định Wooldridge .............................................................. 54

Bảng 4.17: Kết quả thực nghiệm chính thức ............................................................. 55

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Thuế đồng biến với sản lượng................................................................... 12

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, nhất là trong bối cảnh

nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt. Lịch sử phát triển của loài người đã

chứng minh và cho thấy việc thu thuế là yếu tố tất yếu để phát triển xã hội. Ở Việt

Nam, từ triều đại nhà Trần đã hình thành một số sắc lệnh thuế như thuế ruộng, thuế

sản vật, v.v.v, thậm chí là cả thuế thân (Phan Hiển Minh, chương trình giảng dạy

Fullbright). Sau này, nhiều loại sắc lệnh thuế được chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp

với điều kiện kinh tế xã hội. Trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa, bất kỳ một quốc

gia nào muốn có một nền kinh tế phát triển vững mạnh đều đòi hỏi quốc gia đó phải

có một bộ máy Nhà nước hoạt động một cách tích cực và hiệu quả. Thực tế, để duy

trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần ngân sách để chi tiêu cho một bộ máy hoạt

động theo chức năng, từ trung ương tới địa phương; chi cho quốc phòng; an ninh

quốc gia; xây dựng cơ sở hạ tầng; chi hoạt động công ích; phúc lợi và các dịch vụ

công, v.v.v. Thuế còn là công cụ để Chính phủ giải quyết tình trạng phân hóa giàu

nghèo thông qua chính sách tái phân phối thu nhập, đầu tư phát triển vùng miền,

nhất là vùng sâu vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển. Theo Nguyễn Quốc Toản

(2013), thuế đóng góp 90% tổng thu ngân sách nhà nước, điều này cho thấy tầm

quan trọng của công tác thu thuế, bổ sung ngân sách cho quốc gia.

Bản chất của việc thu thuế là một nhiệm vụ phức tạp. Trong buổi thảo luận

chống thất thu thuế diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 2 năm 2017, ông

Trần Ngọc Tâm, Cục trưởng Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh nêu ra những khó

khăn như tình trạng chuyển giá diễn ra với cả doanh nghiệp trong nước và doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hiện tượng trốn thuế do sử dụng tiền mặt trong

giao dịch quá lớn; hiện tượng mua, bán hóa đơn của các doanh nghiệp, v.v.v dẫn

đến công tác quản lý hóa đơn, chống thất thu thuế hiện nay rất khó khăn. Tìm hiểu

về các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế là chủ đề được nhiều nghiên cứu trong và

ngoài nước đề cập trong hơn 10 năm qua. Amin và cộng sự (2014) nghiên cứu tác

2

động của các yếu tố đến số thu thuế ở Pakistan giai đoạn 1980–2010. Kết quả cho

thấy tham nhũng, bất ổn chính trị, độ mở thương mại, thu nhập thực bình quân đầu

người và lạm phát được xem là các yếu tố chính quyết định đến số thu thuế.

Piancastelli (2001) dựa trên dữ liệu của 75 quốc gia phát triển và đang phát triển trong

giai đoạn 1985–1995 chỉ ra GDP bình quân đầu người, tỉ trọng công nghiệp trên

GDP và độ mở thương mại là các yếu tố quan trọng quyết định số thu thuế. Castro

và Ramírez (2014) nghiên cứu về các yếu tố quyết định đến số thu thuế ở 34 quốc

gia thành viên OECD giai đoạn 2000–2011. Sử Đình Thành và cộng sự (2015) đánh

giá khả năng thu thuế của VN trong giai đoạn 1988–2013 và cho thấy khả năng thu

thuế của hệ thống thuế VN vẫn do những yếu tố kinh tế quyết định. Hầu hết các bài

nghiên cứu mà tác giả tìm được đều thực hiện ở cấp quốc gia hoăc nhiều quốc gia

trong cùng một khu vực. Trong phạm vi tìm hiểu của mình, tác giả chưa tìm thấy

những bài nghiên cứu được thực hiện tại Việt Nam về tổng số thu thuế ở cấp độ địa

phương là các tỉnh, thành phố hoặc ở một khu vực.

Đông Nam Bộ là khu vực kinh tế năng động, dẫn đầu cả nước về xuất khẩu,

đầu tư trực tiếp nước ngoài, GDP, cũng như nhiều yếu tố kinh tế - xã hội khác. Theo

thông tin từ Diễn đàn Kinh tế Đông Nam Bộ lần thứ hai năm 2017 thì khu vực này

chiếm khoảng 40% GDP, đóng góp gần 60% thu ngân sách quốc gia, GDP tính theo

đầu người cao gần gấp 2,5 lần mức bình quân cả nước; có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất

nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn khoảng 1,4 lần đến 1,6 lần

tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước. Với vai trò đầu tầu về kinh tế của cả

nước, việc thu thuế có ý nghĩa quan trọng. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả chọn đề

tài “Các yếu tố quyết định số thu thuế tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ” làm luận

văn thạc sĩ của mình. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích phân tích tác

động của các yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội đến số thu thuế ở 06 tỉnh thành thuộc khu

vực Đông Nam Bộ giai đoạn 2000–2016.

3

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu và phân tích tác động của các yếu tố đến tổng số thu thuế

tại các tỉnh/ thành phố trong khu vực miền Đông Nam Bộ từ giai đoạn 2000-2016,

từ đó đưa ra những kiến nghị, các gợi ý chính sách thiết thực cho Chính phủ để có

thể tăng số thuế một cách hiệu quả đồng thời có những kế hoạch, chiến lược hướng

tới hiệu quả trong dài hạn

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

1. Yếu tố nào ảnh hưởng đến số thu thuế tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ,

yếu tố nào ảnh hưởng nhiều nhất đến số thu thuế nói chung và tại các tinh/ thành

phố nói riêng.

2. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tổng số thu thuế trên từng địa bàn

các tỉnh miền Đông Nam Bộ như thế nào?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng số thu

thuế trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ.

1.4.2. Phạm vi về không gian

Nghiên cứu được thực hiện tại 6 tỉnh, thành phố thuộc khu vực miền Đông

Nam Bộ

1.4.3. Phạm vi về thời gian

Nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2015

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để trả lời câu hỏi

nghiên cứu và kiểm định giả thuyết.

Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng với sự kết hợp cả thống

kê mô tả và phân tích hồi quy. Với việc tập hợp số liệu từ 6 tỉnh thành trong khu

vực, phương pháp thống kê mô tả sẽ trình bày, so sánh những số liệu này, giúp tác

4

giả có thêm bằng chứng trong phân tích hồi quy. Tiêp đó, để trả lời câu hỏi và kiểm

định giả thuyết nghiên cứu, tác giả sẽ xây dựng mô hình hồi quy, sử dụng dữ liệu

chuỗi thời gian để tìm các yếu tố có ảnh hưởng đến số thu thuế.

1.6. Ý nghĩa thực tiễn

Thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu của Chính phủ. Nguồn thu này được đặt

ra nhằm mục đích hình thành nguồn tài chính tập trung để sử dụng trong việc chi

tiêu công với một mục tiêu tối thượng là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, giảm

phân hóa giàu nghèo, đầu tư cơ sở hạ tầng, v.v.v. Ngoài vấn đề số thu, chính sách

thuế hợp lý cũng góp phần kích thích và phát triển kinh tế, xã hội. Việc phân tích

các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế này sẽ cung cấp thêm bằng chứng cho các nhà

quản lý, lãnh đạo tìm hiểu, qua đó duy trì ổn định nguồn thu.

1.7. Kết cấu luận văn

Cấu trúc của luận văn ngoài phần tài liệu tham khảo và các phụ lục, phần

nội dung chính dự kiến bao gồm 5 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu: Chương này nêu lý do chọn đề

tài, tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và

phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.

Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu. Chương này trình bày nội

dung liên quan đến thuế, công tác thu thuế . Dựa trên những nghiên cứu trước đây

để đưa ra mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế.

Chương 3: Thực trạng số thu thuế tại địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Chương này trình bày tổng quan về địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, kết quả

thu thuế tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong những năm qua. Dựa vào lý thuyết

chương 2, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu các yếu tố quyết định đến số thu

thuế tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Chương 4: Kiểm định và kết quả nghiên cứu. Chương này phân tích các kết

quả nghiên cứu thông qua kiểm định mô hình hồi quy theo mô hình nghiên cứu ở

5

chương 3.

Chương 5: Kết luận và khuyến nghị. Trên cơ sở phân tích ở chương 3 và kết

quả kiểm định mô hình chương 4, tác giả đưa ra kết luận và từ đó đưa ra một số giải

pháp, kiến nghị, các gợi ý chính sách thiết thực cho Chính phủ để có thể tăng số

thuế thu một cách hiệu quả và đồng thời có những kế hoạch, chiến lược trong dài

hạn.

6

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ LƯỢC KHẢO NGHIÊN CỨU

TRƯỚC

2.1. Các khái niệm chính của đề tài

2.1.1. Khái niệm thuế, số thu thuế

Khái niệm về thuế: Thuế được hình thành từ khi nhà nước ra đời. Theo dòng

lịch sử, thuế có sự thay đổi nhất định. Đến thế kỷ 19, nhà hoạt động học thuật, nhân

đạo và nhân quyền của Pháp, Gaston Jèze (1869-1953) đã đưa ra khái niệm về thuế.

Theo Ông “Thuế là một khoản đóng góp bằng tiền, có tính chất xác định, không

hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước thông qua con đường

quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của nhà nước trong việc thực hiện các chức

năng kinh tế-xã hội của nhà nước”.

Khái niệm thuế của Gaston Jèze thể hiện ở ba đặc điểm: (1) Thuế được thu

bằng tiền, không phải bằng hiện vật như trước đây, mà nguyên nhân của sự chuyển

biến này là do có sự phát triển của quan hệ hàng hóa-tiền tệ; (2)Thuế là khoản thu

bắt buộc do hệ thống pháp luật của nhà nước quy định. Hệ thống pháp luật này sẽ

xác định số tiền mà cá nhân hoặc tổ chức phải kê khai và nộp vào ngân sách, không

phải do người nộp thuế ấn định hay thỏa thuận. Khi người nộp thuế không tuân thủ

về số tiền nộp thuế hoặc thời gian nộp thuế sẽ được xem là vi phạm pháp luật và cơ

quan thuế sẽ tiến hành xử lý theo pháp luật; (3) Thuế là khoản thu nộp vào ngân

sách của Chính phủ nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước vì vậy đây là

khoản thu không hoàn trả trực tiếp, không có đối khoản cụ thể.

2.1.2. Nguồn gốc của thuế

Để duy trì hoạt động và thực thi những mục tiêu của Chính phủ thì cần phải

có nguồn ngân sách. Lịch sử đã chứng minh từ khi có nhà nước, có Chính phủ thì

sự ra đời của thuế là một tất yếu, khách quan. Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà

nước cần có những nguồn tài chính, trước hết là chi cho việc hoạt động của bộ máy

nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ

7

tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi xã hội, cộng đồng, trợ cấp xã hội; chi đầu tư cơ

sở hạ tầng, đầu tư phát triển kinh tế vùng miền, v.v.v.

Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu trên, Chính phủ có thể sử dụng các

biện pháp đó là: khai thác tài nguyên; quyên góp của dân; dùng quyền lực nhà nước

bắt buộc dân phải đóng góp. Tài nguyên thì hạn chế và không phải quốc gia nào

cũng có, quyên góp tiền và tài sản của dân mang hình thức tự nguyện, không ổn

định và thường chỉ được sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt để bổ sung cho

những khoản chi đột xuất như thiên tai, dịch bệnh,v.v.v. Vì vậy, để đảm bảo nguồn

chi thường xuyên, nhà nước dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu

nhập của mình cho ngân sách nhà nước. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động

tập trung nguồn tài chính cho đất nước.

Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo mức độ thị trường hoá của các quan hệ

kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia, mà các chính phủ vận dụng các lý thuyết vào hệ

thống chính sách thuế của mình một cách thích hợp. Việc suy tôn học thuyết này

hay học thuyết khác chỉ mang tính lịch sử, không mang tính đối kháng và điều quan

trọng nhất cho các nhà hoạch định chính sách thuế các quốc gia là tìm ra những ứng

dụng hiệu quả nhất, để thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của thuế trong cơ

chế thị trường mà không quá chú trọng vào trường phái lý thuyết nhất định

2.2. Phân loại thuế

Khi Nhà nước mới ra đời, sản xuất hàng hoá chưa phát triển, thuế thường

được thu bằng hiện vật. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ

sản xuất xã hội, kinh tế hàng hoá - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng

tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được

hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống, các loại thuế khác nhau lần lượt

ra đời làm cho thuế ngày càng đa dạng, phong phú linh hoạt hơn. Cho tới nay, các

quốc gia trên thế giới

8

đều có những qui định cụ thể về luật thuế. Ở Việt Nam, theo Dương Tấn Diệp (Kinh

tế vĩ mô, 2001) thì thuế là nguồn thu chủ yếu của Chính phủ. Xét theo tính chất,

thuế được chia làm hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu.

Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các thành phần dân cư.

Nói khác đi thì người nộp thuế chính là người chịu thuế. Chẳng hạn thuế thu nhập

cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế di sản hay thừa kế, thuế cộng đồng đánh

vào dân cư của một địa phương, thuế tài sản, v.v.v.. Thuế trực thu là công cụ đắc

lực trong chính sách phân phối lại thu nhập. Tuy nhiên, xuất phát từ gánh nặng do

thuế trực thu tạo ra nên người nộp thuế thường tìm cách trốn thuế. Do đó, các quy

định về quản lý đối với thuế trực thu đòi hỏi rất chặt chẽ và công bằng.

Thuế gián thu là loại thuế gián tiếp đánh vào thu nhập. Tính gián tiếp thể hiện

khi nào mua thì mời chịu thuế, bởi vậy nó còn được gọi là thuế tiêu thụ, thuế tiêu

dùng hàng hóa, dịch vụ. Chẳng hạn thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế

nhập khẩu, v.v.v. Người nộp thuế không phải là người chịu thuế mà họ là người bán

hàng, họ có vai trò nộp thuế thay cho người chịu thuế. Mặc dù không phải là người

trực tiếp nộp thuế nhưng quá trình kê khai, nộp thuế giúp người tiêu dùng cũng tạo

những khó khăn nhất định cho doanh nghiệp và cơ quan thuế, nhất là về tính tuân

thủ.

2.3. Vai trò của thuế

Trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ yếu, lâu dài và ổn định cho ngân sách

nhà nước. Ngay từ khi Nhà nước ra đời, để duy trì hoạt động của bộ máy quản lý,

Nhà nước đặt ra các hình thức thu, trong quá khứ có cả nguồn thu bằng hàng hóa

hay sản vật, đó là nguồn gốc hình thành thuế. Ở Việt Nam, thuế đóng góp 90% tổng

thu ngân sách (Nguyễn Quốc Toản, 2013) cho thấy vai trò và tầm quan trọng của

công tác thu thuế.

Thuế đóng vai trò tái phân phối thu nhập, góp phần ổn định chính trị - xã hội.

Chúng ta đều biết mặt trái của kinh tế thị trường là gia tăng bất bình đẳng trong thu

nhập, kéo theo sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Sự phân hóa giai cấp sẽ tạo ra

9

mâu thuẫn giai cấp là mầm mống của các cuộc đấu tranh giai cấp. Vì vậy, để tạo sự

ổn định chính trị-xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, Chính phủ

cần phải tiến hành phân phối lại thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Thông qua

việc thu thuế của người có thu nhập cao và trợ cấp cho người có thu nhập thấp,

Chính phủ sẽ làm giảm sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, xoa dịu mâu

thuẫn giai cấp, góp phần ổn định an ninh chính trị-xã hội.

Thuế đóng vai trò điều tiết vĩ mô cho nền kinh tế và là công cụ để khuyến

khích đầu tư vào một số ngành nghề, một số vùng miền, nhất là vùng sâu,vùng kinh

tế kém phát triển. Thông qua việc tác động vào giá hàng hóa trên thị trường, Chính

phủ sẽ thể hiện định hướng trong sản xuất và tiêu dùng bằng các công cụ điều tiết vĩ

mô của nền kinh tế. Đối với các loại hàng hóa mà việc tiêu dùng nhiều sẽ gây nguy

hại cho nền kinh tế, Chính phủ cần phải hạn chế tiêu dùng thông qua việc tăng thuế

đối với các loại hàng hóa này. Chẳng hạn thuốc lá, rượu bia, các mặt hàng có ảnh

hưởng đến môi trường sống. Ngược lại, để khuyến khích sản xuất kinh doanh hàng

hóa Chính phủ sẽ giảm thuế đối với các loại hàng hóa này hay còn gọi là hàng hóa

khuyến dụng. Bên cạnh việc tác động tới giá hàng hóa trên thị trường để định

hướng sản xuất và tiêu dùng, Chính phủ có thể ưu đãi thuế thu nhập để khuyến

khích đầu tư ở khu vực tư nhân. Việc ưu đãi thuế cho doanh nghiệp hay một nhóm

doanh nghiệp có thể được thể hiện thông qua các qui định riêng áp dụng cho đối

tượng cần ưu đãi. Qui định ưu đãi thuế sẽ giúp làm giảm gánh nặng thuế, giảm chi

phí góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp vì thế sẽ khuyến khích đầu tư,

phát triển kinh tế - xã hội. Chẳng hạn đầu tư vào một số vùng kinh tế kém phát

triển; đầu tư vào các ngành nghề có nhiều tiềm năng hoặc mức độ tác động rộng lớn

như công nghệ phần mềm, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo, v.v.v nhận

được những ưu đãi nhất định. Ngoài ra, sự linh hoạt trong chính sách thuế như giảm

thuế, giãn nợ thuế, khoanh nợ thuế, v.v.v còn giúp đỡ cho các doanh nghiệp thật sự

gặp khó khăn, góp phần khắc phục tình trạng đình trệ của nền kinh tế.

Thuế có chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính, tạo ra những tiền

đề khách quan cho sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Chúng ta biết một

10

nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền

kinh tế quốc dân, không phải dựa vào bên ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế thị

trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ

chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước

từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi vào các công việc Nhà nước đảm nhiệm đang

ngày càng tăng. Nhờ vào công cụ thuế được ban hành, Nhà nước có thể huy động

nguồn tài chính bằng cách yêu cầu chuyển giao thu nhập theo hướng bắt buộc, giúp

cho ngân sách nhà nước được duy trì ổn định. Không chỉ sử dụng nguồn ngân sách

để giải quyết các vấn đề xã hội mà còn giúp Chính phủ điều chỉnh chu kỳ nền kinh

tế, duy trì sự ổn định. Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển theo chu kỳ là

điều không thể tránh khỏi. Công cụ thuế giúp Chính phủ khắc phục một phần hậu

quả của tính chu kỳ, nhất là việc ngăn chặn tình trạng suy thoái.

Công cụ thuế góp phần hình thành cơ cấu ngành nghề hợp lý ở nhiều quốc

gia. Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, việc bố trí cơ cấu ngành cũng còn

phụ thuộc vào việc lợi thế so sánh tương đối của kinh tế trong nước và với các quốc

gia khác có quan hệ thương mại. Không hoàn toàn dựa vào cơ chế thị trường, công

cụ thuế và trợ cấp có thể giúp các quốc gia khuyến khích đầu tư vào những ngành

nghề mà họ có lợi thế hoặc cần duy trì để đảm bảo an ninh cho quốc gia. Bằng cách

áp dụng công cụ thuế kết hợp với trợ giá, Nhà nước sẽ ban hành những chính sách

thuế đối với hàng hóa nhập khẩu sao cho có lợi cho mục tiêu của quốc gia. Tuy

nhiên, việc áp dụng chính sách thuế để điều chỉnh cơ cấu phải được xem xét rất thận

trọng. Bởi lẽ, thuế sẽ làm méo mó các quan hệ kinh tế khi áp dụng. Việc xác định

điều chỉnh không đúng, sẽ tạo cơ hội tăng trưởng của các ngành kinh tế kém hiệu

quả và kém cạnh tranh, làm cho hợp lực của toàn bộ nền kinh tế bị triệt tiêu ít nhiều.

Hơn nữa, công cụ thuế cũng có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng trả đũa hoặc vi

phạm những thỏa thuận về hợp tác, ảnh hưởng tới quan hệ thương mại của quốc gia.

Thuế đóng vai trò trong việc điều tiết và định hướng tiêu dùng, qua đó góp

phần định hướng sản xuất trong nước. Việc áp dụng các mức thuế như thuế nhập

khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ làm thay đổi cầu với những hàng

11

hoá, dịch vụ mà nhà nước cho là cần hạn chế hoặc nên ưu đãi. Thực thế, thông qua

điều chỉnh mức thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, giá cả của mặt hàng đó có

thể cao hơn, từ đó có những ảnh hưởng nhất định đối với việc lựa chọn hàng hóa

của người tiêu dùng. Tuy nhiên, thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng phải

phù hợp với những quan hệ và cam kết quốc tế khi mà quốc gia đó đã tham gia, hội

nhập.

Thuế là nguồn thu chủ yếu để sử dụng trong việc chi ngân sách ở địa phương.

Thông tư 342/2016/TT-BTC quy định ở các Điều 5 về các khoản thu thuế mà địa

phương được giữ lại hoặc Điều 8 về nguyên tắc cân đối ngân sách với trung ương.

Ngoài ra, Điều 6 của thông tư n ày quy định nguồn ngân sách của địa phương được

sử dụng để chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên của các cơ quan, đơn vị ở địa

phương được phân cấp trực tiếp quản lý trong các lĩnh vực, chi trả lãi, phí và chi phí

phát sinh khác từ các khoản tiền do chính quyền cấp tỉnh vay, chi bổ sung quỹ dự

trữ tài chính địa phương, chi chuyển nguồn sang năm sau của ngân sách địa

phương; chi bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp

dưới. Những khoản chi này đều hết sức quan trọng, có ý nghĩa đối với hoạt động và

sự phát triển của một địa phương.

2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế của quốc gia/địa phương

Như đã trình bày ở trên, thuế là khoản đóng góp bằng tiền do các công dân

đóng góp cho nhà nước và có tính chất bắt buộc. Số thu thuế luôn gắn chặt với tình

trạng kinh tế của mỗi quốc gia thông qua các chỉ số như tổng sản phẩm quốc nội

(GDP), xuất nhập khẩu, đầu tư, tiêu dùng, dân số, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,

v.v.v.

Ảnh hưởng của tổng thu nhập quốc gia: Thuế, dù là trực thu hay gián thu

cũng dựa vào mức độ phát triển kinh tế của quốc gia hay nói cách khác, thuế phụ

thuộc vào GDP được tạo ra. Theo Dương Tấn Diệp (2001), nếu xét từng loại thuế

cụ thể thì thuế suất là tỷ lệ thuế tính trên thu nhập chịu thuế; nếu xét toàn bộ nền

kinh tế, đứng trên góc độ vĩ mô, thì thuế suất là tỷ lệ tính trên tổng thu nhập hay sản

12

lượng quốc gia. Như vậy, sản lượng tăng sẽ kéo theo thuế thu được tăng, hay nói

cách khác thuế ròng đồng biến với sản lượng.

Hàm thuế: T = T0+TmY, trong đó

T

T: Thuế ròng;

T0: Thuế tự định, không phụ thuộc vào Y;

Tm: Thuế biên, phản ánh thay đổi của thuế

T=T0+Tm.Y

khi sản lượng thay đổi;

Y: Sản lượng quốc gia. Tại điểm cân bằng

thì Y chính là tổng cầu, là giá trị GDP tính

Y

theo phương pháp chi tiêu. Hình 2.1: Thuế đồng biến với sản lượng

Nguồn: Dương Tấn Diệp, 2001

GDP bình quân đầu người được tính bằng cách chia tổng sản phẩm trong

nước trong một năm cho dân số của một quốc gia trong năm tương ứng. Chỉ số này

có thể được ước lượng theo giá thực tế, tính bằng nội tệ hoặc ngoại tệ. Đây là một

chỉ số quan trọng để phản ánh kết quả sản xuất của một quốc gia trong một năm và

đồng thời chỉ số này dùng để đánh giá sự phát triển kinh tế theo thời gian và cũng là

chỉ số dùng để so sánh quốc tế về phát triển kinh tế.

GDP và số thu thuế có mối quan hệ hai chiều, chặt chẽ và khăng khít. Khi

GDP tăng thì thuế thu được sẽ tăng theo một tỷ lệ tương ứng. Chính sách thuế hợp

lý sẽ kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, đầu tư, xuất nhập khẩu,

v.v.v, từ đó góp phần cải thiện GDP theo chiều hướng gia tăng. Về phía tiêu dùng,

các nhà kinh tế cho rằng khi thuế thấp sẽ dẫn đến chi tiêu nhiều hơn, từ đó thúc đẩy

tăng trưởng do sản xuất gia tăng. Việc cắt giảm thuế sẽ tạo động lực cho doanh

nghiệp sản xuất nhiều hơn, trong khi đó người tiêu dùng sẽ gia tăng chi tiêu, từ đó

dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng lại kéo theo cơ hội thu thuế tăng.

Độ mở thương mại: Yếu tố này thể hiện qua tổng giá trị xuất nhập khẩu so với

GDP. Đây cũng là một nhân tố quan trọng, bởi thuế đánh vào thương mại quốc tế là

13

một trong những nguồn thu chiếm tỷ trọng cao ở các quốc gia đang phát triển và các

quốc gia có thu nhập trung bình. Các nước có mức thu nhập trung bình trở xuống

đồng nghĩa với tình trạng có tỷ trọng sản xuất nông nghiệp còn cao. Đặc trưng của

sản xuất nông nghiệp là có mức lợi nhuận thấp, rủi ro nhiều, dẫn đến số thu thuế sẽ

hạn chế. Chính vì lý do đó mà nguồn thu chủ yếu của các quốc gia này đến từ thuế

hàng hóa xuất nhập khẩu, nhất là những mặt hàng xa xỉ.

Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu và rộng, các nước đều ký

kết các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương, dẫn đến nguồn thu thuế

từ hàng hòa xuất nhập khẩu có có khuynh hướng giảm dần. Điều này gây ra tác

động tiêu cực đến việc thu thuế (Baunsgaard & Keen, 2010). Tuy nhiên, nghiên cứu

của Keen và Simone (2004) cho rằng độ mở thương mại có ý nghĩa tích cực đối với

số thu thuế bởi mở cửa nền kinh tế sẽ giúp kinh tế tăng trưởng tốt và đó là lý do dẫn

đến số thu thuế được cải thiện.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Chính sách thuế là một trong những

nhân tố tác động đến quyết định của nhà đầu tư nước ngoài. Khi các quốc gia tạo ra

các ưu đãi về thuế, tức giảm thuế, nhằm thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ

có tác động tiêu cực đối với số thu thuế (Cassou, 1997; Martín-Mayoral & Uribe,

2010). Tuy nhiên, phân tích ở góc nhìn khác, nhân tố này có thể có tác động tích

cực, bởi việc gia tăng dòng vốn FDI sẽ làm tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, tăng

sản lượng và gia tăng thuế (Gugler & Brunner, 2007). Như vậy đầu tư trực tiếp

nước ngoài có thể tác động tới nỗ lực thuế theo hai chiều hướng.

Tỷ lệ hộ nghèo: Thu nhập là cơ sở để thu thuế hoặc thói quen tiêu dùng. Đối

với những tỉnh hoặc thành phố có tỷ lệ hộ nghèo thấp, mức thu nhập cao thì tổng số

thu thuế sẽ cao và ngược lại. Như vậy, tỷ lệ hộ nghèo có mối quan hệ nghịch chiều

với số thu thuế.

Tỷ lệ tăng trưởng dân số: Tăng trưởng dân số là một yếu tố có ảnh hưởng

đến số thu thuế. Khi tỷ lệ tăng dân số càng cao, tỷ lệ người phụ thuộc gia tăng, quy

mô hộ tăng, v.v.v sẽ dẫn tới thu nhập người dân giảm và số thu thuế cũng sẽ giảm

14

theo. Chính vì vậy, theo Bird, Martínez - Vázquez và Torgler (2008) thì nhân tố này

có thể có tác động tiêu cực đến số thu về thuế.

Số thu thuế ở địa phương: Tùy theo từng quốc gia mà cơ chế quản lý và thu

thuế ở địa phương có khác nhau. Ở Việt Nam, cũng như trên phạm vi cả nước, số

thu thuế ở địa phương chịu sự ảnh hưởng bởi tình hình sản xuất, kinh doanh, đầu tư,

tiêu thụ hàng hóa, khai thác tài nguyên hoặc những vấn đề xã hội như dân số, lao

động, việc làm, tỷ lệ hộ nghèo, v.v.v. Tuy nhiên, tại mỗi địa phương, tình hình kinh

tế, xã hội khác nhau nên số thu có sự chênh lệch rất lớn. Để đảm bảo mọi địa

phương có đủ ngân sách hoạt động, chính phủ có chính sách điều tiết nguồn thu.

Thông tư số 342/2016/TT-BTC quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành về nguồn

thu của ngân sách địa phương. Theo đó tại Điều 5 của Thông tư quy định rõ 22

khoản thu cho ngân sách địa phương, đia phương được hưởng toàn bộ. Ngoài ra tại

Điều 8 của thông tư này cũng xác định tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu mà

địa phương được giữ lại (ngoài 22 khoản thu được quy định ở điều 5) theo quy tắc

sau:

Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu cho thấGọi A là tổng chi địa

-

phương

- Gọi B là tổng thu địa phương (khoản thu được hưởng 100%)

- Gọi C là khoản thu có thể phân chia

- Nếu (A-B)

khoản thu có thể phân chia thì tỷ lệ được giữ lại (GL) sẽ là:

- Trường hợp nếu A - B ≥ C thì địa phương sẽ được giữ lại 100% (khoản

C) và phần chênh lệch (nếu có) sẽ được ngân sách trung ương bổ sung

để cân đối ngân sách địa phương.

Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu cho thấy các địa phương gặp những

khó khăn nhất định trong việc thu thuế của doanh nghiệp hoặc cá nhân trên địa bàn.

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Bá Hoàng (2017) cho biết sự tuân thủ nộp thuế cá

15

nhân của người dân trên địa bàn Quận 11 thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc vào

các nhân tố hiểu biết về thuế và nhận thức về tính công bằng thuế có ảnh hưởng tích

cực đến tính tuân thủ thuế của người dân trên địa bàn. Nghiên cứu của Mai Thị Lan

Hương và Lê Đình Hải (2018) cho biết: để góp phần nâng cao chất lượng quản lý

thuế ở chi cục thuế huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội thì cần tăng cường công tác

cưỡng chế và thu nợ thuế bên cạnh công tác tuyên truyền và hỗ trợ tổ chức, cá nhân

nộp thuế. Ngoài ra ngành thuế cũng cần phải nâng cao năng lực cán bộ nộp thuế,

đầu tư vào cơ sở vật chất và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.

Như vậy, số thu thuế ở địa phương không chỉ phụ thuộc vào tình hình kinh tế,

xã hội, hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu mà số thu thuế còn phụ thuộc vào

nhận thức của người dân, tính công bằng, minh bạch cũng như những cơ chế giám

sát, cưỡng chế đối với những tổ chức và cá nhân không tự giác nộp thuế, ảnh hướng

đến số thu thuế của địa phương.

2.5. Một số nghiên cứu về số thu thuế của quốc gia/địa phương.

Thuế là lĩnh vực đã xuất hiện từ rất sớm, chính vì thế đã có nhiều công trình

nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam về đề tài này. Tuy nhiên, thuế là vấn

đề kinh tế, xã hội phức tạp, mang tính địa phương và chịu sự tác động của nhiều yếu

tố khách quan, vì vậy đây vẫn là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên

cứu ở các mức độ khác nhau, những nơi chốn khác nhau và góc nhìn khác nhau. Có

tác giả tiến hành nghiên cứu về số thu thuế ở các nước có thu nhập thấp, các nước

nhận viện trợ hoặc tác động từ góc nhìn từ sự ổn định về chính trị, v.v.v. Sự đa dạng

của các công trình nghiên cứu không chỉ thể hiện ở sự phong phú về đề tài mà còn

thể hiện ở quy mô. Có công trình nghiên cứu trên một tỉnh/ thành, một khu vực gồm

nhiều tỉnh thành, một quốc gia nhưng cũng có công trình nghiên cứu trong một

vùng gồm nhiều quốc gia. Trong phần này, tác giả lược khảo một số công trình

nghiên cứu đi trước có liên quan đến đề tài.

Bird, Martínez - Vázquez và Torgler (2008) nghiên cứu trên một phạm vi

rộng, gồm 110 quốc gia thuộc nhóm đang phát triển trong giai đoạn 1990–1999. Kết

quả nghiên cứu cho thấy dù là quốc gia đang phát triển nhưng GDP bình quân đầu

16

người có quan hệ đồng biến đến số thu thuế. Khía cạnh hội nhập quốc tế có ảnh

hưởng tới tổng số thu thuế nhưng trong thời kỳ này và ở mức thu nhập còn thấp thì

tác động này không đáng kể. Dân số gia tăng cùng với tỷ trọng đóng góp của ngành

nông nghiệp so với GDP tăng là nguyên nhân dẫn tới mức thu thuế thấp hơn.

Nghiên cứu cũng tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của chính trị, theo đó, chỉ số về các

quyền tự do công dân, sự ổn định về chính trị, sự minh bạch của pháp luật hay tổng

hợp lại đó là một quốc gia có thể chế tốt sẽ có tác động tích cực đến số thu thuế.

Cũng thực hiện nghiên cứu ở các nước đang phát triển, Gupta (2007) đã tiến

hành nghiên cứu dựa trên số liệu từ 105 quốc gia đang phát triển trong khoảng thời

gian 25 năm. Kết quả nghiên cứu cho biết các biến có ảnh hưởng và làm gia tăng số

thu thuế bao gồm: GDP bình quân đầu người, kim ngạch thương mại, viện trợ nước

ngoài và các chỉ số về ổn định chính trị, kinh tế. Chiều ngược lại, các yếu tố tỷ trọng

đóng góp ngành nông nghiệp trong GDP, tình trạng tham nhũng có ảnh hưởng tiêu

cực đáng kể tới số thu thuế. Các loại thuế dù là thuế trực thu hay gián thu đều chịu

ảnh hưởng của tham nhũng, bất ổn chính trị và lạm phát.

Dựa trên dữ liệu của 75 quốc gia, bao gồm cả các quốc gia phát triển và đang

phát triển, trong giai đoạn 1985–1995, nghiên cứu của Piancastelli (2001) đã chỉ ra

GDP bình quân đầu người, tỉ trọng công nghiệp trên GDP và độ mở thương mại là

các yếu tố quan trọng quyết định số thu thuế. Cũng như kết quả của nhiều nghiên

cứu khác, Piancastelli cho biết khi tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp trên

GDP còn cao thì số thu thuế sẽ hạn chế, hay nói cách khác, tỷ trọng đóng góp của

ngành nông nghiệp có quan hệ nghịch chiều so với số thu thuế của quốc gia. Ngoài

ra, nghiên cứu còn tìm thấy tình trạng tham nhũng có tác động tiêu cực một cách

nghiêm trọng đến số thu thuế ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Về vấn đề

viện trợ của nước ngoài, tác giả đã chia mẫu tổng thể thành ba nhóm nhỏ tương ứng

với ba mức thu nhập khác nhau, kết quả cho thấy viện trợ nước ngoài có tác động

tích cực đáng kể tới số thu thuế ở các quốc gia có thu nhập thấp nhưng không có ý

nghĩa ở các nước thu nhập trung bình và thu nhập cao.

17

Castro và Camarillo (2014) tiến hành nghiên cứu trên 34 quốc gia thuộc Tổ

chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for Economic Co-

operation and Development) trong giai đoạn từ năm 2001-2011. Tác giả sử dụng

đồng thời kỹ thuật phân tích bảng tĩnh và bảng động để phân tích tác động của các

yếu tố kinh tế, cấu trúc, thể chế và xã hội đến số thu thuế. Điểm đặc biệt trong

nghiên cứu này mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập đó là việc phân tích tác

động về độ trễ của biến phụ thuộc. Kết quả cho thấy độ trễ của số thu thuế có tác

động tích cực, tức việc số thu thuế của năm trước cũng góp phần ảnh hưởng đến số

thu của năm hiện tại. Ngoài ra, kết quả cho thấy GDP bình quân đầu người cao,

mức độ phát triển ngành công nghiệp mạnh và vốn đầu tư nước ngoài là những yếu

tố có ảnh hưởng tích cực tới số thu thuế. Trong khi biến số đại diện cho khu vực

nông nghiệp và tỉ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến hình thành tổng

vốn cố định lại có tác động hạn chế. Có kết quả tương tự về ảnh hưởng từ thu nhập

bình quân đầu người, trong khoảng thời gian từ 1994 đến 2000, ở phạm vi gồm 16

nước Ả Rập, nghiên cứu của Eltony (2002) cho biết các yếu tố GDP bình quân đầu

người cùng với tỷ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu có ảnh hưởng cùng chiều đến tổng

số thu thuế.

Từ nhiều quốc gia và nhiều châu lục khác nhau, gồm 11 nước thuộc châu Á,

19 nước Mỹ Latinh và 9 nước thành viên EU, Profeta và Scabrosetti (2010) phân

tích các yếu tố quyết định đến số thu thuế của 39 quốc gia trong giai đoạn 1990–

2004. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ số về quyền dân chủ, quyền tự do công

dân và quyền chính trị càng cao thì càng làm gia tăng hiệu quả của hệ thống thuế.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về tác động của một số yếu

tố kinh tế đến số thu thuế tính theo châu lục. Cụ thể, nghiên cứu tìm thấy GDP bình

quân đầu người và tỷ lệ nợ trên GDP không có ý nghĩa trong việc quyết định số thu

thuế ở các nước thuộc khu vực châu Á nhưng lại có tác động mạnh ở các nước

thuộc khu vực Mỹ Latinh. Tỷ trọng nông nghiệp trên GDP tăng làm hạn chế số thu

thuế ở Mỹ Latinh nhưng trong giai đoạn này lại không có ý nghĩa ở châu Á. Độ mở

của nền kinh tế có tác động tích cực đến số thu thuế ở châu Á và châu Âu, nhưng độ

18

mở của nền kinh tế làm hạn chế số thu thuế ở Mỹ Latinh. Mặc dù kết quả này còn

phụ thuộc rất nhiều vào phạm vi thu thập dữ liệu nhưng sự khác biệt đó đặt ra vấn đề

liệu rằng yếu tố văn hóa, địa lý có ảnh hưởng đến số thu thuế hay không?.

Amin và cộng sự (2014) nghiên cứu tác động của các yếu tố đến số thu thuế

ở Pakistan giai đoạn 1980–2010. Trong khoảng thời gian 30 năm, các yếu tố gồm

bất ổn chính trị, khối lượng thương mại, thu nhập thực bình quân đầu người và lạm

phát là những yếu tố chính ảnh hưởng đến số thu thuế.

Nghiên cứu của Teera (2003) được thực hiện ở Uganda. Kết quả nghiên cứu

cho thấy số thu thuế bị ảnh hưởng bởi tình trạng trốn thuế, độ mở thương mại, tỷ

trọng nông nghiệp. Tác giả cho rằng khi tỷ trọng nông nghiệp trong GDP tăng thì

tổng thu thuế sẽ giảm. Đối với các nước đang phát triển thì thương mại nước ngoài

đóng góp lớn vào số thu thuế của chính phủ.

Dioda (2012) sử dụng dữ liệu bảng cho 32 quốc gia thuộc khu vực Mỹ Latinh

và Caribbean trong khoảng thời gian từ 1990–2009 để đánh giá ý nghĩa thống kê

của một số biến góp phần quyết định tới tỉ trọng số thu thuế trên tổng GDP. Các kết

quả chỉ ra các biến có ảnh hưởng đáng kể đến số thuế thu được bao gồm: Quyền tự

do công dân, số lao động nữ, cơ cấu dân số theo độ tuổi, sự ổn định về chính trị,

trình độ giáo dục, mật độ dân số và quy mô của kinh tế ngầm.

Nghiên cứu của Ayenew (2016) được thực hiện dựa trên dữ liệu trong giai

đoạn từ năm 1975 đến 2013 để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế ở

Ethiopia trong dài hạn. Kết quả nghiên cứu cho thấy GDP bình quân đầu người,

viện trợ nước ngoài và tỷ trọng công nghiệp ảnh hưởng tích cực đến số thu thuế

trong khi đó các lạm phát là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến số thu thuế.

Một số nghiên cứu trong nước như: Sử Đình Thành và cộng sự (2015) đánh

giá khả năng thu thuế của Việt Nam trong giai đoạn 1988–2013 và cho thấy khả

năng thu thuế của hệ thống thuế Việt Nam vẫn do những yếu tố kinh tế quyết định.

Mức thu nhập cao hơn, độ mở thương mại rộng hơn và tỉ trọng nông nghiệp trên

GDP thấp hơn có thể dẫn tới khả năng thu và tổng thu thuế cao hơn.

19

Nghiên cứu luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009), “Hoàn thiện

quản lý thu thuế nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của các doanh nghiệp

(nghiên cứu tình huống ở Hà Nội). Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng

tới quản lý thu thuế bao gồm đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, đặc điểm tâm

lý của doanh nghiệp, đặc điểm ngành của doanh nghiệp, yếu tố xã hội, yếu tố kinh

tế, yếu tố luật pháp và yếu tố thuộc về cơ quan thuế.

Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu cho thấy yếu tố kinh tế quan trọng nhất và có

tác động mạnh đến số thu thuế. Trong đó, tốc độ tăng trưởng GDP và độ mở thương

mại có tác động tích cực, nhưng tỉ trọng nông nghiệp trên GDP lại có tác động tiêu

cực. Tác động của những yếu tố khác là chưa rõ ràng, kết quả vẫn còn phụ thuộc

nhiều vào thời gian, khu vực và quy mô mẫu nghiên cứu.

2.6. Quy trình nghiên cứu

Trên cơ sở đề xuất của John W.Creswell (2014) và kinh nghiệm của bản thân, tác

giả xây dựng quy trình nghiên cứu cho luận văn như sau:

Bảng 2.1 : Quy trình nghiên cứu

Mục tiêu Lý thuyết Phân tích Kết quả Thảo luận

Lý thuyết

nghiên cứu nền

Thu thập dữ liệu từ các nguồn

20

Phân tích

Mục tiêu nghiên cứu

Tổng hợp lý thuyết nghiên cứu

Kiểm định độ phù hợp và kiểm chứng mô hình lý thuyết

Phân tích các yếu tố quyết định đến số thu thuế của từng địa phương

Tổng hợp và xử

Các nghiên

lý dữ liệu trước

cứu trước

khi phân tích

liên quan

Xây dựng mô

Phân tích thống

hình nghiên cứu

kê mô tả các

lý thuyết

biến nghiên cứu

Nguồn: Tác giả

Bước 1: Tác giả trích dẫn một số đánh giá, số liệu về thu thuế để thấy được ý

nghĩa của việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế trong thực tế hiện

nay. Từ đó xác định mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và phương pháp

nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới số thu thuế của từng địa phương.

Bước 2: Tác giả lược khảo các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, quản lý Nhà

nước tỏng lĩnh vực kinh tế để xác định khung phân tích. Từ đó, tác giả tiến hành thu

thập và tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm cả trong và ngoài nước để xác định

các yếu tố quyết định đến số thu thuế của địa phương. Trên cơ sở phân tích đặc

điểm địa lý, trình độ phát triển, các biến sử dụng, thời gian nghiên cứu, kết quả

nghiên cứu … đối chiếu với các dữ liệu thu thập được của 6 tỉnh Đông Nam Bộ, từ

đó tác giả xác định hướng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đề xuất mô hình

nghiên cứu cho đề tài này.

21

Bước 3: Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu từ các nguồn đáng tin cậy, so sánh

dữ liệu giữa các nguồn để tìm kiếm sai biệt (nếu có), đồng nhất dữ liệu về cùng một

phương pháp đo lường, xử lý các dữ liệu chưa phù hợp, rồi thực hiện các bước

nghiên cứu định lượng về phương pháp ước lượng, kiểm định giả thuyết, tính toán

các chỉ số, tính toán tốc độ tăng trưởng, phân tích ở dạng thống kê mô tả.

Bước 4: Tác giả dùng các phần mềm phân tích thống kê và kinh tế lượng để

phân tích dữ liệu, ước lượng và kiểm định tác động của các biến độc lập như tốc độ

tăng trưởng thu nhập bình quân, tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động, tỉ lệ hộ

nghèo, tỉ lệ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài so với GDP … tác động như thế nào

đến số thu thuế của 6 tỉnh Đông Nam Bộ trong giai đoạn 2005-2015. Từ kết quả thu

được, căn cứ vào thực tế về những điều kiện kinh tế xã hội, tác giả sẽ bình luận và

lý giải kết quả nghiên cứu cũng như rút ra ý nghĩa thực tế của kết quả nghiên cứu.

Bước 5: Tác giả khẳng định (hay bác bỏ) tác động của thu nhập bình quân

đầu người, tốc độ tăng dân số của tỉnh, tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động, tỉ lệ

hộ nghèo, tỉ lệ thu hút vốn FDI/GDP, việc có cảng biển/sân bay quốc tế … đến số

thu thuế của 6 tỉnh Đông Nam Bộ theo phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đồng thời

đưa ra các hàm ý chính sách và gợi mở một số giải pháp.

2.7. Mô hình nghiên cứu

2.7.1. Các biến sử dụng trong mô hình

Dựa vào cơ sở lý thuyết, những nghiên cứu trước và đặc biệt là thực trạng về

dữ liệu mà tác giả có thể tiếp cận, trong đề tài này tác giả sẽ sử dụng một số biến

như sau:

GDP: Tổng thu nhập quốc gia, giá trị đại diện cho trình độ phát triển kinh tế của

quốc gia, được đo bằng log của GDP bình quân đầu người.

Dân số: Tỷ lệ tăng dân số, tỉ lệ lực lượng lao động tại các tỉnh, thành phố theo

thống kê của Tổng cục thống kê thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ qua các năm.

FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, được đo bằng log của tỷ số giữa GDP trên

FDI. Trong bối cảnh các địa phương đều đẩy mạnh việc thu hút vốn FDI thông qua

những chính sách ưu đãi, nhất là ưu đãi về thuế, thì tác động của tỷ số này sẽ cho

22

biết mức độ đóng thuế của các doanh nghiệp FDI so với các doanh nghiệp trong

nước.

Tỷ lệ hộ nghèo: tỷ lệ hộ nghèo tại các tỉnh, thành phố theo thống kê của Tổng

cục thống kê thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ qua các năm.

Sân bay - cảng biển: Các nghiên cứu trước ở phạm vi quốc gia sử dụng biến

độ mở thương mại. Nghiên cứu này được thực hiện cho các tỉnh, do vậy tác giả thay

thế bằng biến sân bay cảng biển. Đây là biến dummy, hàm ý tỉnh nào có sân bay

hoặc cản biển quốc tế sẽ nhận giá trị bằng 1, không có cả sân bây và cảng biển sẽ

nhận giá trị là 0. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các báo cáo tổng kết thuế cuối năm tại

các tỉnh/ thành phố thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ và từ Tổng Cục Thống Kê.

2.7.2. Nguồn dữ liệu

Bộ dữ liệu sử dụng để kiểm định mô hình là dữ liệu dạng bảng cân bằng

(balanced panel data) được thu thập từ niên giám thống kê của từng Tỉnh, có tổng số

66 quan sát trong khoảng thời gian 11 năm, từ năm 2005 đến năm 2015, của 06 tỉnh

Đông Nam Bộ gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng

Tàu, Tây Ninh, Bình Phước. Dữ liệu trước năm 2005 một số Tỉnh bị thiếu, một số

Tỉnh có công bố nhưng không liên tục. Điều này nằm ngoài mong muốn của tác giả,

và để thoả mãn tính đồng nhất của kết quả ước lượng buộc tác giả phải loại bỏ các

quan sát trong giai đoạn này. Dữ liệu sau năm 2015 các tỉnh có công bố, nhưng có

sự chuyển đổi trong phương pháp thống kê từ GDP sang GDP thực (còn gọi là

GRDP), việc này làm cho dữ liệu bị thiếu đồng nhất về phương pháp thống kê nên

tác giả cũng phải loại ra trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này.

Để đảm bảo tính khoa học, độ tin cậy của kết quả ước lượng và kiểm định mô

hình, đồng thời là cơ sở giúp các tác giả nghiên cứu sau có điều kiện so sánh, tra

cứu, trích dẫn số liệu, dữ liệu phục vụ riêng cho nghiên cứu này tác giả đã trích dẫn

đầy đủ ở phần phụ lục.

23

2.8. Phương pháp nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các yếu tố tác động và mức độ tác

động của các yếu tố đến số thu thuế của các địa phương thuộc 6 tỉnh Đông Nam Bộ.

Do đó, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để phân tích hồi quy,

kiểm định các khuyết tật của mô hình nghiên cứu (nếu có), rồi đưa ra kết quả nghiên

cứu chính thức. Dữ liệu sau khi được thu thập và xử lý, tác giả tiến hành phân tích

bằng phần mềm phân tích định lượng Stata. Do đây là nghiên cứu cho 6 tỉnh, trong

thời gian 11 năm, nên dữ liệu thu thập là dữ liệu dạng bảng. Với dữ liệu dạng bảng,

tác giả sẽ tiến hành áp dụng các ký thuật phân tích định lượng như sau:

Phương pháp tác động gộp (Mô hình Pooled) a.

Thực chất, phương pháp tác động gộp (Mô hình Pooled) được xây dựng dựa

trên giả định tất cả các quan sát (dữ liệu) trong dữ liệu bảng là đồng nhất. Khi đó

mối quan hệ giữa biến phụ thuộc Y với các biến độc lập X1, X2 .. Xk được minh họa

như sau:

Trong đó: i là đơn vị đường chéo, t là thời gian nghiên cứu (trong nghiên cứu

này i nhận giá trị từ 1 đến 6 tương ứng với các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa-

Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh. t nhận giá trị từ 1

đến 11, tương ứng với 11 năm từ 2005 đến 2015). uit là sai số của mô hình, tương

ứng với những yếu tố khác không được đưa vào nghiên cứu nhưng có tác động đến

biến phụ thuộc Y.

Như vậy trong uit sẽ tồn tại 2 yếu tố, yếu tố không quan sát được nhưng

không đổi theo thời gian (ký hiệu là υi) và yếu tố không quan sát được nhưng thay

đổi theo thời gian (ký hiệu là εi). Với mỗi đơn vị chéo, υi là yếu tố không quan sát

được và không thay đổi theo thời gian, nó đặc trưng cho mỗi đơn vị chéo. Nếu υi

tương quan với bất kỳ biến Xt nào thì ước lượng hồi quy từ hồi quy Y theo Xt sẽ bị

ảnh hưởng chéo bởi những nhân tố không đồng nhất không quan sát được. Thậm

chí, nếu υi không tương quan với bất kỳ một biến giải thích nào thì sự có mặt của nó

24

cũng làm cho cho các ước lượng bình phương tối thiểu OLS (Ordinary Least

Square) không hiệu quả và sai số tiêu chuẩn không có hiệu lực. Như vậy, nhược

điểm của mô hình Pooled là không xem xét đến sự khác biệt của các đơn vị chéo

(các đơn vị chéo có tung độ góc giống nhau). Diễn giải điều này trong thực tế, tức là

mô hình Pooled giả định 6 tỉnh Đông Nam Bộ có những điều kiện để phát triển kinh

tế giống nhau.

b. Phương pháp tác động cố định (Mô hình FEM)

Có rất nhiều lý do để tin rằng giả định 6 tỉnh Đông Nam Bộ có những điều

kiện để phát triển kinh tế giống nhau là không phù hợp, vì mỗi tỉnh có diện tích đất,

trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý là khác nhau. Hơn nữa, trong quá trình

phát triển thì quy mô dân số, trình độ của dân cư, rồi chính sách/quan điểm về phát

triển kinh tế cũng không hoàn toàn tương đồng.

Phương pháp tác động cố định (Mô hình FEM) được xây dựng để khắc phục

những hạn chế của mô hình Pooled, khi đó phương trình minh họa tác động của các

biến độc lập X đến biến phụ thuộc Y thể hiện như sau:

Như vậy, nhờ cách tách uit = υi + εit mà các yếu tố đặc trưng riêng của các

đơn vị chéo không quan sát được nhưng không đổi theo thời gian (υi) đã được xem

xét độc lập. Điều này làm cho (β0+υi) sẽ nhận các giá trị khác nhau tương ứng với

mỗi đơn vị chéo (hay nói cách khác là mỗi đơn vị đường chéo sẽ có các tung độ góc

khác nhau).

c. Phương pháp tác động ngẫu nhiên (Mô hình REM)

Trong phương pháp tác động ngẫu nhiên (mô hình REM) thì thành phần uit

được chia thành 2 thành phần nhỏ gồm: thành phần bất định (kí hiệu là εit) và thành

phần ngẫu nhiên (kí hiệu là ωi). Giả định rằng, ωi có phân phối chuẩn và phương sai

không đổi (tức là E(ωi) = 0 và Var(ωi) = , Cov(ωi,ωs) = 0) khi đó N biến ngẫu

25

nhiên ωi được gọi là tác động ngẫu nhiên. Khi đó phương trình thể hiện tác động

ngẫu nhiên được viết thành:

Như vậy, điểm khác biệt giữa phương pháp tác động ngẫu nhiên và phương

pháp tác động cố định được thể hiện ở sự biến động giữa các đơn vị. Nếu sự biến

động giữa các đơn vị có tương quan đến biến độc lập - biến giải thích trong mô hình

tác động cố định thì trong mô hình tác động ngẫu nhiên sự biến động giữa các đơn

vị được giả sử là ngẫu nhiên và không tương quan đến các biến giải thích.

Với một mẫu dữ liệu, để lựa chọn được mô hình tối ưu giữa 3 mô hình

Pooled, FEM và REM thì cần tiến hành các kiểm định bổ sung. Để lựa chọn giữa

mô hình Pooled và mô hình FEM, tác giả dựa vào kiểm định F test, với giả thuyết

được phát biểu như sau:

Giả thuyết H0: Mô hình Pooled phù hợp hơn mô hình FEM

Giả thuyết H1: Mô hình Pooled kém phù hợp hơn mô hình FEM

Trị thống kê F được phần mềm tự tính toán, với mức ý nghĩa α thì miền bác

bỏ là: F > Fα;(k-1,n-k) hay p_value < α. Nếu p_value < α thì bác bỏ giả thuyết H0

chấp nhận H1, tức là mô hình Pooled kém phù hợp hơn so với mô hình FEM. Khi

đó, chọn mô hình FEM cho các phân tích tiếp theo.

Để lựa chọn giữa mô hình FEM và mô hình REM, tác giả dựa vào kiểm định

Hausman test, với với giả thuyết được phát biểu như sau:

Giả thuyết H0: υi và các biến độc lập không có tương quan

Giả thuyết H1: υi và các biến độc lập có tương quan

Giá trị chi-square sẽ được phần mềm tính toán với mức ý nghĩa là p_value.

Nếu p_value < α thì bác bỏ giả thuyết H0 chấp nhận H1, tức là mô hình REM kém

phù hợp hơn so với mô hình FEM. Khi đó, chọn mô hình FEM cho các phân tích

26

tiếp theo. Phần kiểm định lựa chọn mô hình và các phân tích tiếp theo được tác giả

trình bày chi tiết trong chương 4 của luận văn.

27

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG SỐ THU THUẾ TẠI ĐỊA BÀN CÁC TỈNH

MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

3.1. Tổng quan về vị trị địa lý, tình hình kinh tế xã hội các tỉnh miền Đông

Nam Bộ

Căn cứ vào Nghị định 92/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 09 năm 2006 của

Chính Phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội

và Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 về Sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP thì Nam Bộ của Việt Nam được chia

thành hai phần: Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long. Hiện nay, vùng

Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh và 1 thành phố: Bà Rịa-Vũng tàu, Bình Dương, Bình

Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và Thành phố Hồ chí Minh. Về vị trí địa lý, Đông Nam

Bộ hội tụ đầy đủ các yếu tố để phát triển toàn diện cả về kinh tế và xã hội. Đông

Nam Bộ là khu vực tập trung nhiều đô thị, là vùng giàu tài nguyên đất đai, rừng và

khoáng sản. Phía Tây và Tây-Nam giáp đồng bằng sông Cửu Long nơi có tiềm năng

lớn về nông nghhiệp, là vựa lúa lớn nhất nước ta; phía Đông và Đông Nam giáp

biển Đông, giàu tài nguyên hải sản, dầu mỏ và khí đốt và thuận lợi xây dựng các

cảng biển tạo ra đầu mối liên hệ kinh tế thương mại với các nước trong khu vực và

quốc tế; phía Tây Bắc giáp với Campuchia có cửa khẩu Tây Ninh tạo mối giao lưu

rộng rãi với Campuchia, Thái Lan, Lào, Mianma. Với vị trí này đến nay Đông Nam

Bộ đã hình thành và hoàn thiện mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy và

đường hàng không kết nối với nhiều địa phương, nhiều nước trong khu vực Đông

Nam Á.

Về đất đai, diện tích đất tự nhiên của vùng là 23.564 km2, chiếm 7,3% diện

tích của cả nước. Đất nông nghiệp là một thế mạnh của vùng. Trong tổng quỹ đất có

27,1% đang ược sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Có 12 nhóm đất với 3 nhóm

đất rất quan trọng là đất nâu đỏ trên nền bazan, đất nâu vàng trên nền bazan, đất

xám trên nền phù sa cổ. Ba nhóm đất này có diện tích lớn và chất lượng tốt thuận

lợi cho nhiều loại cây trồng phát triển như cao su, cà phê, điều, lạc, mía, đỗ tương

và cây lương thực. Đất chưa sử dụng chiếm 22,7% diện tích đất tự nhiên (so với cả

28

nước là 42,98%). Tỷ lệ đất sử dụng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, đất chuyên

dùng và đất thổ cư khá cao so với mức trung bình của đất nước. Về tiềm năng phát

triển, khu vực Đông Nam Bộ có các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai, sông

Sài Gòn, sông Thị Vải…Sông Sài Gòn và sông Thị Vải là nơi tập trung các cảng

chính của khu vực như cảng Sài Gòn, cảng Cái Mép, cảng Thị Vải. Đây vừa là điều

kiện để phát triển kinh tế của vùng, vừa là đầu mối trung chuyển cho các vùng lân

cận.

Về tài nguyên khoáng sản, trữ lượng dầu khí của vùng được dự báo là 4-5 tỷ

tấn dầu và 485 - 500 tỷ m3 khí có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế vùng và

kinh tế quốc dân. Quặng bôxit trữ lượng khoảng 420 triệu tấn phân bố ở Bình

Phước, Bình Dương. Các khoáng sản khác như đá ốp lát (chiếm 27% giá trị khoáng

sản trên đất liền) phân bố ở Tánh Linh (Bình Thuận), Phú Túc (Đồng Nai), cao lanh

trữ lượng xấp xỉ 130 triệu tấn phân bố ở Bình Dương, Bình Phước; mỏ cát thuỷ tinh

phân bố ở Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu) cung cấp nguyên liệu cho nhà máy sản

xuất thuỷ tinh của vùng và cho xuất khẩu ...

Về du lịch, Đông Nam Bộ được đánh giá cao về tiềm năng du lịch với Thành

phố Hồ Chí Minh là trung tâm tổ chức các sự kiện kinh tế chính trị lớn của cả nước.

Khu vực này cũng có bờ biển trải dài, bãi biển đẹp và nhiều khu nghỉ mát nổi tiếng

như: Bãi Sau, bãi Dứa (Vũng Tàu); khu nghỉ dưỡng Hồ Cốc, khu du lịch Bình Châu

(Bà Rịa). Bờ biển dài 350 km với vùng biển Ninh Thuận - Bà Rịa Vũng Tàu là một

trong bốn ngư trường trọng điểm của nước ta với trữ lượng cá khoảng 290-704

nghìn tấn chiếm 40% trữ lượng cá của vùng biển phía Nam. Diện tích có khả năng

nuôi trồng thuỷ sản là khoảng 11,7 nghìn ha là điều kiện để Đông Nam Bộ phát

triển các chương trình đánh bắt xa bờ, nuôi trồng thủy sản.

Về kinh tế, Vùng Đông Nam Bộ được xác định là vùng kinh tế đông lực quan

trọng hàng đầu của nước ta, là “cửa ngõ” kinh tế và cầu nối của Việt Nam ra thế

giới. Đến nay, vùng Đông Nam bộ chiếm khoảng 40% GDP của cả nước, đóng góp

gần 60% thu ngân sách quốc gia, GDP tính theo đầu người cao gần gấp 2,5 lần mức

bình quân cả nước; có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế của

29

vùng luôn cao hơn khoảng 1,4 lần đến 1,6 lần tốc độ tăng trưởng bình quân chung

cả nước. Được sự quan tâm và chú trọng đầu tư của Chính phủ, Đông Nam Bộ là

vùng có hệ thống kết cấu hạ tầng khá đồng bộ, tập trung các cơ sở đào tạo, nghiên

cứu khoa học, trung tâm y tế; nguồn nhân lực dồi dào và có kỹ năng, do đó là địa

bàn có môi trường đầu tư hấp dẫn. Trong vùng đã hình thành mạng lưới đô thị vệ

tinh, trong một không gian mở thông thoáng, liên kết với nhau thông qua các tuyến

trục và vành đai đang được xây dựng. Thành phố Hồ Chí Minh - hạt nhân phát triển

vùng - là trung tâm đầu mối dịch vụ và thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế, đặc

biệt là dịch vụ du lịch, dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, dịch vụ cảng…

Vùng Đông Nam Bộ còn là "Trung tâm hội nhập quốc tế" lớn nhất nước với Cảng

biển trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải (đã định hình), Sân bay quốc tế Tân

Sơn Nhất và Cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long Thành (sẽ được xây

dựng).

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo thống kê từ Cục Đầu tư nước

ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện có 12.000

dự án với tổng vốn đầu tư hơn 145 tỷ USD. Dự kiến, trong giai đoạn 2016 – 2020,

tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào vùng sẽ đạt gần 60 tỷ USD, chiếm

hơn một nửa tổng vốn FDI của cả nước. Qua đó, có thể thấy rõ sự vượt trội của khu

vực này về năng suất và tăng trưởng so với các vùng còn lại khi chiếm khoảng 50%

tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.

3.2. Thực trạng những yếu tố ảnh hưởng đến số thu thuế các tỉnh miền Đông

Nam Bộ

3.2.1. Thực trạng về số thu thuế

Thuế là công cụ kinh tế quan trọng để Chính Phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế

và là nguồn thu chính của Ngân sách quốc gia/địa phương. Một trọng những yêu

cầu quan trọng của chính sách thuế là phải thu đúng, thu đủ, thu kịp thời theo quy

định của pháp luật. Trong những năm qua, sự biến động của kinh tế thế giới đã tác

động không nhỏ đến kinh tế Việt Nam và các kinh tế các vùng. Việc Việt Nam hội

nhập sâu hơn với kinh tế thế giới đã tạo ra cả cơ hội phát triển, nhưng cũng không ít

30

thách thức đặc biệt là những cam kết về mở cửa thị trường, công bố lộ trình cắt

giảm thuế các mặt hàng theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Điều này

ảnh hưởng không nhỏ đến biến động số thu thuế và thu ngân sách của từng vùng,

trong đó có Vùng kinh tế Đông Nam Bộ.

Nhưng nhìn chung số thu thuế của 6 tỉnh Đông Nam Bộ vẫn nằm trong xu

hướng tăng (năm sau cao hơn năm trước). Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và

Đồng Nai có số thu ổn định. Tính riêng năm 2015, trong 6 tỉnh thì có 2 tỉnh có số

thu thuế thấp hơn, 4 tỉnh có số thu thuế cao hơn so với năm 2014. Vượt trội là tổng

số thu thuế của Thành phố Hồ chí Minh đạt 312,64 nghìn tỉ, tăng 11,4% so với năm

2014.

31

Bảng 3.1 Số thu thuế của các tỉnh Đông Nam Bộ

Đơn vị tính : Nghìn tỉ đồng

Tên địa phương 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Bình Phước 1,12 0,96 1,86 2,18 3,04 2,5 3,61 4,6 4,14 4,05 3,85

Tây Ninh 1,43 1,42 1,73 1,92 2,84 3,06 4,56 5,29 5,62 5,26 5,93

Bình Dương 5,99 5,78 9,14 12,64 8,48 23,28 26,19 28,15 32,93 35,09 36,31

Đồng Nai 8,54 8,87 11,45 14,43 7,72 23,27 27,51 31,49 34,62 38,02 40,8

Bà Rịa - Vũng Tàu 13,95 16,02 17,04 31,77 9,18 78,44 121,34 126,85 118,22 109,03 84,24

Tp. Hồ Chí Minh 59,94 60,89 92,34 121,64 45,92 180,7 135,06 235,35 252,54 280,59 312,64

Tổng số thu của cả vùng

Tốc độ tăng tổng số thu

[Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh Đông Nam Bộ]

32

3.2.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đông Nam Bộ

Nhiều năm qua, thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị

quyết 53 ngày 29-8-2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo

quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và kinh tế phía Nam tới năm 2010 và định

hướng đến năm 2020, Đông Nam Bộ đã đạt được những thành tự to lớn. Đến nay, vùng

Đông Nam bộ chiếm khoảng 40% GDP, đóng góp gần 60% thu ngân sách quốc gia,

GDP tính theo đầu người cao gần gấp 2,5 lần mức bình quân cả nước; có tỷ lệ đô thị

hóa cao nhất nước; tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng luôn cao hơn khoảng 1,4 lần

đến 1,6 lần tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước.

Những năm qua, các địa phương vùng Đông Nam bộ phát triển ngày càng năng

động, đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững ở nhiều lĩnh vực như điện tử, phần

mềm, các dịch vụ thương mại, logistics, tài chính, viễn thông, du lịch; đã phát triển một

số ngành công nghiệp mũi nhọn như: Khai thác và chế biến dầu khí, luyện cán thép,

năng lượng điện, công nghệ tin học, hóa chất cơ bản, phân bón và vật liệu… làm nền

tảng công nghiệp hóa của vùng và cả nước.

Tuy nhiên, theo ông Cao Đức Phát, Phó trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế

Trung ương, sự phát triển của vùng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Theo đó,

vùng Đông Nam bộ về cơ bản vẫn chưa chuyển đổi thành công sang mô hình tăng

trưởng với giá trị gia tăng cao, quản trị hiện đại, trong đó hàm lượng công nghệ và tri

thức đóng vai trò quyết định. Kết cầu hạ tầng của vùng chưa theo kịp yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội. Giao thông đuờng bộ, đường thủy, cảng biển chưa thực sự kết nối tốt,

chưa hiện đại, chi phí cao; chưa hình thành hệ thống đường bộ cao tốc, đường sắt; chất

lượng đô thị còn thấp, các khu công nghiệp chồng chéo về chức năng; các trung tâm đô

thị trong vùng kém kết nối cả về giao thông, chức năng kinh tế và dịch vụ xã hội. Bên

cạnh đó, vùng chậm hình thành các trung tâm khoa học, công nghệ sáng tạo trình độ

quốc tế, ít sáng chế công nghệ, đóng góp khoa học công nghệ chưa cao vào mô hình

tăng trưởng; giữa các tỉnh, thành phố còn thiếu sự phối hợp, thậm chí cạnh tranh nhau

33

về chính sách, hệ thống dịch vụ công... làm chậm hình thành một không gian kinh tế

vùng thống nhất. Mặc dù có Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm, Ban Chỉ đạo, nhưng

các tổ chức này họat động kém hiệu quả do thiếu cơ chế có hiệu lực để thực thi các

quyết sách được thống nhất.

3.2.3. Thực trạng về lực lượng lao động

Trong 6 tỉnh Đông Nam Bộ, xếp về cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của

dân số thì TP.Hồ Chí Minh đứng đầu với khoảng 9,8% dân số có trình độ từ đại học trở

lên, tiếp đó là Bà Rịa - Vũng Tàu với 4,8%, Đồng Nai 3,5%, Bình Dương 2,7%, tỷ lệ

này thấp nhất ở hai tỉnh Tây Ninh và Bình Phước với 2,1%. Tỷ lệ lao động có học vấn

cao còn quá khiêm tốn so với nhu cầu phát triển và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam này.

Đông Nam Bộ có hơn 10,9 triệu dân trên 15 tuổi, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao

động của vùng Đông Nam Bộ cao và được xếp vào tỷ lệ "dân số vàng”. Tỷ lệ dân số có

trình độ đại học trở lên của cả vùng là 6,6%, tỷ lệ dân số có trình độ sơ cấp, trung cấp,

cao đẳng cũng chỉ chiếm vài phần trăm và hầu hết dân số không có trình độ chuyên

môn kỹ thuật, nhất là ở tỉnh Tây Ninh chiếm 92,7% dân số. Vì vậy tuy có tiềm năng về

nguồn lao động dồi dào nhưng nguồn nhân lực chất lượng cao bao giờ cũng là vấn đề

cấp thiết. Lực lượng lao động trên địa bàn chưa đáp ứng được cầu lao động tại địa

phương nhất là ở tứ giác công nghiệp TP.Hồ Chí Minh - Đồng Nai- Bà Rịa Vũng Tàu-

Bình Dương, nên đã thu hút một lượng lớn lao động từ các tỉnh thành khác đến làm

việc, tập trung nhiều tại các khu công nghiệp. Tại các khu công nghiệp Bình Dương lao

động ngoại tỉnh chiếm đến 90% lực lượng lao động, trong đó lao động có chứng chỉ

nghề chỉ khoảng 56%.

Ngoài các trường, trung tâm ở các tỉnh thành trong vùng, TP.Hồ Chí Minh hiện

là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn cho cả khu vực, mỗi năm có khoảng 100.000

sinh viên đại học, cao đẳng và khoảng 50.000 học sinh trung cấp tốt nghiệp từ các cơ

sở đào tạo tại TP.Hồ Chí Minh. Nhưng trong số lao động đã qua đào tạo chỉ có khoảng

34

30% đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Thực tế cho thấy nhiều chương trình

dạy vẫn nặng về lý thuyết, thiên về việc dạy những gì trường có mà chưa chú trọng đào

tạo những gì xã hội cần. Vẫn còn nhiều bất cập, khi có trên 50% sinh viên ra trường

không có việc làm hoặc có việc nhưng không đúng ngành được học và việc các doanh

nghiệp lại phải mất thời gian đào tạo lại trở nên phổ biến. Đặc biệt trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, kết quả thống kê của Viện Chiến lược công nghệ thông tin khi phỏng

vấn sinh viên mới ra trường thì 72% không có kinh nghiệm thực hành, 42% không có

kỹ năng làm việc nhóm, 70% không thành thạo ngoại ngữ và 77,2% doanh nghiệp phải

đào tạo lại các nhân viên mới trong thời gian ít nhất là 3 tháng.

3.2.4. Thực trạng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì năm

2016 các tỉnh Đông Nam Bộ không chỉ tiếp tục dẫn đầu về thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài mà còn nâng cao được chất lượng thu hút đầu tư. Cụ thể, theo Sở Kế hoạch

- Đầu tư tỉnh Đồng Nai thu hút vốn FDI của tỉnh năm 2016 đạt khoảng 1,9 tỷ USD,

tăng gần gấp đôi so với kế hoạch đề ra. Đây là kết quả thu hút FDI cao nhất từ trước

đến nay và có ý nghĩa lớn khi Đồng Nai đã chuyển hướng sang thu hút FDI có chọn

lọc. Như vậy, tính đến nay, tỉnh này đã thu hút được trên 1.653 dự án FDI với tổng vốn

đầu tư trên 30,2 tỷ USD.

Tại Bình Dương, cuối tháng 11/2016, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình

Dương đã ký kết biên bản ghi nhớ với lãnh đạo Tập đoàn Kolon Industries (Hàn Quốc)

triển khai Dự án Nhà máy sản xuất bố lốp, túi khí ô tô đặt tại khu công nghiệp Bàu

Bàng với tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD. Như vậy, năm 2016, Bình Dương thu hút

khoảng 2 tỷ vốn FDI cấp mới và tăng vốn. Tính đến tháng 12/2016, tỉnh này đã có trên

2.818 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn trên 25,6 tỷ USD.

Năm 2016, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng thu hút được khoảng trên 400 triệu

USD vốn đầu tư FDI mới và tăng thêm, nâng tổng số dự án FDI lên con số 302, tổng

vốn đầu tư đăng ký hơn 27 tỷ USD. Mặc dù đã mất ngôi vị đứng đầu và tụt xuống xếp

35

ở vị trí thứ 5 về thu hút đầu tư FDI nhưng ước tính năm 2016, TP. Hồ Chí Minh cũng

thu hút được 800 triệu USD vốn FDI cấp mới và trên 500 triệu USD tăng vốn.

36

Bảng 3.2 Số vốn FDI đầu tư vào các tỉnh Đông Nam Bộ qua các năm

Đơn vị tính: Triệu USD

Tên địa phương

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Bình Phước

17,8

45,5

105,2

1

104,2

164,5

86,9

95,3

112,6

157,3

256,26

Tây Ninh

79,4

44,3

138,9

112,6

114,2

133,6

538,3

209,2

184,8

749,2

528,18

Bình Dương

833,4 1.342,7

2.258 1.026,1

2.722,4

730,4

1.006,2

2.798,4

1.070

1.477,1

2.952,76

Đồng Nai

1.153,2 1.006,9 2.414,8 1.928,6

2.644,6

544,1

850,9

1.133,9

1.163,5

1.832,7

1.946,97

Bà Rịa - Vũng Tàu

740,3 1.881,1 1.126,9

9,376

6.803,5

2.558

954,6

487

199,9

304,7

732,41

Tp. Hồ Chí Minh

899 2.025,7 2.278,7 9.071,6

1.617,1

2.118

3.144,6

1.340

1.983,1

3.269,1

3.323,93

[Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư]

37

3.2.5. Thực trạng việc thành lập doanh nghiệp trong nước

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong tháng 7 năm 2018, số doanh

nghiệp được thành lập mới là 11.262 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 122.097 tỷ

đồng, giảm 7,8% về số doanh nghiệp và giảm 7,6% về số vốn đăng ký so với tháng

6 năm 2018. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong tháng 7

đạt 10,84 tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước. Số lao động đăng ký của các doanh

nghiệp thành lập mới trong tháng 7 là 114.976 lao động, tăng 19,9% so với tháng

trước. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng 7 trên cả nước là 2.970

doanh nghiệp, tăng 9,0% so với tháng 6 năm 2018. Bảng phân loại các doanh

nghiệp thành lập mới trong 7 tháng năm 2018 như sau:

Bảng 3.3: Tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới

Stt Nội dung Số lượng Số vốn Số lao động

(tỉ đồng) (người)

75.793 771.064 623.518 Tổng số

1 Đồng bằng Sông Hồng 22.578 225.141 200.690

2 Trung du & miền núi phía bắc 3.186 28.688 52.520

3 Bắc trung bộ & duyên hải miền trung 10.669 98.268 103.308

4 Tây nguyên 1.843 11.986 12.566

5 Đông nam bộ 32.113 356.629 192.083

6 Đồng bằng sông Cửu long 5.404 50.351 62.351

Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư

Nếu so sánh với các năm trước, có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau:

+ Tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng ở hầu hết các khu vực trong

cả nước so với cùng kỳ năm trước, duy nhất khu vực Tây Nguyên là giảm. Đông

Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng là các khu vực có số doanh nghiệp đăng ký

thành lập mới cao, lần lượt là 32.113 doanh nghiệp (chiếm 42,4% tổng số doanh

nghiệp thành lập của cả nước) và 22.578 doanh nghiệp (chiếm 29,8%). Trong khi

38

đó, Tây Nguyên có lượng doanh nghiệp thành lập mới thấp nhất với 1.843 doanh

nghiệp (chiếm 2,4% trên tổng số doanh nghiệp).

+ Về số vốn đăng ký, khu vực Đông Nam Bộ tiếp tục dẫn đầu trong cả nước

với 356.629 tỷ đồng, chiếm 46,3% tổng số vốn đăng ký của cả nước; đứng thứ hai

là khu vực Đồng bằng Sông Hồng có 225.141 tỷ đồng, chiếm 29,2%tổng số vốn

đăng ký của cả nước; khu vực Tây Nguyên có tổng số vốn đăng ký ít nhất là 11.986

tỷ đồng, chỉ chiếm 1,6% tổng số vốn đăng ký của cả nước.

Xét về tỷ trọng vốn đăng ký bình quân, trong 7 tháng đầu năm thì khu vực

Đông Nam Bộ đạt cao nhất là 11,1 tỷ đồng/doanh nghiệp; tiếp đến là Đồng bằng

Sông Hồng đạt 10,0 tỷ đồng/doanh nghiệp; Đồng bằng Sông Cửu Long đạt 9,3 tỷ

đồng/doanh nghiệp;... Khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ thấp nhất đạt 6,5 tỷ đồng/doanh

nghiệp.

+ Về số lao động đăng ký, qua thống kê cho thấy tập trung nhiều nhất ở khu

vực Đồng bằng Sông Hồng với 200.690 lao động, chiếm 32,2% tổng số lao động

đăng ký; Tây Nguyên có 12.566 lao động đăng ký là khu vực có số lao động đăng

ký ít nhất so với các khu vực còn lại, chỉ chiếm 2,0% tổng số lao động đăng ký.

Về tỷ trọng lao động đăng ký bình quân trên 1 doanh nghiệp, trong 7 tháng

đầu năm nay, khu vực Trung du và miền núi phía Bắc đạt cao nhất là 16,5 lao

động/doanh nghiệp; tiếp đến là khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long đạt 11,5 lao

động/doanh nghiệp. Là 2 trung tâm kinh tế lớn của cả nước nhưng xét về quy mô

lao động, khu vực Đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ chỉ đạt lần lượt là 8,9

lao động/doanh nghiệp và 6,0 lao động/doanh nghiệp, xếp thứ 4 và thứ 6 trong tất cả

các khu vực.

3.2.6. Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI

Theo Báo cáo “Tình hình doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài sau hơn

30 năm mở cửa” của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch & Đầu tư thì quy mô

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI luôn duy trì tăng trưởng ở

mức cao. Tổng doanh thu năm 2016 của các doanh nghiệp FDI có báo cáo đạt

3.471.519 tỷ đồng, tăng 21,7% so với năm 2015 (riêng tỉnh Bình Dương là 35,4%;

39

Đồng Nai là 22,9%; Hà Nội là 15,9%; TP Hồ Chí Minh là 17,6%). Tốc độ tăng

doanh thu cao hơn tốc độ tăng tài sản (18,6%) và tốc độ tăng của vốn đầu tư của chủ

sở hữu (15,5%).

Theo thống kê của Cục Tài chính doanh nghiệp, số tiền nộp vào ngân sách

nhà nước của khu vực doanh nghiệp FDI tăng nhanh qua các năm. Cụ thể là:

Bảng 3.4: Số tiền nộp ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp FDI

Đơn vị: Tỉ đồng

Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016

Thu ngân 83.199 111.200 123.605 140.979 161.608

sách từ các

doanh nghiệp

FDI (không

tính lĩnh vực

dầu khí)

Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư

Nếu xét theo vùng thì doanh nghiệp FDI vùng Đông Nam Bộ (với 6 tỉnh là

Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố

Hồ Chí Minh) chiếm đến 49,1% tổng số lượng doanh nghiệp FDI đang hoạt động và

đóng góp 48,1% tổng số tiền của khu vực FDI cho NSNN của cả nước. Trong đó, số

thu về các sắc thuế nội địa của doanh nghiệp có vốn ĐTNN thành phố Hồ Chí Minh

đạt 48.917 tỷ đồng, chiếm đến 30% số thu NSNN của doanh nghiệp có vốn ĐTNN

cả nước.

3.2.7. Thực trạng về phát triển cơ sở hạ tầng (sân bay, cảng biển)

Vùng Đông Nam Bộ là trung tâm đầu mối vận tải lớn nhất cả nước, trong

thời gian qua đảm nhận khoảng 18% khối lượng vận tải hàng hóa, khoảng 23% khối

lượng vận tải hành khách của cả nước. Lượng hàng thông qua cảng biển chiếm 62%

cả nước và lượng hành khách thông qua các cảng hàng không chiếm 60% cả nước.

Cùng với sự phát triển của kết cấu hạ tầng giao thông, dịch vụ vận tải có những tiến

40

bộ đáng kể; chất lượng dịch vụ vận tải ngày càng được nâng cao; tai nạn giao thông

bước đầu đã được kiềm chế.

Các đầu mối vận tải chính của vùng Đông Nam Bộ bao gồm: TP HCM, Vũng

Tàu, Đồng Nai và Bình Dương, đóng vai trò là các trung tâm kết nối vận tải và

trung chuyển hàng hóa và hành khách của cả vùng cũng như khu vực miền Nam.

Kết nối giữa các phương thức vận tải trong vùng chủ yếu được thực hiện giữa

đường bộ và các phương thức vận tải khác; kết nối đường sắt - đường biển, đường

sắt - đường thủy nội địa; kết nối đường biển - đường thủy nội địa tại các khu vực

cảng biển Vũng Tàu, cảng biển TP HCM và cảng biển Đồng Nai chưa thực sự thuận

lợi, hiệu quả chưa cao (mặc dù đã có kết nối đường biển quốc tế với đầu mối là hai

cảng biển Vũng Tàu và cảng biển TP HCM). Trong giai đoạn 2011-2016, hệ thống

kết cấu hạ tầng giao thông vùng đã được ưu tiên đầu tư mở rộng, nâng cấp theo

hướng hiện đại, nhiều công trình, dự án trọng điểm đã và đang được triển khai thực

hiện.

Cụ thể: Tính đến tháng 06/2017 đã có 91km đường cao tốc được đưa vào

khai thác gồm: TP HCM – Trung Lương (40km), TP HCM – Long Thành – Dầu

Giây (51km); đang triển khai thi công cao tốc Bến Lức – Long Thành, dự kiến hoàn

thành 2019; Đang kêu gọi đầu tư tuyến cao tốc Biên Hòa – Phú Mỹ,... Bên cạnh đó,

đã hoàn thành đầu tư vào cấp các tuyến quốc lộ (1, 51, 55, 56, 22, 60, đường Hồ

Chí Minh qua Bình Phước, …) để dần tạo nên bộ khung hạ tầng đường bộ với chất

lượng cao, đáp ứng nhu cầu vận tải vùng. Đang chuẩn bị đầu tư các dự án vành đai

như Tân Vạn – Nhơn Trạch, Bến Lức – Quốc lộ 22, Quốc lộ 22 – Bình Chuẩn thuộc

vành đai 3 TP HCM,…

Hiện, thành phố Hồ Chí Minh cũng đang triển khai các dự án nâng cấp cải

tạo cầu yếu và thông tin tín hiệu trên hành lang Bắc - Nam. Hoàn thành việc sửa

chữa cầu Ghềnh; Các tuyến đường sắt xây dựng mới đang trong giai đoạn nghiên

cứu, chuẩn bị đầu tư như: đường sắt Bắc – Nam khu vực TP HCM đoạn Trảng Bom

– Hòa Hưng; Biên Hòa – Vũng Tàu; TP HCM – Mỹ Tho – Cần Thơ; Dĩ An – Lộc

Ninh. Các dự án đường sắt vùng Đông Nam Bộ nhìn chung triển khai chậm. Đường

41

sắt đô thị TP HCM đang thi công tuyến số 1, đang điều chỉnh dự án tuyến số 2,

chuẩn bị đầu tư tuyến số 5.

Các cảng biển cũng đang được triển khai theo quy hoạch. Đã hoàn thành khu

bến Cái Mép (cảng Vũng Tàu). Cảng TP HCM: Khu bến Hiệp Phước (giai đoạn 1)

và khu bến Cát Lái đã đưa vào khai thác để tiếp nhận tàu 30.000 DWT; khu bến trên

sông Đồng Nai đang hoạt động. Bên cạnh đó, luồng vào cảng TP HCM theo sông

Soài Rạp đã hoàn thành cải tạo nâng cấp giai đoạn 2 (độ sâu - 9,5m) cho tàu 30.000

DWT, luồng sông Thị Vải - Cái Mép đã hoàn thành công tác nạo vét cho tàu 80.000

DWT đến Phú Mỹ, tàu trên 100.000 DWT đến khu Cái Mép.

Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đã sửa chữa và đưa đường hạ cất

cánh 25R/07L vào khai thác trở lại, đã nâng cấp nhà ga hành khách nội địa và tiếp

tục nâng cấp nhà ga hành khách quốc tế nâng tổng công suất lên 28 triệu hành

khách/năm; Cảng hàng không quốc tế Long Thành đã được Quốc hội thông qua chủ

trương đầu tư, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đang chỉ đạo lập dự án đầu tư giai

đoạn 1, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội thông qua

vào năm 2018; triển khai đầu tư giai đoạn 1 để phấn đấu đưa vào khai thác năm

2025. Sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc tách công tác bồi thường, giải

phóng mặt bằng và tái định cư dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành thành

một dự án độc lập, Bộ GTVT đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng

Nai xây dựng kế hoạch thực hiện lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án.

Như vậy, có thể nói, các tuyến trục giao thông chính yếu kết nối các địa

phương trong vùng Đông Nam Bộ đã và đang được đầu tư, kết hợp tăng cường

công tác quản lý, bảo trì nên năng lực thông qua đã được cải thiện rõ rệt, phần nào

đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế. Tuy

nhiên, so với nhu cầu, hệ thống cơ sở hạ tầng vùng còn chưa tạo ra đột phá cho phát

triển vùng Đông Nam Bộ, hạn chế quá trình phát triển vùng với nhịp độ tăng trưởng

cao hơn.

42

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Thống kê mô tả

Từ mô hình nghiên cứu, với dữ liệu thu thập trong giai đoạn từ 2005-2015

cho 6 tỉnh miền Đông Nam Bộ, các biến của mô hình được biểu hiện qua thống kê

mô tả ở bảng 4.1

Bảng 4.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Ký hiệu biến Giá trị trung bình Sai số Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất

Ln_thu 2,752 1,561 -0,041 5,745

Ln_gdp 4,471 1,251 1,813 6,864

gdanso 2,504 1,884 0,63 8,580

Ln_llld 6,886 0,726 6,089 8,355

gdpfdi 0,211 0,304 0,018 2,040

tilengheo 3,833 3,403 0,01 11,65

sanbay 0,5 0,504 0 1

Nguồn: Tác giả

4.2. Kết quả thực nghiệm

Với dữ liệu bảng cân bằng tác giả tiến hành hồi quy lần lượt mô hình nghiên

cứu theo 3 dạng tác động: Tác động gộp (Mô hình Pooled), tác động cố định (Mô

hình FEM) và tác động ngẫu nhiên (Mô hình REM) với mục đích là lựa chọn được

mô hình nghiên cứu phù hợp. Kết quả hồi quy lần lượt các mô hình được minh họa

ngay dưới đây:

4.2.1. Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động gộp (Mô hình Pooled)

Đầu tiên, mô hình Pooled là mô hình ước lượng hồi quy tuyến tính theo

phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS (Ordinary Least Squares) thông thường để

cung cấp thông tin chung về sự ảnh hưởng của nhóm biến độc lập đến biến phụ

thuộc. Mô hình này không xem xét các đặc điểm riêng của từng tỉnh (yếu tố đường

chéo trong dữ liệu dạng bảng) cũng như tác động của yếu tố thời gian (t) đến kết

43

quả hồi quy cuối cùng. Kết quả hồi quy theo mô hình Pooled cho 6 tỉnh miền Đông

Nam Bộ được thể hiện trong bảng 4.2.

Bảng 4.2. Kết quả hồi quy theo mô hình Pooled

Biến phụ thuộc: Số thu thuế của tỉnh (Ln_thu) Kết quả hồi quy

Biến độc lập Hệ số β Sai số Prob

Thu nhập bình quân (Ln_gdp) 0,957 0,081 0,000

Tốc độ tăng dân số (gdanso) 0,020 0,030 0,514

Tỉ lệ lực lượng lao động (Ln_llld) 0,363 0,101 0,001

Tỉ lệ GDP/FDI (gdpfdi) 0,469 0,167 0,007

Tỉ lệ hộ nghèo (tilengheo) 0,009 0,031 0,748

Sân bay (sanbay) 0,363 0,143 0,000

Hệ số chặn -4,397 0,912 0,000

Độ phù hợp mô hình

R2 0,9555

R2 hiệu chỉnh 0,9509

Thống kê F 210,92

Prob (Thống kê F) 0,000

Nguồn: Tác giả

Theo kết quả của bảng 2 thì Thống kê F = 210,92 có Prob = 0,000

(<0,05) chứng tỏ mô hình ước lượng là phù hợp. Tất cả các biến đều có tác

động tích cực đến số thu thuế của địa phương, tuy nhiên biến gdanso và

biến tilengheo không có ý nghĩa thống kê. Với mức ý nghĩa 1%, thì thu

nhập bình quân, tỉ lệ lực lượng lao động, tỉ lệ gdp/fdi và sanbay có tác động

làm tăng số thu thuế của địa phương. Điều này là phù hợp với thực tiễn bởi

khi thu nhập được cải thiện, người dân có nhiều điều kiện về tài chính để cải

thiện trình độ học vấn cũng như tham gia nhiều hơn vào hoạt động sản xuất

kinh doanh, gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương và đóng

góp nhiều hơn cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, như đã trình bày thì

phương pháp tác động gộp (Mô hình Pooled) không xét đến các đặc điểm

44

riêng của từng địa phương. Phân tích sâu hơn thì điều này không hợp lý, bởi

tiến trình phát triển của lịch sử và vị trí địa lý tự nhiên làm cho những điều

kiện phát triển kinh tế cả về số lượng cũng như chất lượng của Thành phố

Hồ Chí Minh có nhiều điểm khác biệt với Đồng Nai, Bình Dương. Nếu so

sánh Thành phố Hồ Chí Minh với Tây Ninh hoặc Bình Phước thì sự khác

biệt này còn lớn hơn. Do vậy tác giả tiếp tục ước lượng mô hình nghiên cứu

theo phương pháp tác động cố định (Mô hình FEM), khi đó mô hình nghiên

cứu chính thức được chuyển thành mô hình 1, với vi là đặc điểm riêng của

từng địa phương.

4.2.2. Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động cố định (Phương pháp

FEM)

Việc ước lượng theo phương pháp tác động cố định cho phép tung độ

góc đường hồi quy của từng tỉnh có thể không đồng nhất. Về lý thuyết, có 3

dạng cố định: (i) Cố định theo thời gian (tức là mô hình được ước lượng dựa

trên giả định là ứng với các khoảng thời gian khác nhau thì kết quả hồi quy

sẽ khác nhau); (ii) Cố định theo không gian (mô hình được ước lượng dựa

trên giả định giữa các địa phương khác nhau là khác nhau); (iii) Cố định cả

yếu tố không gian và thời gian (tức là ngoài xem xét sự khác nhau giữa các

địa phương, mà còn xét đến ngay trong cùng một địa phương thì ứng với

thời gian khác nhau cho kết quả khác nhau). Tuy nhiên, do 6 tỉnh miền Đông

Nam Bộ có vị trí gần nhau, dữ liệu được thu thập theo tỉ lệ hoặc theo bình

quân đầu người nên sự khác biệt giữa các địa phương đã giảm bớt. Nhờ tiến

bộ của khoa học công nghệ mà sự khác biệt nằm chủ yếu ở điều kiện phát

triển kinh tế-xã hội năm 2005 khác với năm 2015, chính vì lý do đó tác giả

chọn mô hình tác động cố định theo thời gian để phân tích. Kết quả ước

lượng theo phương pháp tác động cố định theo thời gian (Mô hình FEM)

được minh họa ở bảng 3.

Theo kết quả ước lượng, sau khi cố định theo thời gian thì biến tốc độ

tăng dân số (gdanso) có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, nhưng lại tác động âm

45

đến số thu thuế của địa phương. Biến tilengheo cũng mang dấu âm nhưng

không đủ bằng chứng thống kê để kết luận tỉ lệ hộ nghèo có ảnh hưởng đến

số thu thuế. Biến thu nhập bình quân (Ln_gdp), biến tỉ lệ GDP/FDI có ý

nghĩa thống kê và cho kết luận tương đồng với phương pháp ước lượng tác

động gộp (mô hình Pooled). Trong thực tế việc tăng dân số sẽ tạo sức ép

tăng chi tiêu cho các hộ gia đình, đồng thời ngân sách nhà nước/địa phương

phải chi cho một số hoạt động hành chính hoặc đầu tư công khác, điều này

không làm tăng thu cho địa phương nên việc biến gdanso mang dấu âm và có

ý nghĩa thống kê đã hàm ý điều đó. Mô hình ước lượng tác động cố định (mô

hình FEM) là phù hợp bởi thống kê F = 48,79, Prob = 0,000 (<0,05), giá trị

R2 within đạt 0,8160, tức là các biến độc lập của mô hình giải thích được

81,6% sự biến động của biến phụ thuộc.

Bảng 4.3: Kết quả ước lượng theo phương pháp tác động cố định

Biến phụ thuộc: Kết quả hồi quy Số thu thuế của tỉnh (Ln_thu)

Biến độc lập Hệ số β Sai số Prob

Thu nhập bình quân (Ln_gdp) 0,637,,… 0,164 0,000

Tốc độ tăng dân số (gdanso) -0,134,…, 0,073 0,071

Tỉ lệ lực lượng lao động (Ln_llld) 0,559 0,626 0,375

Tỉ lệ GDP/FDI (gdpfdi) 0,401,,… 0,169 0,022

Tỉ lệ hộ nghèo (tilengheo) -0,065,,… 0,047 0,175

Sân bay (sanbay) 0…,, omitted

Hệ số chặn -3,451 4,210 0,416

Độ phù hợp mô hình

within

R2 0,8160

R2 overall 0,9075

Thống kê F 48,79

Prob (Thống kê F) 0,000

46

Nguồn: Tác giả

4.2.3. Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động ngẫu nhiên (Mô hình REM)

Điểm khác biệt giữa mô hình tác động ngẫu nhiên và mô hình tác động cố

định được thể hiện ở sự biến động giữa các đơn vị. Nếu sự biến động giữa các đơn

vị có tương quan đến biến độc lập – biến giải thích trong mô hình tác động cố định

thì trong mô hình tác động ngẫu nhiên sự biến động giữa các đơn vị được giả sử là

ngẫu nhiên và không tương quan đến các biến giải thích. Chính vì vậy, nếu sự khác

biệt giữa các đơn vị có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc thì REM sẽ thích hợp hơn so

với FEM. Trong đó, phần dư của mỗi thực thể (không tương quan với biến giải

thích) được xem là một biến giải thích mới. Kết quả ước lượng theo phương pháp

tác động ngẫu nhiên (mô hình REM) được thể hiện trong bảng 4.4

Bảng 4.4. Kết quả hồi quy theo phương pháp tác động ngẫu nhiên

Biến phụ thuộc: Kết quả hồi quy Số thu thuế của tỉnh (Ln_thu)

Biến độc lập Prob Hệ số β Sai số

Thu nhập bình quân (Ln_gdp) 0,000 0,957,,… 0,081

Tốc độ tăng dân số (gdanso) 0,512 0,019,…, 0,030

Tỉ lệ lực lượng lao động (Ln_llld) 0,363 0,101 0,000

Tỉ lệ GDP/FDI (gdpfdi) 0,005 0,469,,… 0,167

Tỉ lệ hộ nghèo (tilengheo) 0,747 0,010,,… 0,031

Sân bay (sanbay) 0,011 0,362…,, 0,143

Hệ số chặn 0,000 -4,397 0,912

Độ phù hợp mô hình

within

R2 0,7872

R2 overall 0,9555

Wald chi2 1265,53

Prob > chi2 0,000

Nguồn: Tác giả

47

Theo kết quả trong bảng 4.4 thì tất cả các biến đều có tác động tích cực đến khả

năng thu thuế của địa phương, tuy nhiên biến gdanso và biến tilengheo không có ý

nghĩa thống kê. Kết quả này đồng nhất với mô hình Pooled và mô hình FEM, để

tiện cho việc so sánh tác giả xin tổng hợp kết quả của cả 3 mô hình trong bảng 4.5

Bảng 4.5 Tổng hợp kết quả mô hình Pooled, FEM, REM

Biến phụ thuộc: Hệ số hồi quy β Số thu thuế của tỉnh (Ln_thu)

Biến độc lập POOLED FEM REM

Thu nhập bình quân (Ln_gdp) 0,957*** 0,637*** 0,957***

Tốc độ tăng dân số (gdanso) 0,020 -0,134* 0,019,…,

Tỉ lệ lực lượng lao động (Ln_llld) 0,363*** 0,559 0,363***

Tỉ lệ GDP/FDI (gdpfdi) 0,469*** 0,401**,,… 0,469***

Tỉ lệ hộ nghèo (tilengheo) 0,009 -0,065,,… 0,010,,…

Sân bay (sanbay) 0,363** 0…,, 0,362**,

Hệ số chặn -4,397*** -3,451 -4,397***

Độ phù hợp mô hình

within

R2 0,9555 0,8160 0,7872

R2 overall 0.9509 0,9075 0,9555

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%

Nguồn: Tác giả

Theo Gauss & Markov để các kết quả ước lượng của phương pháp bình

phương nhỏ nhất (OLS) là đáng tin cậy thì mô hình phải thỏa mãn được các điều

kiện cơ bản gồm: (i) không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo; (ii) phương

sai sai số đồng nhất; (iii) không bị thiếu các biến độc lập quan trọng; (iv) không xảy

ra hiện tượng tự tương quan; (v) phần dư có phân phối chuẩn. Tác giả tiếp tục áp

dụng các kiểm định có liên quan để kiểm định các khuyết tật (nếu có) của mô hình.

48

4.2.4. Kết quả kiểm định hiện tượng thiếu biến (Ramsey test)

Sự biến động của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập. Do vậy

nếu mô hình xảy ra hiện tượng thiếu biến, tức là mô hình đã bỏ xót các biến quan

trọng có thể ảnh hưởng đến kết quả hồi quy. Kết luận rút ra từ mô hình bị thiếu biến

sẽ không đáng tin cậy. Để kiểm tra mô hình có bị thiếu biến hay không, tác giả sử

dụng kiểm định Ramsey với giả thuyết được phát biểu như sau:

Giả thuyết H0 : Mô hình không thiếu các biến quan trọng

Giả thuyết H1 : Mô hình thiếu biến quan trọng

Nếu trị thống kê F trong kiểm định Ramsey có Prob < 0,05, tức là bác bỏ giả

thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định Ramsey ứng với dữ liệu của

mô hình được minh họa trong bảng 4.6.

Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Ramsey

Thống kê F Prob > chi2 Giả thuyết H0

Mô hình không bị thiếu biến 1,97 0,1283

Nguồn: Tác giả

Theo kết quả trong bảng 4.6 thì F = 1,97 có Prob = 0,1283 > 0,05 như vậy

không đủ bằng chứng thống kê để bác bỏ giả thuyết H0. Tức là mô hình nghiên cứu

không bị thiếu các biến giải thích quan trọng. Điều này được củng cố bởi giá trị R2

trong mô hình Pooled đạt 0,9555 tức là các biến độc lập đã giải thích được 95,55%

sự biến động của biến phụ thuộc.

4.2.5. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến hoàn hảo

Sau khi mô hình không bị thiếu biến quan trọng, tác giả tiến hành kiểm định

hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo. Hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo xảy ra khi

giữa các biến độc lập của mô hình tồn tại một quan hệ tuyến tính nào đó. Nếu mô

hình bị xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo thì các hệ số hồi quy sẽ bị chệch,

sai số của ước lượng bị phóng đại có thể dẫn đến hệ số hồi quy không vững. Tác giả

sử dụng hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance inflation factor) để kiểm định.

Kết quả kiểm định VIF được minh họa trong bảng 4.7.

49

Bảng 4.7 Kết quả kiểm định VIF

Tên biến Hệ số VIF 1/VIF

tilengheo 6,01 0,166

Ln_gdp 5,64 0,177

Ln_llld 2,94 0,340

sanbay 2,80 0,357

gdanso 1,78 0,562

gdpfdi 1,39 0,718

Mean VIF 3,43

Kết quả kiểm định cho thấy tất cả các hệ số VIF của biến độc lập trong mô

hình đều < 10, theo Trọng & Ngọc (2008) khi hệ số VIF < 10 thì xảy năng xảy ra

hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo trong mô hình là thấp, có thể sử dụng để phân

tích hồi quy ở các bước tiếp theo.

4.2.6. Ma trận hệ số tương quan

Để củng cố kết luận của kiểm định VIF, tác giả tiến hành phân tích hệ số

tương quan giữa các cặp biến độc lập với nhau. Kết quả phân tích hệ số tương quan

giữa các biến độc lập trong mô hình được thể hiện trong bảng 4.8.

Bảng 4.8 Hệ số tương quan giữa các biến

Ln_gdp gdanso Ln_llld gdpfdi tilengheo sanbay

1,0000 Ln_gdp

0,1145 1,0000 gdanso

0,6274 0,2044 1,0000 Ln_llld

0,2843 -0,2500 -0,1123 1,0000 gdpfdi

-0,7515 -0,4867 -0,6940 -0,0757 1,0000 tilengheo

0,6703 -0,1434 0,5187 0,1832 -0,2891 1,0000 sanbay

Nguồn: Tác giả

Theo kết quả trong bảng .. tất cả các hệ số tương quan đều < 0,8 như vậy khả

năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến trong mô hình là thấp (Trọng &

Ngọc, 2008).

50

4.2.7. Kết quả kiểm định tự tương quan (Breuch-Pagan LM test)

Có nhiều cách lý giải hiện tượng tự tương quan, nhưng thường do ba nhóm

nguyên nhân: Bỏ sót biến quan trọng; Lỗi sai dạng hàm; Lỗi sai sót hệ thống trong

việc đo lường. Khi có hiện tượng tự tương quan xảy ra thì các ước lượng OLS bị

chệch; ước lượng của phương sai bị thấp, kiểm định t và F không còn chính xác;

Giá trị của R2 cao hơn; phương sai và sai số của các giá trị dự báo không còn chính

xác. Để kiểm định hiện tượng tự tương quan tác giả sử dụng kiểm định Breusch-

Pagan LM test và kiểm định Pesẩn scaled LM test, với giả thuyết được phát biểu

như sau:

Giả thuyết H0 : Mô hình không có tự tương quan giữa các đơn vị chéo của

phần dư

Giả thuyết H1 : Mô hình có tự tương quan giữa các đơn vị chéo của phần dư

Nếu trị thống kê F trong kiểm định Breusch-Pagan LM có Prob < 0,05, tức là

bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định Breusch-Pagan

LM ứng với dữ liệu của mô hình được minh họa trong bảng 4.9

Bảng 4.9 Kết quả kiểm định Breusch-Pagan LM

Loại kiểm định Thống kê F Prob > chi2

Breusch-Pagan LM 42,49 0,0002

Pesaran scaled LM 5,018 0,0000

Pesaran CD 1,462 0,1438

Nguồn: Tác giả

Theo kết quả trong bảng .. thì trị thống kê F trong kiểm định Breusch-Pagan

LM bằng 42,48 có Prob = 0,0002 < 0,05, như vậy là bác bỏ giả thuyết H0, chấp

nhận giả thuyết H1. Tức là kết quả ước lượng bằng mô hình Pooled gặp phải hiện

tượng tự tương quan. Việc khắc phục khuyết tật này sẽ được trình bày trong các

phần tiếp theo.

4.2.8. Kết quả kiểm định phương sai sai số (White test)

Kiểm định này nhằm kiểm tra ước lượng của các hệ số hồi quy có bị chệch

hay không, nếu phương sai bị chệch là kiểm định giả thiết mất hiệu lực, dẫn đến dễ

51

đánh giá nhầm về chất lượng của hồi quy tuyến tính. Do vậy, kết quả kiểm định giả

thiết về hệ số hồi quy chưa thể kết luận chắc chắn được. Có nhiều phương pháp

kiểm định phương sai sai số thay đổi như kiểm định Breusch - Pagan - Golfeld (

kiểm định BPG), hay kiểm định White. Tác giả sử dụng cả hai kiểm định này để

tăng tính chính xác cho kết luận. Giả thuyết kiểm định phương sai sai số thay đổi

được phát biểu như sau:

Giả thuyết H0 : Mô hình có phương sai sai số đồng nhất

Giả thuyết H1 : Mô hình có phương sai sai số không đồng nhất

Nếu trị thống kê F trong kiểm định Breusch-Pagan và kiểm định White có

Prob < 0,05, tức là bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm

định hiện tượng phương sai sai số không đồng nhất ứng với dữ liệu của mô hình

được minh họa trong bảng 4.10

Bảng 4.10 Kết quả kiểm định phương sai sai số đồng nhất

Thống kê F Prob > chi2 Loại kiểm định

3,58 0,0585 Breusch-Pagan test

34,89 0,1141 White’s test

Nguồn: Tác giả

Theo kết quả trong bảng .. thì cả với kiểm định Breusch-Pagan hay kiểm định

White đều có Prob > 0,05, như vậy có thể kết luận mô hình có phương sai sai số

đồng nhất.

4.2.9. Kết quả kiểm định phân phối chuẩn của phần dư (Normality test)

Kết quả kiểm định phương sai cho thấy phương sai sai số của mô hình là

đồng nhất, tuy nhiên quy luật phân phối của sai số là chưa biết. Kết quả hồi quy sẽ

đáng tin cậy khi sai số của ước lượng tuân theo quy luật phân phối chuẩn (tức là

tổng của tất cả các sai số = 0). Để kiểm tra hiện tượng này, tác giả sử dụng kiểm

định Normality test do Jarque & Bera đề xuất, với giả thuyết kiểm định được phát

biểu dưới dạng:

Giả thuyết H0 : Mô hình có phần dư tuân theo quy luật phân phối chuẩn

52

Giả thuyết H1 : Mô hình có phần dư không tuân theo quy luật phân phối

chuẩn

Nếu trị thống kê F trong kiểm định Jarque-Bera có Prob < 0,05, tức là bác bỏ

giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định được minh họa trong

bảng …

Bảng 4.11 Kết quả kiểm định Normality

Giá trị thống kê Jarque-Bera Prob Giả thuyết H0

Phần dư có phân phối 38,21 0,0003

chuẩn

Nguồn: Tác giả

Kết quả kiểm định Normality cho trị thống kê Jarque-Bera = 38,21 có Prob =

0,0003 < 0,05, như vậy là bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Tức là

phần dư của mô hình Pooled không tuân theo quy luật phân phối chuẩn. Việc khắc

phục khuyết tật này sẽ được trình bày chi tiết trong phần phân tích kết quả hồi quy

chính thức.

Tác giả tổng kết các điều kiện của Gauss & Markov trong bảng .. để cung cấp

đánh giá tổng quan về các khuyết tật mà mô hình gặp phải.

Bảng 4.12 Tổng kết các kiểm định theo điều kiện của Gauss & Markor

Các điều kiện cần phải thỏa mãn Kết quả thực nghiệm

Mẫu & dữ liệu được lấy ngẫu nhiên Thỏa mãn

Không có hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo Thỏa mãn

Phương sai sai số là đồng nhất Thỏa mãn

Không có hiện tượng tự tương quan Không thỏa mãn

Sai số tuân theo quy luật phân phối chuẩn Không thỏa mãn

Mô hình không bỏ xót các biến quan trọng Thỏa mãn

Nguồn: Tác giả

Với 6 giả thuyết cơ bản theo Gauss & Markov thì mô hình Pooled thỏa mãn

được 4 điều kiện. Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần phương pháp ước lượng thì

mô hình Pooled không xem xét đến các đặc tính riêng của từng địa phương. Do vậy,

53

cần thiết phải tiến hàng thêm các kiểm định để lựa chọn được mô hình tối ưu giữa

ba mô hình Pooled, FEM và REM.

4.2.10. Kết quả kiểm định lựa chọn giữa Pooled và FEM (F test)

Mô hình Pooled được xây dựng dữa trên giả định các đơn vị chéo trong dữ

liệu bảng là giống nhau, điều này hàm ý là không tồn tại khác biệt giữa 6 tỉnh thuộc

Đông Nam Bộ. Mô hình FEM khắc phục bằng cách đưa thêm các đặc điểm riêng

vào trong phần sai số, tức là tung độ góc của các địa phương là có sự khác biệt. Để

biết được sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê hay không, tác giả sử dụng kiểm

định F với giả thuyết kiểm định được phát biểu như sau:

Giả thuyết H0: Không có sự khác biệt về tung độ góc giữa các đơn vị chéo

Giả thuyết H1: Có sự khác biệt về tung độ góc giữa các đơn vị chéo

Nếu trị thống kê trong kiểm định F có Prob < 0,05, tức là bác bỏ giả thuyết

H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định F được minh họa trong bảng 4.13

Bảng 4.13 Kết quả kiểm định F

Thống kê F Prob Giả thuyết H0

Không có sự khác biệt về tung độ 4,21 0,0026

góc

Nguồn: Tác giả

Kết quả kiểm định cho thấy thống kê F = 4,21 có Prob = 0,0026 < 0,05, như

vậy bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Tức là có sự khác nhau về tung

độ góc giữa các địa phương đưa vào nghiên cứu. Hay nói cách khác, kết quả hồi

quy bằng mô hình FEM sẽ đáng tin cậy hơn kết quả hồi quy theo mô hình Pooled.

4.2.11. Kết quả kiểm định lựa chọn giữa FEM và REM (Hausman test)

Kết quả lựa chọn giữa mô hình FEM và mô hình Pooled cho thấy mô hình

FEM hợp lý hơn. Tuy nhiên, nếu các ảnh hưởng cố định không thay đổi theo thời

gian có tương quan với các biến giải thích thì chúng ta cần sử dụng các phương

pháp ước lượng tác động cố định để kiểm soát hoặc loại bỏ nhằm giảm thiểu sự

thiên chệch do các ảnh hưởng cố định này có tương quan với biến giải thích. Tuy

nhiên, nếu các tác ảnh hưởng cố định không tương quan với các biến giải thích từ

54

các ước lượng tác động cố định trên sẽ không hiệu quả. Khi đó, cần xem xét sử

dụng phương pháp ước lượng tác động ngẫu nhiên thay thế. Trong trường hợp này,

ước lượng tác động ngẫu nhiên sẽ hiệu quả hơn so với ước lượng tác động cố định

(cả 2 đều là các ước lượng tin cậy) bởi ước lượng REM bổ sung ràng buộc về sự

không tương quan giữa các ảnh hưởng cố định với biến giải thích.

Như vậy, để lựa chọn mô hình FEM và mô hình REM chúng ta cần thiết phải

kiểm tra sự tương quan giữa các ảnh hưởng cố định với các biến giải thích. Kiểm

định Hausman sẽ thực hiện việc kiểm tra này. Với các giả thuyết được phát biểu

như sau:

Giả thuyết H0: Không có sự tương quan giữa các ảnh hưởng cố định với các

biến giải thích (tức là mô hình REM phù hợp hơn mô hình FEM)

Giả thuyết H1: Có sự tương quan giữa các ảnh hưởng cố định với các biến

giải thích (mô hình REM không phù hợp bằng mô hình FEM).

Nếu giá trị chi2 trong kiểm định Hausman có Prob < 0,05, tức là bác bỏ giả

thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định Hausman được minh họa

trong bảng 4.14

Bảng 4.14 Kết quả kiểm định Hausman

Giá trị chi2 Prob Giả thuyết H0

REM phù hợp hơn FEM 16,83 0,0048

Nguồn: Tác giả

Kết quả kiểm định Hausman cho giá trị của chi2 = 16,83 và có Prob = 0,0048

< 0,05 như vậy bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Tức là kết quả hồi

quy bằng mô hình FEM sẽ đáng tin cậy hơn kết quả hồi quy bằng mô hình REM.

Từ 2 kết quả kiểm định F test và Hausman test cho thấy mô hình FEM là mô

hình tối ưu ứng với mẫu dữ liệu cho 6 tỉnh Đông Nam Bộ. Tác giả sẽ tiến hành các

kiểm định bổ sung trước khi đưa ra kết quả chính thức.

55

4.3. Các kiểm định bổ sung

Sau khi lựa chọn được mô hình FEM, tác giả tiến hành kiểm định các khuyết

tật của mô hình (nếu có) cũng dựa trên các điều kiện của Gauss & Markov nhưng áp

dụng cho dữ liệu bảng và với phương pháp tác động cố định.

a. Kiểm định phương sai sai số đồng nhất

Để kiểm định phương sai sai số đồng nhất cho dữ liệu bảng, tác giả sử dụng

kiểm định Wald hiệu chỉnh (Modified Wald). Kiểm định Wald được tiến hành bằng

cách chạy hồi quy giữa phần dư Ut và U(t-1) với giả thuyết:

Giả thuyết H0 : Mô hình có phương sai sai số đồng nhất

Giả thuyết H1 : Mô hình có phương sai sai số không đồng nhất

Nếu trị thống kê chi2 trong kiểm định Wald hiệu chỉnh có Prob < 0,05, tức là

bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định Wald hiệu chỉnh

được minh họa trong bảng 4.15

Bảng 4.15 Kết quả kiểm định Wald hiệu chỉnh

Giá trị chi2 Prob Giả thuyết H0

Mô hình có phương sai sai số đồng 187,87 0,0000

nhất

Nguồn: Tác giả

Kiểm định Wald hiệu chỉnh có chi2 = 187,87 và Prob = 0,0000 < 0,05 nên

bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Tức là mô hình FEM của nghiên cứu

gặp phải hiện tượng phương sai sai số không đồng nhất.

b. Kiểm định tự tương quan

Để kiểm định hiện tượng tự tương quan cho dữ liệu bảng, tác giả sử dụng

kiểm định Wooldridge. Kiểm định Wooldridge được tiến hành bằng cách chạy hồi

quy giữa phần dư Ut và U(t-1) với giả thuyết:

Giả thuyết H0 : Mô hình không có tự tương quan giữa các đơn vị chéo của

phần dư

Giả thuyết H1 : Mô hình có tự tương quan giữa các đơn vị chéo của phần dư

56

Nếu trị thống kê F trong kiểm định Wooldridge có Prob < 0,05, tức là bác bỏ

giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1. Kết quả kiểm định Wooldridge được minh

họa trong bảng 4.16

Bảng 4.16 Kết quả kiểm định Wooldridge

Thống kê F Prob Giả thuyết H0

Mô hình không có tự tương quan 0,353 0,5782

Nguồn: Tác giả

Kiểm định Wooldridge có F = 0,353 và Prob = 0,5782 > 0,05 nên không đủ

bằng chứng thống kể để bác bỏ giả thuyết H0. Tức là mô hình FEM của nghiên cứu

không gặp phải hiện tượng tự tương quan giữa các đơn vị chéo của phần dư.

4.4. Kết quả hồi quy chính thức

Mô hình FEM của nghiên cứu gặp phải hiện tượng phương sai sai số thay

đổi. Hiện tượng phương sai sai số thay đổi thực sự không làm sai lệch hệ số hồi

quy, các hệ số hồi quy của mô hình vẫn không chệch. Tuy nhiên sai số chuẩn thu

được bằng kỹ thuật áp dụng ma trận hiệp phương sai thông thường bị thiên lệch,

dẫn tới các kiểm định t và F không còn chính xác, và những suy luận thống kê dựa

trên sai số chuẩn này là không đáng tin cậy. Luận văn áp dụng phương pháp xử lý

phương sai sai sô thay đổi theo phương pháp do Driscoll & Kraay (1998) đề xuất.

Phương pháp điều chỉnh của Driscoll & Kraay áp dụng phương pháp ước lượng ma

trận hiệp phương sai không tham số dựa trên tiệm cận T (khoảng thời gian thu thập)

của các quan sát, giúp cho sai số chuẩn có phương sai đồng nhất và được điều chỉnh

một cách tổng quát nhất cho dữ liệu chéo theo không gian và thời gian. Điều chỉnh

sai số chuẩn ước lượng theo cách này đã loại bỏ những ước lượng hiệp phương sai

không phù hợp, đảm bảo các giá trị sai số chuẩn đạt độ tin cậy cao nhất.

Kết quả thực nghiệm chính thức các yếu tố quyết định đến số thu thuế của

các tỉnh Đông Nam Bộ được minh họa trong bảng 4.17

Bảng 4.17 Kết quả thực nghiệm chính thức

57

Biến phụ thuộc: Kết quả hồi quy Số thu thuế của tỉnh (Ln_thu)

Mô hình FEM Mô hình FEM hiệu chỉnh

Biến độc lập Hệ số β Sai số Hệ số β Sai số

Thu nhập bình quân (Ln_gdp) 0,637***,,… 0,164 0,957*** 0,073

Tốc độ tăng dân số (gdanso) -0,134**,…, 0,073 0,019 0,012

Tỉ lệ lực lượng lao động (Ln_llld) 0,559 0,626 0,363** 0,118

Tỉ lệ GDP/FDI (gdpfdi) 0,401**,,…** 0,169 0,469** 0,143

Tỉ lệ hộ nghèo (tilengheo) -0,065,,… 0,047 0,010 0,012

Sân bay (sanbay) 0…,, omitted 0,363*** 0,048

Hệ số chặn -3,451 4,210 0,624*** 0,624

Độ phù hợp mô hình

squared

R2 0,8160 0,9555

Thống kê F 48,79 4364,64

Prob (Thống kê F) 0,000 0,000

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%

Nguồn: Tác giả

Kết quả hồi quy theo phương pháp do Driscoll & Kraay (1998) đề xuất đã

khắc phục được hiện tượng phương sai sai số không đồng nhất. Theo kết quả trong

bảng .. thì thu nhập bình quân đầu người (biến Ln_gdp), tỉ lệ lực lượng trong độ tuổi

lao động (biến Ln_llld), tỉ lệ GDP/FDI (biến gdp/fdi), sân bay + cảng biển quốc tế

(biến sanbay) có tác động tích cực đến số thu thuế của địa phương và có ý nghĩa

thống kê. Không đủ bằng chứng thống kê để kết luận tốc độ tăng dân số và tỉ lệ hộ

nghèo của tỉnh có tác động đến số thu thuế.

4.5. Thảo luận kết quả

Thu nhập bình quân (Biến Ln_gdp) a.

Theo kết quả hồi quy chính thức thì thu nhập bình quân có hệ số β = 0,957 và

có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này hàm ý với các điều kiện khác không thay

58

đổi thì khi thu nhập bình quân đầu người của 6 tỉnh Đông Nam Bộ tăng 1% thì số

thu thuế của tỉnh tăng 0,957%. Theo tác giả điều này là phù hợp với thực tế, bởi với

thu nhập bình quân đầu người của khu vực Đông Nam Bộ cao gấp 2,5 lần bình quân

của cả nước, tốc độ tăng trưởng GRDP cao hơn từ 1,4 đến 1,6 lần cả nước thì số thu

thuế của khu vực phải thuận chiều với mức thu nhập.

Theo lý giải của Fox & Gurley (2005) khi thu nhập bình quân đầu người

được cải thiện, người dân sẽ có niềm tin vào khả năng ổn định của bản thân và cả

nền kinh tế do đó họ mạnh dạn hơn trong việc mua sắm hàng hóa và sử dụng dịch

vụ. Từ đó làm tăng sức mua của cả nền kinh tế, các doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ

được sản phẩm nên cũng kích thích sản xuất phát triển. Đây là cơ sở để dự báo số

thu thuế sẽ tăng tương ứng trong tương lai gần.

Castro & Ramírez (2014) cũng tìm thấy số thu thuế bị chị phối bởi thu nhập

bình quân, thể chế và cấu trúc xã hội, nhưng lại lý giải theo cách khác. Nhóm tác

giả cho rằng, khi thu nhập bình quân được cải thiện thì kích thích sản xuất phát

triển. Điều này gián tiếp khuyến khích những cá nhân hoặc tổ chức thành lập mới

doanh nghiệp để khai thác được cơ hội kinh doanh từ thị trường đang phát triển

nóng. Số doanh nghiệp tăng lên thì số thu thuế của quốc gia/địa phương cũng được

cải thiện theo chiều hướng tích cực.

Tốc độ tăng dân số (Biến gdanso) b.

Theo Bird và cộng sự (2008) khi nghiên cứu cho 110 quốc gia từ 1990-1999

thì tỉ lệ tăng trưởng dân số có tác động tiêu cực đến số thu về thuế, tỷ lệ tăng dân số

càng cao, thu nhập người dân giảm dẫn đến số thu thuế cũng sẽ giảm. Trong nghiên

cứu này, tác giả không tìm thấy bằng chứng thống kê để kết luận tốc độ tăng dân số

có tác động đến số thu thuế của 6 tỉnh Đông Nam Bộ.

Năm 2015, tốc độ tăng dân số của Bình Phước là 1,27%, Tây Ninh 0,66%,

Bình Dương 3,39%, Đồng Nai 2,28%, Bà Rịa 1,19% và thành phố Hồ Chí Minh là

1,83%. Sở dĩ Bình Dương, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ tăng dân

số cao là do tăng dân số cơ học. Bởi cả 3 địa phương này là nơi thu hút rất nhiều

học sinh, sinh viên, người lao động từ các địa phương khác trong cả nước đến để

59

học tập hoặc tìm kiếm công ăn việc làm. Về lý thuyết, việc tăng dân số tự nhiên sẽ

tạo ra áp lực không chỉ cho các hộ gia đình về chi phí sinh hoạt mà ngân sách của

địa phương cũng phải chi ra cho các hoạt động công ích, đầu tư mới bệnh viện, trạm

y tế, trường học v.v… Việc này không giúp tăng số thu thuế của địa phương.

c. Tỉ lệ lực lượng lao động (Biến Ln_llld)

Không phải ai trong độ tuổi lao động cũng có việc làm. Tuy nhiên, theo quy

định hiện hành của Việt Nam, những người lao động có thu nhập cao đều phải đóng

thuế thu nhập cá nhân, do đó tỉ lệ lực lượng lao động thường có mối quan hệ thuận

chiều với số thu thuế. Trong nghiên cứu này, tác giả tìm thấy bằng chứng thống kê

để kết luận số người trong độ tuổi lao động tăng lên thì số thu thuế của 6 tỉnh Đông

Nam Bộ được cải thiện. Theo đó, với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, khi

tỉ lệ lực lượng lao động tăng 1% thì số thu thuế của địa phương tăng 0,363%.

d. Tỉ lệ GDP/FDI (Biến gdp/fdi)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài và số thu thuế của địa phương là chủ đề được

quan tâm nhiều ở các quốc gia đang phát triển. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng

kinh tế, chính sách của mỗi nước có khác nhau nhưng tập trung khai thác vốn chủ

yếu từ hai nguồn là vốn trong nước và vốn đầu tư từ nước ngoài. Nếu đầu tư gián

tiếp có tác động kích thích thị trường tài chính thì đầu từ trực tiếp từ nước ngoài có

vai trò thúc đẩy sản xuất, bổ sung vốn trong nước, tiếp thu công nghệ cao, hòa nhập

vào mạng lưới kinh tế toàn cầu, tăng số lượng việc làm, đào tạo nguồn nhân lực…

Có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế Việt

Nam như nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh và các cộng sự (2006) về tác động

của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1988-

2003, kết luận FDI tác động tích cực đến tăng trường kinh tế Việt Nam thông qua

kênh đầu tư. Nghiên cứu của Nguyễn Phú Tụ & Huỳnh Công Minh (2010) chỉ ra

rằng nguồn vốn FDI sẽ tạo ra việc làm, giúp xóa đói giảm nghèo… Nghiên cứu của

Vũ Băng Tâm (2008) kết luận FDI có tác động tích cực đến xuất khẩu, nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ.

60

Các nghiên cứu ở nước ngoài như nghiên cứu của Gugler & Brunner (2007)

cho rằng FDI có tác động tích cực, bởi dòng vốn FDI sẽ làm tăng năng lực cạnh

tranh ở thị trường trong nước, và bản thân các doanh nghiệp FDI cũng phải đóng

các khoản thuế cho ngân sách quốc gia/địa phương, điều này sẽ làm số thu thuế

được cải thiện. Tuy nhiên, Cassou (1997) và Gupta (2007) lại tìm thấy tác động

ngược chiều. Lý giải cho điều này, hai nghiên cứu này đều cho rằng các doanh

nghiệp FDI chỉ đầu tư khi họ được Chính phủ hoặc chính quyền địa phương dành

những ưu đãi đặc biệt về tiếp cận đất đai, khai thác tài nguyên và các ưu đãi về thuế.

Việc miễn phí hoặc giảm thuế cho doanh nghiệp FDI trong thời gian đầu sẽ có tác

động tiêu cực đến số thu thuế của địa phương. Khi các ưu đãi này mất đi, hoặc giảm

bớt thì các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ chuyển hướng đầu tư sang

các quốc gia khác.

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ GDP/FDI có ý nghĩa thống kê và có tác động tích

cực đến số thu thuế của địa phương. Theo đó, với điều kiện các yếu tố khác không

thay đổi khi tỉ lệ GDP/FDI tăng lên 1% thì số thu thuế của 6 tỉnh Đông Nam Bộ sẽ

tăng 0,469%. Lưu ý, tỉ lệ GDP/FDI khác với số vốn FDI. Điều này hàm ý nếu các

tỉnh Đông Nam Bộ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển thì số

thu thuế mới được cải thiện. Theo thống kê từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch

và Đầu tư), vùng kinh tế trọng điểm phía Nam hiện có 12.000 dự án với tổng vốn

đầu tư hơn 145 tỷ USD. Dự kiến, trong giai đoạn 2016 – 2020, tổng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI) vào vùng sẽ đạt gần 60 tỷ USD, chiếm hơn một nửa tổng vốn

FDI của cả nước. Với vị trí và vai trò là “đầu tàu kinh tế” của cả nước thì các tiêu

chí để thu hút FDI vào 6 tỉnh Đông Nam Bộ phải cao hơn các địa phương khác.

Việc lựa chọn các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp trong nước phát triển, vừa tránh được các hậu quả tiêu cực từ các dự

án đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ô nhiễm môi trường hoặc sử dụng công nghẹ lạc

hậu, tiêu tốn nhiều tài nguyên.

61

e. Tỉ lệ hộ nghèo (Biến tilengheo)

Trong nghiên cứu này, tác giả không tìm thấy bằng chứng thống kê về mối

liên hệ giữa tỉ lệ hộ nghèo với số thu thuế của 6 tỉnh Đông Nam Bộ. Về lý thuyết,

những tỉnh/ thành phố có tỷ lệ hộ nghèo thấp, mức thu nhập cao thì tổng số thu thuế

sẽ cao và ngược lại. Với thu nhập bình quân gấp 2,5 lần mức thu nhập bình quân

chung của cả nước thì đây là vùng có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước. Số liệu thống

kê cho thấy, năm 2015 tỉ lệ hộ nghèo của thành phố Hồ Chí Minh chỉ chiếm có

0,01%. Do vậy, sự ảnh hưởng của tỉ lệ hộ nghèo đến số thu thuế là không đáng kể.

f. Sân bay + Cảng biển quốc tế (Biến sanbay)

Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế phát

triển. Điều này đặc biệt đúng khi những địa phương luôn có xu hướng mở rộng trao

đổi thương mại bằng cách thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra nước

ngoài. Trong nghiên cứu này, tác giả tìm thấy bằng chứng thông kê để khẳng định

địa phương có sân bay/cảng biển quốc tế sẽ có số thu thuế tốt hơn các địa phương

khác (Biến sanbay có hệ số β = 0,363 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%). Kết luận

này trùng với nghiên cứu của Nguyễn Minh Hà & Lê Công Hướng (2014) khi tìm

thấy tác động dương của yếu tố sân bay + cảng biển quốc tế đến tăng trưởng kinh tế

của 63 tỉnh thành của Việt Nam, từ đó gián tiếp cải thiện số thu thuế của các địa

phương.

62

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

5.1. Kết luận và hàm ý chính sách rút ra từ nghiên cứu

5.1.1. Kết luận

Thuế là nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách quốc gia/địa phương, với dữ liệu

thu thập từ Niên giám thống kê các tỉnh, Tổng cục thống kê, Cục Đầu tư nước ngoài

công bố cho 06 tỉnh Đông Nam Bộ (gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương,

Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước) trong 11 năm từ giai đoạn

2005-2015, bằng phương pháp tác động cố định (mô hình FEM), kỹ thuật hồi quy

dữ liệu bảng theo đề xuất của Driscoll & Kraay (1998) nghiên cứu này rút ra một số

kết luận sau:

 Có bằng chứng thống kê để kết luận thu nhập bình quân đầu người, số người trong

độ tuổi lao động, tỉ lệ GDP/FDI tăng lên thì số thu thuế của tỉnh sẽ được cải thiện.

 Tỉnh có sân bay hoặc cảng biển quốc tế sẽ có số thu thuế cao hơn những tỉnh không

có 2 yếu tố này.

 Không đủ bằng chứng thống kê để kết luận tốc độ tăng dân số và tỉ lệ hộ nghèo có

mối quan hệ với số thu thuế của tỉnh.

5.1.2. Hàm ý chính sách

Từ kết quả thực nghiệm của nghiên cứu, tác giả xin lưu ý khi vận dụng vào

thực tiễn của 6 tỉnh Đông Nam Bộ như sau:

Thứ nhất: Để tăng số thu thuế các địa phương cần tập trung cho các giải pháp

cải thiện thu nhập bình quân đầu người, phát huy tinh thần khởi nghiệp để khuyến

khích nhiều doanh nghiệp trong nước tham gia sâu và rộng vào hoạt động kinh tế.

Muốn vậy cần cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường tư vấn hỗ trợ pháp lý,

giảm thiểu các thủ tục hành chính trong cấp giấy phép đầu tư, kê khai thuế, nộp thuế

v.v…

Thứ hai: Tăng cường đào tạo nghề cho lực lượng lao động, chú trọng đào tạo

những ngành nghề có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao như cơ khí, công nghệ

63

thông tin, tự động hóa… để cải thiện năng suất cho người lao động, từ đó gián tiếp

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng số thu thuế cho ngân sách địa phương.

Thứ ba: Cần quy hoạch và công bố quy hoạch một cachs đồng bộ mạng lưới

giao thông trong tỉnh và liên tỉnh. Mặc dù kết luận của nghiên cứu này là tỉnh có sân

bay hay cảng biển quốc tế sẽ có số thu thuế tốt hơn những tỉnh không có, nhưng

điều này không đồng nghĩa Tỉnh nào cũng cần có sân bay hay cảng biển. Việc kết

nối giao thông liên tỉnh, liên vùng sẽ giúp tăng khối lượng trao đổi thương mại, khai

thác có hiệu quả quy mô của những sân bay và cảng biển hiện có.

5.2. Một số căn cứ để đề xuất giải pháp

Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020 được Chính Phủ phê duyệt trong

Quyết định 723/QĐ-TTg ngày 17/05/2011 với mục tiêu là sửa đổi, bổ sung các qui

định về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đồng bộ, thống

nhất, công bằng, hiệu quả phù hợp với thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã

hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Chiến lược cải cách cũng

nêu rõ quan điểm của Chính Phủ đối với một số sắc thuế cụ thể như sau:

5.2.1. Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến 2020

a. Đối với thuế giá trị gia tăng (GTGT)

Thứ nhất, nghiên cứu giảm bớt số lượng nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu

thuế GTGT để việc tính thuế, khấu trừ thuế không bị ngắt quãng giữa các khâu

trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới cơ bản thực hiện phương

pháp khấu trừ thuế.

Thứ ba, áp dụng một mức thuế suất (không kể mức thuế suất 0% áp dụng đối

với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu).

Thứ tư, qui định về ngưỡng doanh thu để áp dụng hình thức kê khai thuế

GTGT phù hợp.

64

b. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)

Thứ nhất, thực hiện điều chỉnh giảm mức thuế suất chung theo lộ trình phù

hợp để thu hút đầu tư, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính,

tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thứ hai, đơn giản hóa chính sách ưu đãi thuế theo hướng hẹp về lĩnh vực,

tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia

tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ cao, công nghệ sinh

học, dịch vụ chất lượng cao, lĩnh vực xã hội hóa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Thứ ba, bổ sung qui định về các khoản chi phí được trừ và không được trừ

khi xác định thu nhập chịu thuế.

c. Đối với công tác quản lý thuế

Thứ nhất, đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế tạo thuận lợi cho

người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế, giảm chi phí tuân thủ cho người

nộp thuế;

Thứ hai, chuẩn hóa qui trình quản lý thuế trên cơ sở ứng dụng công nghệ

thông tin đảm bảo thống nhất, có tính liên kết cao;

Thứ ba, xây dựng và áp dụng chế độ kế toán thuế giản đơn đảm bảo ghi chép

đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ thuế của người nộp thuế;

Thứ tư, nghiên cứu việc xã hội hóa đối với dịch vụ hỗ trợ về thuế.

Thứ năm, sửa đổi qui định về thời gian khai thuế, nộp thuế để giảm tần suất

kê khai, nộp thuế; thay đổi phương pháp tính thuế, mức thuế theo hướng đơn giản,

tạo thuận lợi cho người nộp thuế kinh doanh dưới “ngưỡng tính thuế GTGT”.

d. Đối với công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế

Thứ nhất, phân loại người nộp thuế để áp dụng các hình thức tuyên truyền, hỗ

trợ thực thi pháp luật thuế phù hợp với từng nhóm người nộp thuế;

Thứ hai, xây dựng, triển khai đa dạng các dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế thực

hiện thủ tục hành chính thuế, chú trọng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ qua hình thức

65

điện tử; cung cấp các dịch vụ tra cứu hoặc trao đổi thông tin điện tử về tình hình

thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế;

Thứ ba, khuyến khích, hỗ trợ phát triển các tổ chức kinh doanh dịch vụ làm

thủ tục về thuế.

e. Đối với việc ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở vật chất

Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu người nộp thuế đầy đủ, chính xác, tập trung

thống nhất trên phạm vụ cả nước;

Thứ hai, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý

thuế có tính liên kết, tự động hóa cao, gắn chặt với quá trình cải cách thủ tục hành

chính thuế và áp dụng thuế điện tử;

Thứ ba, xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, trụ sở làm việc, trang

thiết bị tiên tiến, hiện đại, đồng bộ.

f. Đối với công tác thanh tra, kiểm tra

Thứ nhất, nâng cao năng lực hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát sự tuân

thủ của người nộp thuế theo phương thức kiểm tra, thanh tra trên cơ sở quản lý rủi

ro.

Thứ hai, áp dụng phương pháp thanh tra máy tính, kĩ năng thanh tra theo

chuyên đề

5.2.2. Định hướng cải thiện môi trường đầu tư của Chính Phủ

Những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để cải thiện môi trường đầu tư, nâng

cao năng lực cạnh tranh quốc gia được Chính phủ ban hành trong Nghị quyết số 19-

2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 với mục tiêu cụ thể như sau:

Thứ nhất, cải thiện mạnh các chỉ số đang bị xếp hạng thấp. Cụ thể: Chỉ số

khởi sự kinh doanh tăng thêm ít nhất 40 bậc. Giải quyết tranh chấp hợp đồng tăng

thêm 10 bậc; giải quyết phá sản doanh nghiệp tăng thêm 10 bậc.

Thứ hai, hoàn thành việc bãi bỏ, đơn giản hóa 50% điều kiện đầu tư, kinh

doanh; kiến nghị bãi bỏ một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo Danh mục

ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư.

66

Thứ ba, giảm ít nhất 50% danh mục hàng hóa, sản phẩm phải kiểm tra

chuyên ngành; đồng thời, chuyển đổi mạnh mẽ cách thức quản lý nhà nước từ chủ

yếu tiền kiểm sang chủ yếu hậu kiểm; xóa bỏ căn bản tình trạng một mặt hàng chịu

quản lý, kiểm tra chuyên ngành của nhiều hơn một cơ quan; giảm tỷ lệ các lô hàng

nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành tại giai đoạn thông quan từ 25 - 27% hiện

nay xuống còn dưới 10%.

Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ

tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Đến hết 2018, hầu hết các dịch

vụ công phổ biến, liên quan đến người dân, doanh nghiệp được cung cấp ở mức độ

3 và 4.

Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh ngành du lịch để du lịch từng bước

trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dịch vụ

logistics để tạo thuận lợi và giảm chi phí kinh doanh, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu

ngành kinh tế. Cụ thể là:

- Cải thiện năng lực cạnh tranh ngành du lịch thêm khoảng 10 bậc (hiện xếp thứ

67/136 quốc gia)

- Từng bước giảm chi phí logistics trong nền kinh tế xuống mức bằng khoảng 18%

GDP (hiện hơn 20% GDP); cải thiện Chỉ số Hiệu quả logistics thêm khoảng 10 bậc

(hiện xếp thứ 64/160 quốc gia).

5.3. Một số giải pháp để tăng số thu thuế tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ

5.3.1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

Theo Acemoglu et al. (2000) ở các quốc gia đang phát triển do thể chế chưa

hoàn thiện nên các doanh nghiệp có động cơ và có điều kiện để trốn/né các nghĩa vụ

thuế. Ở Việt Nam, chỉ tính riêng thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu Mai Văn Anh

(2015) đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thu thuế gồm:

 Thất thu thuế do khai sai số lượng và chất lượng hàng hóa

 Thất thu thuế qua gian lận trị giá tính thuế

 Thất thu thuế qua gian lận trong việc phân loại & áp mã hàng hóa

 Thất thu thuế qua gian lận xuất xứ hàng hóa

67

 Thất thu thuế qua loại hình kinh doanh tạm nhập - tái xuất, gia công

 Thất thu thuế do lợi dụng địa bàn và phương thức thủ đoạn buôn lậu

 Thất thu thuế do nợ đọng thuế kéo dài

Richard Goode (1952) liệt kê sáu điều kiện để việc thu thuế của quốc gia

được hữu dụng và hiệu quả: (1) có nền kinh tế tiền tệ; (2) có tỷ lệ dân số biết chữ cao;

(3) có các tiêu chuẩn kế toán phổ biến trung thực và đáng tin cậy; (4) những người

đóng thuế phải có mức tuân thủ tự nguyện cao; (5) có hệ thống chính trị không bị chi

phối bởi những nhóm người giàu có hành động vì lợi ích riêng của họ; (6) có cơ chế

quản lý hợp lý, trung thực và hiệu quả. Chỉ có một số trong những điều kiện này trực

tiếp liên quan đến sự hiện diện của những cơ chế tuân thủ thuế, phần lớn các tiêu chuẩn

lại ràng buộc chặt chẽ với tình trạng phát triển chính trị, kinh tế, xã hội của một đất

nước. Những nước đang phát triển ở thời kỳ đầu thường tránh việc đánh thuế thu nhập

nói chung và tập trung những loại thuế đánh trên hoạt động giao dịch - vì dễ quản lý, ví

dụ như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, và thuế

tài sản. Khi đó, có thể đạt được mục tiêu tái phân phối và công bằng thông qua các biện

pháp tài khóa phi thuế.

Việc chống thất thu thuế không được đề cập đến trong mô hình nghiên cứu vì

sự hạn chế của nguồn dữ liệu, tuy nhiên xét theo các điều kiện thực tế và các nghiên

cứu trước thì đây được xem là một trong những giải pháp để tăng số thu thuế của

địa phương. Muốn vậy, cơ quan quản lý thuế cần tập trung cho các giải pháp sau:

Thứ nhất: Xây dựng lực lượng kiểm tra, thanh tra thuế theo hướng chuyên

nghiệp và chuyên sâu. Nâng cao trình độ nghiệp vụ phát hiện các gian lận trong kê

khai và tính thuế.

Thứ hai: Phân loại các đối tượng để kiểm tra, thanh tra theo mức độ (1) Tuân

thủ, (2) Chưa tuân thủ, (3) Cần kiểm tra thêm để khẳng định thuộc loại nào. Hoặc

theo mức độ kiểm soát được hay chưa kiểm soát được, mức độ rủi ro: (1) Đã kiểm

soát được, rủi ro thấp; (2) Chưa kiểm soát được, rủi ro cao; (3) Cần kiểm tra thêm

để khẳng định thuộc loại nào. Kết quả phân loại được đưa vào cơ sở dữ liệu quản lý

rủi ro. Thực hiện kiểm tra, thanh tra thuế theo phương pháp tự chọn ngẫu nhiên của

68

máy tính, không có sự can thiệp chủ quan của con người để đảm bảo tính khách

quan trong lựa chọn đối tượng kiểm tra. Trên cơ sở phân loại và cơ sở dữ liệu có

được sẽ tập trung xác định và kiểm tra đối với những doanh nghiệp, loại hình và

mặt hàng trọng điểm (rủi ro cao, chưa tuân thủ).

Thứ ba: Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế.

Theo khảo sát của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI) hầu

hết các doanh nghiệp đều không đánh giá cao mức độ cung cấp dịch vụ thuế của các

cơ quan thuế. Để quản lý thuế tốt, tránh dây dưa nợ đọng kéo dài thì cơ sở vật chất

kỹ thuật phải hiện đại, phải ứng dụng được sự tiến bộ của công nghệ thông tin vào

trong công tác quản lý thuế. Theo đó, cần ưu tiên phát triển và sớm hoàn thiện

những lĩnh vực sau:

- Xây dựng và triển khai các phần mềm ứng dụng phục vụ thu nộp thuế theo

thứ tự thanh toán tiền thuế, bù trừ thuế, cưỡng chế thuế, kiểm tra và thanh tra thuế.

Triển khai áp dụng gửi thông báo nợ thuế, cưỡng chế thuế, truy thu thuế.v.v cho tổ

chức, cá nhân nộp thuế hoàn toàn qua hệ thống thư điện tử.

- Xây dựng hệ thống thông tin thuế tập trung, tạo lập cơ sở dữ liệu về đối

tượng nộp thuế trong phạm vi ngành và phối hợp kết nối mạng thông tin trao đổi

với các cơ quan: Thuế, Kho bạc, doanh nghiệp và các cơ quan liên quan khác.

- Quản lý hệ thống mạng thông tin về người nộp thuế thông suốt trong toàn

ngành từ Trung ương đến địa phương. Đảm bảo độ sẵn sàng và an toàn cao, dễ dàng

khai thác, chia sẻ, cung cấp thông tin với mức độ bảo mật cao giữa các đơn vị trong

và ngoài ngành.

5.3.2. Cải thiện môi trường kinh doanh để hỗ trợ sự phát triển của các doanh

nghiệp

Muốn tăng số thu thuế thì cũng cần coi trọng “nuôi dưỡng” nguồn thu. Kết

quả thực nghiệm của mô hình cho thấy biến GDP/FDI có tác động dương đến số thu

thuế. Điều này hàm ý, nếu của các doanh nghiệp trong nước được phát triển tốt thì

số thu thuế của các địa phương sẽ được cải thiện. Nói như vậy không có nghĩa là

các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài không đóng góp cho nguồn thu của

69

địa phương. Tác giả tóm lược tình hình hoạt động kinh doanh của cả doanh nghiệp

trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài để thấy rõ hơn sự phát triển

của 2 loại hình doanh nghiệp này.

Giải pháp quan trọng bậc nhất để khuyến khích các doanh nghiệp (cả trong

nước và doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài) là cải thiện môi trường đầu tư. Những

cải cách của Chính phủ và các bộ, ngành trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết

quả đáng ghi nhận. Đến nay, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã được cải

thiện đáng kể. Số doanh nghiệp và lượng vốn đăng ký hoạt động của doanh nghiệp

tăng nhanh, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động hay giải thể cũng giảm mạnh.

Đặc biệt, hàng loạt giấy phép con đã được bãi bỏ, các thủ tục hành chính về thuế và

hải quan đã được giảm. 99% doanh nghiệp nộp thuế, khai thuế điện tử. Năm 2017

năng lực cạnh tranh quốc gia tăng 5 bậc (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế

giới) so với năm 2016 lên vị trí 55/137 nền kinh tế. Môi trường kinh doanh tăng 14

bậc, chỉ số đổi mới sáng tạo cải thiện 12 bậc, đạt thứ hạng 47/127 nền kinh tế. Chỉ

số nộp thuế và bảo hiểm xã hội tăng điểm và có cải thiện mạnh mẽ, đạt vị trí 68/190

quốc gia…

Tuy nhiên, vẫn có một “điểm tối” cần lưu ý đo là theo xếp hạng của Ngân

hàng thế giới, chỉ số về khởi sự kinh doanh của Việt Nam trong năm 2017 đứng ở vị

trí thứ 123, giảm 2 bậc so với năm 2016. Theo ông Nguyễn Đình Cung, Viện

Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì “Nếu muốn chất lượng môi trường kinh

doanh thực sự được cải thiện, tăng niềm tin cho nhà đầu tư, Việt Nam cần sớm giải

quyết 2 nút thắt chính là nâng chỉ số khởi sự kinh doanh và đơn giản hóa pháp lý về

phá sản”. Bà Catherine Masinde, trưởng nhóm tư vấn toàn cầu về các quy định kinh

doanh của Ngân hàng thế giới cũng cho rằng, để cải thiện mức độ thuận lợi trong

khởi sự kinh doanh, điều mà Việt Nam cần quan tâm hàng đầu là cải cách thủ tục

đăng ký kinh doanh thông qua việc đẩy mạnh mở rộng cung cấp các dịch vụ công

trực tuyến, một cửa duy nhất, tăng cường trao đổi thông tin và mức độ phối hợp xử

lý giữa các cơ quan quản lý để giảm số lượng thủ tục hành chính, cũng như thời

gian thực hiện.

70

Muốn “nuôi dưỡng” nguồn thu ngoài việc cải thiện môi trường kinh doanh

còn cần có kế hoạch phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và

vừa (DNNVV). Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, cần tập trung cho các giải pháp

sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện và đảm bảo tính ổn định khung pháp lý, cải

cách thủ tục hành chính nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh

bạch, thông thoáng cho DNNVV phát triển.

Thứ hai, tạo bước đột phá để DNNVV tiếp cận vốn, nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn vay cho DNNVV

Thứ ba, hỗ trợ tăng cường năng lực nghiên cứu; phát triển công nghệ; đẩy

mạnh chuyển giao, đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm

hàng hóa và năng lực cạnh tranh của DNNVV.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực

có kỹ năng cho DNNVV. Chú trọng đào tạo nghề các ngành, lĩnh vực sử dụng công

nghệ cao để chuyển dịch cơ cấu lao động từ thô sơ sang lao động có tay nghề trình

độ, đáp ứng yêu cầu phát triển của DNNVV trong giai đoạn mới.

Thứ năm, cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất, tăng cường bảo vệ môi

trường thông qua việc lập và công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tạo điều

kiện để phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp có quy mô hợp lý và giá

thuê đất phù hợp với khả năng của DNNVV.

Thứ sáu, hình thành mạng lưới hệ thống thông tin hỗ trợ DNNVV để cung

cấp thông tin về các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp, các

chính sách, chương trình trợ giúp phát triển DNNVV và các thông tin khác hỗ trợ

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ bảy, nâng cao hiệu quả điều phối thực hiện các hoạt động trợ giúp phát

triển DNNVV, tăng cường vai trò của Hội đồng Khuyến khích phát triển DNNVV.

5.3.3. Tăng cường liên kết trong vùng kinh tế

Kết quả phân tích hồi quy cho thấy biến “sân bay-cảng biển” có hệ số beta =

0,363 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Điều này hàm ý những tỉnh có sân bay -

71

cảng biển quốc tế sẽ có số thu thuế tốt hơn so với các tỉnh chưa có. Tuy nhiên, xét

theo vị trí địa lý và quy mô dân số tác giả không khuyến khích tỉnh nào cũng cần có

sân bay hoặc cảng biển. Những tỉnh chưa có điều kiện này như Bình Phước hoặc

Tây Ninh có thể dựa vào liên kết vùng để tìm giải pháp cho chính mình. Hiện nay

liên kết vùng đã và đang hình thành ở Việt Nam, và 6 tỉnh miền Đông Nam Bộ là

những tỉnh đi đầu trong việc ứng dụng những lợi ích của liên kết vùng vào thực

tiễn. Tác giả tổng hợp ý kiến của nhiều chuyên gia để đề xuất ra một số giải pháp

tăng cường liên kết vùng cho vùng kinh tế Đông Nam Bộ như sau:

a. Quy hoạch vùng kinh tế Đông Nam Bộ với trung tâm phát triển là Thành phố

Hồ Chí Minh

Trước mắt cũng như trong dài hạn, vùng kinh tế Đông Nam Bộ vẫn là một

trung tâm công nghiệp chủ lực của cả nước. Hướng phát triển công nghiệp theo quy

hoạch là tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh lớn, hàm

lượng chất xám cao, phục vụ xuất khẩu như: sản phẩm phần mềm, điện tử - viễn

thông; dầu khí và các sản phẩm hóa dầu; thép, vật liệu xây dựng cao cấp; cơ khí chế

tạo, thiết bị, phụ tùng và sửa chữa; chế biến lương thực thực phẩm, dệt may, da

giày…, trong đó công nghiệp điện tử - viễn thông - tin học trở thành ngành mũi

nhọn, phát triển đồng bộ cả phần cứng lẫn phần mềm, đưa vùng kinh tế Đông Nam

Bộ trở thành một trung tâm mạnh về sản xuất linh kiện điện tử và sản xuất phần

mềm của khu vực Đông Nam Á.

Do đó cần điều chỉnh lại hướng phân bố công nghiệp trên địa bàn toàn Vùng,

trên cơ sở khai thác nguồn tài nguyên và dư địa của các tỉnh chưa phát triển (có mật

độ sản xuất công nghiệp chưa tập trung cao, môi trường thiên nhiên chưa bị hủy

hoại), phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Hướng điều

chỉnh bố trí công nghiệp như sau: tạo một hành lang công nghiệp theo hướng từ

Đông Nam đến Tây Bắc thành phố (qua một phần các tỉnh, thành phố gồm Long An

- Tây Ninh - TP.HCM - Bình Phước - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa & Vũng

Tàu). Trong hành lang công nghiệp này, TP.HCM đề nghị Chính phủ quan tâm chỉ

đạo và tạo điều kiện hơn nữa để đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu công nghệ cao

72

(quận 9) và khu công nghiệp cơ khí (huyện Củ Chi); gắn khu công nghệ cao với

trường Đại học quốc gia nhằm phục vụ cho sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp cho

cả vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Đây là hành lang có nhiều ưu thế và còn dư địa rất

lớn để phát triển công nghiệp và sẽ kích thích sự hình thành và phát triển các đô thị

có bán kính từ 30 km đến 50 km so với TP.HCM, tạo nên các đô thị công nghiệp

của Vùng.

Với vị trí vai trò của mình, TP.HCM sẽ thúc đẩy phát triển các ngành dịch

vụ, trước hết là dịch vụ phục vụ cho phát triển công nghiệp của Vùng như: dịch vụ

phục vụ hoạt động xuất khẩu; dịch vụ cảng - vận tải - kho vận - hậu cần hàng hải;

dịch vụ tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; dịch vụ khoa học - công nghệ -

tư vấn - chuyển giao… Do dó, để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào các lĩnh

vực dịch vụ, đề nghị trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn Vùng cần có sự

phối hợp giữa các địa phương trong việc thu hút đầu tư và tạo điều kiện để có sự

phát triển mang tính hỗ tương, khai thác thế mạnh của mỗi tỉnh, thành phố. Các

chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần đặt trên quan điểm cơ cấu của

Vùng, chứ không phải cơ cấu của một tỉnh hay thành phố.

b. Phối hợp xây dựng đồng bộ mạng lưới hạ tầng kỹ thuật của Vùng

Tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng

kinh tế - xã hội theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ và đi trước một

bước. Ưu tiên hoàn thành các trục kết nối liên tỉnh, liên vùng, hệ thống đường cao

tốc, đường bộ, sân bay và cảng biển theo hướng đồng bộ, hiện đại nhằm kết nối

giữa các khu vực và giữa các phương thức vận tải. Tập trung giải quyết tốt vấn đề

tắc nghẽn giao thông, ngập úng tại thành phố Hồ Chí Minh.

Để phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật của toàn vùng kinh tế Đông

Nam Bộ, các tỉnh, thành phố cần liên kết xây dựng những tuyến đường bộ xuyên

Vùng. Các địa phương trong Vùng phối hợp xây dựng và nâng cấp, mở rộng những

tuyến đường liên tỉnh nối các đô thị trung tâm của các tỉnh; lập kế hoạch chung

trong việc xây dựng tuyến vận chuyển hành khách và hàng hóa, dịch vụ ăn uống

73

cho hành khách trên những tuyến đường dài; cải tạo đường thủy, nâng cấp các cảng

sông, cảng biển.

TP.HCM cần đi đầu trong việc lập kế hoạch phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng

cho phát triển, làm cơ sở để các tỉnh trong vùng kinh tế Đông Nam Bộ phối hợp

trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm đảm bảo tính nhất quán và sự bổ trợ trong

các kế hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế -

xã hội của toàn Vùng. Dựa trên kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng của các tỉnh trong

Vùng, TP.HCM cũng cần đi đầu trong việc thu hút và phân bổ vốn đầu tư phát triển

cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong việc phát triển mạng lưới giao thông vận tải nội vùng.

Các tỉnh, thành phố trong Vùng tiến hành rà soát và chế tài việc thực hiện các

quy hoạch đô thị, khu công nghiệp trong Vùng; chú trọng xã hội hóa, huy động các

thành phần kinh tế tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng. Có chính sách thỏa đáng về

đất đai, thuế và tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia xây dựng nhà ở cho

công nhân các khu công nghiệp thuê. Cải thiện môi trường sống tại đô thị và khu

công nghiệp lân cận, đảm bảo vệ sinh môi trường và cân bằng sinh thái.

Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố trong Vùng cần tiếp tục đồng bộ hóa mạng

lưới hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống giao thông nhằm giải quyết căn bản tình

trạng tắc nghẽn tại TP.HCM và ưu tiên giải quyết các điểm nút giao thông chính;

tiếp tục những giải pháp giải tỏa tập trung mật độ cao tại các đô thị trung tâm bằng

cách nâng cấp, hiện đại hóa các tuyến trục và ngoại vi.

c. Đẩy mạnh phối hợp công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng và quy mô

đào tạo với cơ cấu ngành nghề hợp lý hướng vào các ngành mũi nhọn như: tài

chính, ngân hàng, giao thông vận tải, phần mềm, điện tử, viễn thông; công nghệ cao

như tự động hóa, sinh học, vật liệu mới,... Hoàn thành và sớm triển khai quy hoạch

phát triển nhân lực các địa phương, gắn định hướng phát triển nhân lực với phương

hướng phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu thị trường lao động. Tăng tỷ lệ gắn liền

với tăng chất lượng lao động qua đào tạo, tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành

tạo ra sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là sản phẩm dịch vụ xuất khẩu, tỷ lệ lao động

74

làm việc trong các lĩnh vực công nghệ cao. Tạo cơ chế khuyến khích các chuyên

gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham vấn về những

vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả vùng.

Thúc đẩy, nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công

nghệ: Xây dựng các nhiệm vụ khoa học công nghệ gắn với mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội, trước mắt cần tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực khoa học công

nghệ có khả năng làm chủ các công nghệ mới để ứng dụng vào thực tiễn, đồng thời

thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài để ứng dụng khoa học và phát

triển công nghệ tiên tiến.

Bên cạnh việc qui hoạch, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực, đầu tư xây dựng

các trung tâm đào tạo cần quan tâm đào tạo chuyên gia khoa học đầu đàn cho cả

vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Ngành cần dành tỷ lệ đầu tư thỏa đáng cho công tác

đào tạo sau đại học. Bên cạnh việc tăng cường đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà

nước, ngành cần huy động các nguồn lực khác đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Có kế

hoạch đẩy mạnh giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao trình độ văn hoá, trình độ

chuyên môn kỹ thuật, hình thành đội ngũ doanh nhân giỏi. Đồng thời, cần nghiên

cứu hình thành trung tâm khoa học và chuyển giao công nghệ tầm cỡ quốc gia trên

địa bàn Vùng. Có kế hoạch nghiên cứu, phân tích nhu cầu kinh tế - xã hội, tiềm lực

nghiên cứu, đội ngũ cán bộ khoa học của vùng. Từ đó lập kế hoạch nghiên cứu, hệ

thống đề tài thông báo rộng rãi đến các nhà khoa học và mời họ cùng hợp tác

nghiên cứu. Cần thiết lập hệ thống thông tin trao đổi giữa các nhà khoa học trong Vùng,

đẩy mạnh và phát triển các hoạt động hợp tác trong nghiên cứu khoa học trong

Vùng, tránh tình trạng trùng lắp trong hoạt động nghiên cứu. Thường xuyên phối

hợp với các địa phương cùng tổ chức những buổi hội thảo, hội nghị bàn về các vấn

đề như tình hình thực tế và nhu cầu của địa phương nhằm gắn nhu cầu thực tiễn với

hoạt động nghiên cứu.

75

5.4. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo

Nghiên cứu về số thu thuế của địa phương không thể bỏ qua mức thuế suất

của các loại thuế hiện hành. Tuy nhiên, do chính sách thuế của Việt Nam có nhiều

loại thuế khác nhau, nhiều mức thuế suất khác nhau nên việc quy đổi ra mức thuế

suất bình quân bị thiếu căn cứ khoa học. Đây được coi là hạn chế của nghiên cứu

này.

Trong các nghiên cứu tiếp theo ngoài việc bổ sung thêm các mức thuế suất,

có thể xem xét đến việc áp dụng các phương pháp ước lượng khác như phương

pháp hồi quy không gian (Spatial regression). Bởi theo Peracchi & Meliciani

(2006), có sự tồn tại mối tương quan mạnh trong tăng trưởng kinh tế giữa các địa

phương lân cận. Các quốc gia/địa phương gần nhau thường tương tác mạnh với

nhau về mặt kinh tế thông qua các tác nhân khác nhau như luồng di chuyển vốn đầu

tư, lực lượng lao động, kim ngạch xuất nhập khẩu. Sự tương đồng về địa lý, điều

kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên khiến các chính sách kinh tế tốt thường được

sao chép lại, do đó xuất hiện hiệu ứng lan tỏa chính sách kinh tế giữa các quốc

gia/địa phương láng giềng, trong đó có cả chính sách/biện pháp chống thất thu thuế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Mai Thị Vân Anh. (2015). Giải pháp chống thất thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án Tiến sĩ kinh tế. Học

viện Tài chính.

2. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Trần Toàn Thắng, Nguyễn Mạnh

Hải, (2006). Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở

Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật.

3. Nguyễn Minh Hà & Lê Công Hướng (2014), Các chỉ số thành phần của PCI và tác

động của chúng đến thu hút FDI tại các địa phương của Việt Nam. Những vấn đề

kinh tế và chính trị thế giới, số 5(217).

4. Nguyễn Phú Tụ và Huỳnh Công Minh, 2010. Mối quan hệ giữa FDI với tăng trưởng

kinh tế của Việt Nam. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học và Công nghệ lần thứ 1

ISS_HUTECH – 15/04/2010. 577-588.

5. Nguyễn Quốc Toản (2013). “Hoàn thành công tác quản lý thuế đối với doanh

nghiệp nhỏ và vừa tại chi cục thuế huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ”. Luận văn thạc

sĩ.

6. Sử Đình Thành, Bùi Thành Trung & Trần Trung Kiên. (2015). Cải cách hệ thống

thuế VN theo cam kết hội nhập quốc tế đến năm 2020. Tạp chí Phát triển Kinh tế,

26(3), 02-26.

TIẾNG ANH

7. Acemoglu, D., & Verdier, T. (2000). The choice between market failures and

corruption. American Economic Review, vol. 90(1), 194-211.

8. Baunsgaard, T. and M. Keen (2010). Tax revenue and (or?) trade liberalization.

Journal of Public Economics 94 (9-10): 563-577.

9. Bird, R. M., J. Martínez-Vázquez and B. Torgler (2008). Tax effort in developing

countries and high income countries: the impact of corruption voice and

accountability. Economic Analysis and Policy 38 (1): 55-71.

10. Castro, A., & Ramírez, D. (2014). Determinants of tax revenue in OECD countries

over the period 2001-2011. Contaduría y Administración: Revista Internacional,

59(3), 35-60.

11. Damodar, N. G., & Dawn, P. (2008). Basic econometrics, 5th Edition (4th ed.)

12. Dioda, L. (2012). Structural determinants of tax revenue in Latin America and the

Caribbean, 1990- 2009. Economic Commission for Latin America and the

Caribbean.

13. Driscoll, J. C., & Kraay, A. C. (1998). Consistent covariance matrix estimation with

spatially dependent panel data. The Review of Economics and Statistics, 80(4), 549-

560.

14. Gugler, P. and S. Brunner (2007). FDI effects on national competitiveness: a cluster

approach. Int Adv Econ Res 13: 268-284.

15. Gupta, A. S. (2007). Determinants of tax revenue efforts in developing countries.

Working paper, 07/184.

16. Greene, W. (2000). Econometric Analysis. Upper Saddle River, NJ: Prentice-Hall.

17. Pessino, C. and R. Fenochietto (20l0). Determining countries’ tax effort. Revista de

Economía Pública 195 (4): 65-87

18. Peracchi & Meliciani (2006). Convergence in per-capita GDP across European

regions: A reappraisal. Empirical Economics, 31(3), pp 549-568.

19. Peracchi & Meliciani (2006). Convergence in per-capita GDP across European

regions: A reappraisal. Empirical Economics, 31(3), pp 549-568.

20. Piancastelli, M. (2001). Measuring tax effort of developed and developing

countries: cross country panel data analysis 1985-1995. Working paper 818.

Instutude of Applied Economic Research.

21. Vu Bang Tam. (2008). Foreign Direct Investment and Endogenous Growth in

Vietnam. Applied Economics, 40, 1165-1173.

78

22. Wooldridge, J. M. (2002). Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data.

Cambridge, MA: MIT Press.

PHỤ LỤC KẾT QUẢ HỒI QUY

1. Kết quả mô hình POOLED

2. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến (Bằng nhân tử phóng đại phương sai VIF)

3. Kiểm định thiếu biến (Ramsey test)

4. Kiểm định phương sai thay đổi (Breusch-Pagan test)

5. Hệ số tương quan giữa các biến

6. Hồi quy bằng mô hình tác động cố định (FEM)

7. Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)

8. Lựa chọn giữa FEM và REM (Kiểm định Hausman test)

9. Kiểm định phương sai thay đổi của mô hình FEM

10. Kiểm định hiện tượng tự tương quan của mô hình FEM

11. Mô hình FEM hiệu chỉnh (Bằng phương pháp của Driscoll & Kraay)