BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HỒNG
NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC ÁP LỰC CÔNG
VIỆC ĐỐI VỚI HÀNH VI BÁN HÀNG PHI ĐẠO ĐỨC
TRƯỜNG HỢP NGÀNH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HỒNG
NGHIÊN CỨU SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC ÁP LỰC CÔNG
VIỆC ĐỐI VỚI HÀNH VI BÁN HÀNG PHI ĐẠO ĐỨC
TRƯỜNG HỢP NGÀNH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
TẠI VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại
Mã số: 9.34.01.21
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS. TS. VÕ THANH THU
2. TS. LÊ NHẬT HẠNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Luận án Nghiên cứu sự ảnh hưởng của các áp lực công việc đối với hành vi
bán hàng phi đạo đức trường hợp ngành bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam được cam
đoan là nghiên cứu của cá nhân tác giả, với sự hướng dẫn của giáo sư tiến sĩ Võ
Thanh Thu và tiến sĩ Lê Nhật Hạnh.
Các số liệu và kết quả được trình bày trong luận án chưa từng được công bố
trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Những thông tin của những người tham gia vào
nghiên cứu được trình bày trong luận án này đã được người tham gia chấp nhận cho
phép trình bày.
Các nội dung mà tôi tham khảo từ các tài liệu nghiên cứu đã được trình bày
và có trích dẫn đầy đủ. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về luận án này.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Hồng
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, xin được cảm ơn cha, mẹ, chồng, và con trai, những người đã cho
tôi hình hài, tiếng nói đầu tiên, đã dạy cho tôi biết hoan hỉ và cho tôi nghị lực, và đã
dạy cho tôi biết buông bỏ và chấp nhận.
Về phía Nhà trường, xin chân thành cảm ơn cô Võ Thanh Thu, và cô Lê
Nhật Hạnh, những người đã hướng dẫn chuyên môn, tư vấn giúp tôi trong những
giai đoạn nghiên cứu luận án. Xin cảm ơn thầy Trần Nguyên Đán, thầy Lê Tấn Bửu,
thầy Nguyễn Khắc Hiếu, cô Nguyễn Thị Thanh Thúy, cô Lê Trường Diễm Trang,
cô Đào Thị Kim Yến, thầy Đàng Quang Vắng, cô Nguyễn Thị Thanh Vân, chuyên
gia Hà Nguyễn Minh Quân, chuyên gia Nguyễn Anh Toàn, và các chuyên gia khác
đã hỗ trợ và chia sẻ kinh nghiệm kiến thức để tôi có thể hoàn thành bài luận án.
Xin cảm ơn tất cả những đồng nghiệp, những người thầy, người cô, mặc dù
không phải là giảng viên hướng dẫn của tôi, nhưng đã ủng hộ và giúp tôi có những
kiến thức hoàn thành bài luận án. Xin được cảm ơn những anh chị trong ngành bảo
hiểm nhân thọ đã hỗ trợ tôi và cung cấp những kiến thức cho tôi, giúp tôi có thể
hoàn thành luận án của mình.
Nghiên cứu sinh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục hình
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN
1.1 Bối cảnh nghiên cứu ____________________________________________ 1
1.1.1 Về mặt lý thuyết _______________________________________________ 1
1.1.1.1 Nghiên cứu về hành vi bán hàng phi đạo đức (USB) trên thế giới và Việt
Nam ___________________________________________________________ 3
1.1.1.2 Nghiên cứu về các áp lực công việc trên thế giới và Việt Nam _______ 5
1.1.1.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực công việc đối với USB trên thế giới
và Việt Nam ____________________________________________________ 8
1.1.2 Về mặt thực tiễn _____________________________________________ 10
1.1.2.1 Khái quát ngành bảo hiểm nhân thọ (BHNT) tại Việt Nam ______ 10
1.1.2.2 Sự cần thiết nghiên cứu về USB trong ngành BHNT____________ 12
1.1.3 Những khoảng trống nghiên cứu _______________________________ 14
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ___________________________________________ 16
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ____________________________________________ 16
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ________________________________ 17
1.5 Phương pháp nghiên cứu _______________________________________ 17
1.6 Những đóng góp mới của luận án ________________________________ 18
1.7 Bố cục luận án ________________________________________________ 19
CHƯƠNG 2- CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Khái niệm về hành vi bán hàng phi đạo đức (USB) __________________ 21
2.1.1 Đạo đức ____________________________________________________ 21
2.1.2 Đạo đức kinh doanh ___________________________________________ 21
2.1.3 Hành vi phi đạo đức ___________________________________________ 22
2.1.4 Hành vi bán hàng phi đạo đức (USB) _____________________________ 22
2.2 Ngành BHNT và những thách thức đạo đức ________________________ 25
2.3 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới __________________ 26
2.4 Các lý thuyết nền _____________________________________________ 28
2.4.1 Thuyết bảo tồn nguồn lực (COR) _______________________________ 36
2.4.2 Thuyết nguồn lực-yêu cầu công việc (JD-R) ________________________ 38
2.4.3 Thuyết nhận thức xã hội (SCT) __________________________________ 39
2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến USB _________________________________ 40
2.6 Mô hình nghiên cứu ___________________________________________ 45
2.6.1 Các khái niệm trong bối cảnh ngành BHNT ______________________ 45
2.6.1.1 USB ____________________________________________________ 45
2.6.1.2 Mâu thuẫn vai trò _________________________________________ 46
2.6.1.3 Sức ép bán hàng___________________________________________ 47
2.6.1.4 Tính thách thức của mục tiêu ________________________________ 48
2.6.1.5 Sự lo âu _________________________________________________ 50
2.6.1.6 Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm ________________________________ 51
2.6.1.7 Sự bào chữa ______________________________________________ 52
2.6.2 Các giả thuyết _______________________________________________ 53
2.6.2.1 Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của
mục tiêu, và USB ________________________________________________ 53
2.6.2.2 Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của
mục tiêu, và sự lo âu _____________________________________________ 55
2.6.2.3 Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của
mục tiêu, và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm ____________________________ 57
2.6.2.4 Quan hệ giữa sự lo âu, sự bào chữa, và USB ____________________ 60
2.6.2.5 Quan hệ giữa sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa, và USB ___ 63
2.6.2.6 Vai trò chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự
bào chữa _______________________________________________________ 65
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ___________________________________________ 75
CHƯƠNG 3- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Quy trình nghiên cứu __________________________________________ 76
3.2 Cơ sở lựa chọn phương pháp ____________________________________ 82
3.3 Tìm thang đo và hình thành thang đo nháp _________________________ 84
3.3.1 Thang đo USB _______________________________________________ 84
3.3.2 Thang đo mâu thuẫn vai trò _____________________________________ 85
3.3.3 Thang đo sức ép bán hàng ______________________________________ 85
3.3.4 Thang đo tính thách thức của mục tiêu ____________________________ 85
3.3.5 Thang đo sự lo âu _____________________________________________ 86
3.3.6 Thang đo sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm ___________________________ 86
3.3.7 Thang đo sự bào chữa _________________________________________ 87
3.4 Phỏng vấn ___________________________________________________ 89
3.4.1 Mẫu phỏng vấn ______________________________________________ 89
3.4.2 Nội dung phỏng vấn ___________________________________________ 93
3.4.3 Kết quả phỏng vấn ____________________________________________ 94
3.5 Phân tích nội dung định tính ____________________________________ 104
3.5.1 Các cách tiếp cận ____________________________________________ 104
3.5.2 Chia nhỏ văn bản thành các đơn vị ý nghĩa và mã hóa _______________ 105
3.6 Thảo luận kết quả nghiên cứu định tính ___________________________ 110
3.7 Điều chỉnh thang đo và hình thành bản khảo sát sơ bộ _______________ 112
3.8 Nghiên cứu sơ bộ ____________________________________________ 119
3.8.1 Xác định mẫu _______________________________________________ 119
3.8.2 Phương pháp lấy mẫu ________________________________________ 119
3.8.3 Đánh giá thang đo sơ bộ (lần 1) _________________________________ 120
3.9 Nghiên cứu chính thức ________________________________________ 123
3.9.1 Bản khảo sát chính thức _______________________________________ 123
3.9.2 Cách thức chọn đối tượng khảo sát và tiếp cận _____________________ 124
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 __________________________________________ 129
CHƯƠNG 4- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Đặc điểm mẫu thu thập ________________________________________ 130
4.2 Đánh giá thang đo chính thức (lần 2) _____________________________ 131
4.3 Kiểm định giả thuyết _________________________________________ 134
4.3.1 Các ảnh hưởng trực tiếp _______________________________________ 136
4.3.2 Các ảnh hưởng gián tiếp ______________________________________ 139
4.4 Thảo luận kết quả nghiên cứu __________________________________ 142
TÓM TẮT CHƯƠNG 4 __________________________________________ 145
CHƯƠNG 5- KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
5.1 Kết luận ____________________________________________________ 146
5.2 Đóng góp của luận án _________________________________________ 147
5.3 Hàm ý quản trị ______________________________________________ 148
5.3.1. Các hãng bảo hiểm cần giảm mâu thuẫn vai trò trong công việc _______ 149
5.3.2. Các hãng bảo hiểm cần cân nhắc tạo ra sức ép bán hàng phù hợp ______ 150
5.3.3. Các hãng bảo hiểm cần cân nhắc thiết lập các mục tiêu______________ 151
5.4 Những hạn chế và gợi ý _______________________________________ 152
Các nghiên cứu của tác giả
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt/ Tiếng Anh Tiếng Việt ký hiệu
& Và
ANJ Sự lo âu (trong công việc) Job anxiety
AVE Average variance extracted Phương sai trích
BHNT Bảo hiểm nhân thọ
Conservation of resources COR Thuyết bảo tồn nguồn lực theory
EGD Ego depletion Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
GDI Goal difficulty Tính thách thức của mục tiêu
Tỷ lệ dị biệt - đặc điểm đơn HTMT Heterotrait – Monotrait ratio nhất
Thuyết nguồn lực- yêu cầu JD-R Job demands-resources theory công việc
MJU Moral justification Sự bào chữa
Mô hình cấu trúc tuyến Partial Least Squares Structural PLS-SEM tính bình phương nhỏ nhất Equation Modeling từng phần
Role conflict Mâu thuẫn vai trò RCO
Social cognitive theory Thuyết nhận thức xã hội SCT
Selling pressure Sức ép bán hàng SPR
Outer loading Hệ số tải OL
Unethical selling behavior Hành vi bán hàng phi đạo đức USB
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp các nghiên cứu về USB ................................................................ 29
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp các tác nhân ảnh hưởng
đến hành vi đạo đức/phi đạo đức của người bán hàng ................................. 43
Bảng 2.3: Tổng hợp các giả thuyết .......................................................................... 71
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp các thang đo nháp ................................................................ 87
Bảng 3.2: Danh sách người được phỏng vấn ............................................................... 92
Bảng 3.3: Kết quả phỏng vấn người tư vấn bán BHNT ................................................ 95
Bảng 3.4: Kết quả phỏng vấn giảng viên (người nghiên cứu) ...................................... 99
Bảng 3.5: Kết quả phỏng vấn khách hàng .................................................................. 103
Bảng 3.6: Đơn vị ý nghĩa và đơn vị ý nghĩa cô đọng ................................................. 106
Bảng 3.7: Bảng mã hóa ............................................................................................... 108
Bảng 3.8: Thang đo điều chỉnh ................................................................................... 115
Bảng 3.9: Kết quả đánh giá thang đo sơ bộ (lần 1) ..................................................... 122
Bảng 3.10: Bảng giá trị HTMT sơ bộ (lần 1) .............................................................. 123
Bảng 4.1: Đặc điểm mẫu thu thập ............................................................................... 131
Bảng 4.2: Kết quả đánh giá thang đo chính thức (lần 2) ............................................ 132
Bảng 4.3: Bảng giá trị HTMT chính thức (lần 2) ....................................................... 134
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định mô hình tổng thể .......................................................... 135
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Số lượng đại lý trong ngành BHNT .............................................................. 11
Hình 2.1: Mô hình về sự tác động của các nhân tố đối với USB .................................. 44
Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu đề xuất ......................................................................... 70
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu .................................................................................... 76
Hình 4.1: Mô hình nghiên cứu chính thức sau khi đã hiệu chỉnh ............................... 143
TÓM TẮT LUẬN ÁN
Mục tiêu của luận án này nhằm phân tích sự ảnh hưởng của các áp lực
công việc (mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu) đối
với hành vi bán hàng phi đạo đức (USB), qua đó, khám phá vai trò chuỗi trung
gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa. Theo đó, mâu thuẫn
vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu được giả thuyết không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp mà còn ảnh hưởng gián tiếp với USB thông qua chuỗi trung
gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa. Áp dụng phương
pháp nghiên cứu định tính và định lượng, luận án thực hiện phỏng vấn những người
có kinh nghiệm thực tế trong ngành BHNT, những giảng viên có kiến thức chuyên
môn liên quan đến các nội dung nghiên cứu và những người khách hàng mua
BHNT để giúp hiểu hơn về các khái niệm trong bối cảnh ngành BHNT tại Việt
Nam, và khảo sát 402 người tư vấn bán các sản phẩm BHNT của các hãng BHNT
tại Việt Nam nhằm thu thập dữ liệu. Từ đó, mô hình PLS-SEM và phần mềm
SmartPLS được sử dụng để đánh giá thang đo và kiểm định các giả thuyết.
Kết quả cho thấy ảnh hưởng trực tiếp giữa sức ép bán hàng và USB được ủng
hộ, trong khi ảnh hưởng trực tiếp giữa tính thách thức của mục tiêu, mâu thuẫn vai
trò và USB không được ủng hộ. Bên cạnh đó, kết quả phát hiện sự lo âu, sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa là chuỗi trung gian nối kết mâu thuẫn vai
trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu đối với USB. Cụ thể, mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích cực
đến sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, từ đó làm tăng sự bào chữa và USB.
Ngoài ra, sự bào chữa cũng là nhân tố trung gian nối kết sự lo âu, sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm và USB. Dựa vào kết quả này, một số hàm ý quản trị cũng
được đề xuất.
Từ khóa:
Mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu, USB
ABSTRACT OF THE THESIS
The thesis’s purpose is to investigate the influences of job stressors (role
conflict, selling pressure, and goal difficulty) on unethical selling behavior
(USB) through serial mediating roles of anxiety, ego-depletion, and
justification. Accordingly, role conflict, selling pressure, and goal difficulty
were assumed to directly and indirectly relate to unethical selling behavior
through anxiety, ego-depletion, and justification. Applying the qualitative and
quantitative methods, interviews and survey were conducted. Questionnaires were
distributed to sales people, who were working in life-insurance firms in Vietnam.
The PLS-SEM model and SmartPLS were applied to examine the hypotheses.
With the sample of 402, the results indicated that the direct relationship
between selling pressure and USB was supported, meanwhile, the direct
relationship between role conflict, goal diffilculty and USB were not supported.
In additional, role conflict, selling pressure, and goal diffilculty indirectly
related to USB through serial mediating roles of anxiety, ego-depletion, and
justification. In details, the results reflected that role conflict, selling pressure,
and goal difficulty positively relate to anxiety, ego-depletion, in turn, increasing
justification and unethical selling behavior. More over, justification was
explored to be the mediator of the relationships between anxiety, ego-depletion,
and unethical selling behavior. Based on the findings, some implications were
suggested.
Keywords:
Role conflict, selling pressure, and goal difficulty, unethical selling behavior
(USB)
1
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN
1.1 Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1 Về mặt lý thuyết
Đạo đức trong kinh doanh bán hàng đã nhận được sự quan tâm của nhiều
nghiên cứu trong hơn năm thập kỷ qua (McClaren, 2015, Ameer & Halinen, 2019).
Trong đó, hành vi bán hàng phi đạo đức (unethical selling behavior) (USB) là chủ
đề đang thu hút nhiều học giả (Radin & Predmore, 2002; Roman & Ruiz, 2005;
Chen & Mau, 2009; Yi và cộng sự, 2012; Li & Murphy, 2012; Ameer & Halinen,
2019), bởi với vai trò là người kết nối giữa khách hàng và tổ chức, hành vi bán
hàng đạo đức/ phi đạo đức của người bán hàng có thể ảnh hưởng đến sự cam kết,
lòng trung thành của khách hàng đối với tổ chức kinh doanh (Chen & Mau, 2009;
Roman & Munuera, 2005; Yi và cộng sự, 2012; Roman & Ruiz, 2005; Munoz &
Mallin, 2019). Mặc dù một số quốc gia đã ban hành các quy định nhằm ngăn chặn
USB, tuy nhiên, thực tế cho thấy hành vi này vẫn tiếp tục diễn ra (Roman &
Munuera, 2005; Yi và cộng sự, 2012; Tseng và cộng sự, 2016; Seriki và cộng sự,
2020). Đơn cử như những sai phạm của những người bán bảo hiểm của hãng
Prudential khiến hãng này bị phạt 2,6 tỷ đô la (Roman & Ruiz, 2005), trong đó, đại
lý Pruco, một đơn vị của Prudential tại Mỹ, đã có sai phạm bán hàng khi họ thuyết
phục khách hàng đã mua các hợp đồng BHNT cũ chuyển sang mua các hợp đồng
mới bằng cách thông tin với khách hàng rằng các chính sách trong hợp đồng mới
không đắt hơn các chính sách cũ, tuy nhiên, thực tế các chính sách mới có giá cao
hơn, dẫn đến việc nhiều chính sách đã mất hiệu lực và nhiều chủ hợp đồng đã
không đủ khả năng chi trả (O’Brian, B., 1999). Các học giả Seriki và cộng sự
(2020) cũng đưa ra những quan ngại tương tự khi dẫn chứng việc hàng nghìn khách
hàng (tại Anh) mua nhầm các sản phẩm bảo hiểm. Trong một tác phẩm khác của
Barsky (2008), học giả này cũng dẫn chứng một ví dụ về việc những người tư vấn
khách hàng của hãng Sears đã có những tư vấn không chính xác với khách hàng,
khiến khách hàng phải bỏ ra chi phí nhiều hơn cho các dịch vụ của hãng. Những ví
dụ này đã dấy lên những lo ngại về hành vi phi đạo đức, trong đó có USB (Roman
2
& Munuera, 2005; Yi và cộng sự, 2012; Tseng và cộng sự, 2016; Seriki và cộng sự,
2020). Cũng vì thế, việc tìm hiểu về các tác nhân của hành vi này đang dần được
các nghiên cứu quan tâm (Roman & Munuera, 2005; Tseng và cộng sự, 2016; Seriki
và cộng sự, 2020).
Theo đó, nhiều nhân tố được phát hiện có liên quan đến hành vi này, bao
gồm cả những đặc điểm cá nhân, ví dụ như độ tuổi (Roman & Munuera, 2005),
những yếu tố tâm lý cá nhân, ví dụ như sự lo âu (Kouchaki và Desai, 2015), sự
suy kiệt nguồn lực tự kiểm (Wang và cộng sự, 2017), sự bào chữa (Barsky,
2011), và cả những yếu tố bên ngoài cá nhân, như môi trường đạo đức của tổ
chức (Yi và cộng sự, 2012), các áp lực công việc (Chiu và cộng sự, 2015; Wang
và cộng sự, 2017). Trong những tác nhân này, các áp lực công việc là những tác
nhân được các học giả quan tâm, bởi đây là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến
tâm lý cá nhân, gây nên những căng thẳng cho cá nhân, và có thể dẫn đến
những hành vi phi đạo đức của cá nhân (Jaramillo và cộng sự, 2011; Chiu và
cộng sự, 2015). Riêng với công việc bán hàng, đây là một công việc có rất
nhiều áp lực (Roman & Munuera, 2005; Jaramillo và cộng sự, 2011), ví dụ như
mâu thuẫn vai trò (Jaramillo và cộng sự, 2011), sức ép bán hàng (Yi và cộng sự,
2012), và tính thách thức của mục tiêu (Roman & Munuera, 2005). Mặc dù một
số nghiên cứu đã tìm hiểu về những áp lực này (Chiu và cộng sự, 2015; Yi và
cộng sự, 2012; Welsh và cộng sự, 2019), tuy nhiên, trong những nghiên cứu về
người bán hàng, những nối kết giữa các áp lực này và USB vẫn chưa được
nhiều nghiên cứu đề cập (Tarkiainen và cộng sự, 2016).
Cũng theo nhiều học giả, các yếu tố bên ngoài và bên trong cá nhân không chỉ
độc lập ảnh hưởng đến hành vi cá nhân, mà giữa các yếu tố này cũng có thể có
những tương tác, quan hệ với nhau để cùng ảnh hưởng đến hành vi cá nhân (Yi và
cộng sự, 2012; Seriki và cộng sự, 2020). Cũng theo đó, các nghiên cứu về hành
vi phi đạo đức, trong đó có USB, không chỉ xem xét một cách độc lập những
nối kết trực tiếp của các tác nhân này đối với USB, mà đã dần quan tâm đến
những nối kết giữa các tác nhân này. Theo đó, một số nghiên cứu đã nhấn mạnh
3
vai trò trung gian của các nhân tố tâm lý cá nhân, với lập luận cho rằng các yếu
tố bên ngoài có thể tác động đến tâm lý cá nhân, từ đó, thúc đẩy hành vi của cá
nhân. Một số trung gian, ví dụ như thái độ đạo đức (Yi và cộng sự, 2012), sự
chối bỏ đạo đức (Seriki và cộng sự, 2020) đã được phát hiện có liên quan đến
USB, nhờ đó, giúp giải thích rõ hơn về USB (Seriki và cộng sự, 2020). Tuy
nhiên, với những nghiên cứu tìm hiểu về các áp lực công việc đối với USB,
những nhân tố trung gian phản ánh những căng thẳng trong công việc (ví dụ
như sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm) vẫn chưa được đề cập, nên một số
vấn đề vẫn chưa được lý giải, cụ thể như các áp lực công việc đã dẫn đến những
căng thẳng (sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm) cho người bán hàng như
thế nào, những căng thẳng này đã tác động đến nhận thức (hình thành sự bào
chữa của họ) như thế nào, và từ đó, họ đã thực hiện hành vi đối phó (USB) như
thế nào. Đáng lưu ý, những vấn đề này càng ít được tìm hiểu trong bối cảnh
ngành dịch vụ, nơi mà người bán hàng phải chịu trách nhiệm chính trong việc tư
vấn và cung cấp cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ vô hình (Tang và
cộng sự, 2020).
Lấp vào những khoảng trống này, luận án nghiên cứu sự ảnh hưởng của
các áp lực công việc (mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của
mục tiêu) đối với USB, qua đó, góp phần khám phá vai trò chuỗi trung gian của
các nhân tố tâm lý cá nhân (gồm sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự
bào chữa), với bối cảnh ngành BHNT tại Việt Nam. Để làm rõ hơn những
khoảng trống nghiên cứu, phần tiếp theo sẽ trình bày tình hình nghiên cứu về
(1) USB, (2) áp lực công việc, và (3) ảnh hưởng của áp lực công việc đối với
USB trên thế giới và Việt Nam.
1.1.1.1 Nghiên cứu về hành vi bán hàng phi đạo đức (USB) trên thế giới
và Việt Nam
USB được hiểu là những hành vi vi phạm các quy định pháp luật (Cheng
và cộng sự, 2014), hoặc những hành vi nhằm làm lợi cho người bán hàng, và có
thể dẫn đến những bất lợi cho khách hàng (Roman & Ruiz, 2005; Roman &
4
Munuera, 2005), ví dụ như hành vi bán những sản phẩm không phù hợp với
khách hàng (Roman & Ruiz, 2005; Roman & Munuera, 2005). Việc nghiên cứu
về USB không chỉ tập trung vào những kết quả/ hậu quả của hành vi này (ví dụ
như sự cam kết, sự tin tưởng của khách hàng) (Roman & Ruiz, 2005), mà còn
tập trung vào những tác nhân của hành vi này, như độ tuổi người bán hàng
(Roman & Munuera, 2005; Cheng và cộng sự, 2014), môi trường đạo đức của
tổ chức (Yi và cộng sự, 2012), và những áp lực công việc (Munoz & Mallin,
2019) (vui lòng tham khảo thêm phụ lục 1). Theo đó, một số lý thuyết và mô
hình đã được phát triển, tạo tiền đề cho nhiều nghiên cứu. Cụ thể, Hunt và Vitell
(1986) đã đưa ra thuyết tổng quát về đạo đức marketing (General theory of
marketing ethics) và đề xuất mô hình nối kết các yếu tố tổ chức, đặc điểm cá
nhân, ý định và hành vi đạo đức của cá nhân. Riêng đối với công việc kinh
doanh bán hàng, các học giả Ferrell và cộng sự (2007) cũng phát triển mô hình
nối kết văn hóa tổ chức (về kinh doanh), môi trường đạo đức (trong kinh
doanh), quan điểm đạo đức của cá nhân và quyết định thực hiện hành vi đạo
đức của cá nhân. Bên cạnh đó, một số lý thuyết khác, như thuyết nhận thức xã
hội (Bandura, 2002), và thuyết hợp lý hóa (Kunda, 1990) cũng đã góp phần gợi mở
cho các nghiên cứu về USB và mở rộng hơn là hành vi phi đạo đức của người
bán hàng (Cheng và cộng sự, 2014; Tseng, 2019; Seriki và cộng sự, 2020).
Trong một lược khảo của Ameer và Halinen (2019), cho đến năm 2017, có
137 nghiên cứu thực nghiệm về các dạng hành vi phi đạo đức trong bán hàng
(bao gồm cả hành vi phi đạo đức với khách hàng, với đồng nghiệp, và với cấp
trên), trong đó có 5 công trình sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và 6
công trình sử dụng phương pháp hỗn hợp, còn lại đều sử dụng phương pháp
định lượng. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu về hành vi phi đạo đức vẫn chủ
yếu thực hiện tại Mỹ (Ameer & Halinen, 2019), đơn cử như Cupach và Carson
(2002) đã thực hiện nghiên cứu tại Mỹ nhằm phân tích về USB trong ngành
BHNT (vui lòng tham khảo phụ lục 1). Tương tự, Barsky (2011) đã khảo sát các
sinh viên tại Mỹ và đề nghị họ trả lời những câu hỏi về hành vi phi đạo đức
5
trong tình huống bán hàng (vui lòng tham khảo phụ lục 1). Số lượng nghiên cứu
tại các quốc gia khác mặc dù có gia tăng, nhưng vẫn không nhiều, riêng tại các
nước châu Á, số lượng nghiên cứu chỉ chiếm khoảng 9% (McClaren, 2015;
Ameer & Halinen, 2019). Vì vậy, các học giả Ameer & Halinen (2019) đã kêu
gọi cần thêm nhiều nghiên cứu ở những bối cảnh ngành nghề và xã hội khác để
giúp hiểu rõ hơn về những hành vi này.
Riêng tại Việt Nam, một quốc gia châu Á, các vấn đề liên quan đến đạo
đức đã dần được quan tâm (Tuan, 2012; Tuan, 2015; Pham và cộng sự, 2015;
Nhung, 2014). Điển hình như Tuan (2012) đã tìm hiểu về các hành vi phi đạo
đức (như nói dối, hối lộ, thiên vị) của những người lãnh đạo doanh nghiệp, tuy
nhiên, nghiên cứu này không đề cập đến USB của người bán hàng. Liên quan
đến ngành bảo hiểm, Nhung (2014) cũng tìm hiểu về hành vi trục lợi bảo hiểm,
tuy nhiên, nghiên cứu này tập trung vào việc đưa ra các ý kiến hoàn thiện pháp
luật nhằm ngăn chặn hành vi này, chứ không tập trung vào USB. Một công trình
khác của Pham và cộng sự (2015) quan tâm đến những khác biệt trong thái độ
đạo đức kinh doanh của sinh viên ở các nhóm tuổi, giới tính, tuy nhiên, công trình
này cũng không đề cập đến USB. Cũng theo Pham và cộng sự (2015), số lượng
nghiên cứu liên quan đến đạo đức trong kinh doanh bán hàng tại Việt Nam vẫn
còn rất ít, chính vì vậy, Pham và cộng sự (2015) đề xuất rằng cần thêm nhiều
nghiên cứu hơn nữa tại quốc gia này.
Như vậy, có thể thấy rằng USB đang là chủ đề rất đáng quan tâm, tuy
nhiên, những nghiên cứu về USB vẫn tập trung tại Mỹ, chính vì vậy, việc tìm
hiểu về USB tại Việt Nam vẫn rất cần thiết.
1.1.1.2 Nghiên cứu về các áp lực công việc trên thế giới và Việt Nam
Áp lực công việc được hiểu là những đặc điểm công việc có thể dẫn đến
những đe dọa cho cá nhân (Chiu và cộng sự, 2015). Áp lực công việc đang được
quan tâm trong thời gian gần đây, bởi những yếu tố này có thể tác động đến
nhiều dạng hành vi khác nhau của cá nhân (Chiu và cộng sự, 2015; Rostami và
cộng sự, 2019), ví dụ như hành vi rời bỏ doanh nghiệp (Jaramillo và cộng sự,
6
2011), hành vi sáng tạo (Rostami và cộng sự, 2019). Đơn cử như nghiên cứu
của Jaramillo và cộng sự (2011), với mẫu nghiên cứu là 342 người bán hàng tại
Nam Mỹ, các tác giả đã khẳng định rằng những áp lực công việc như mâu thuẫn
vai trò (role conflict) và sự thiếu rõ ràng trong vai trò (role ambiguity) chính là
những tác nhân làm tăng hành vi rời bỏ doanh nghiệp. Trong khi đó, một công
trình của Rostami và cộng sự (2019) với mẫu 216 người bán hàng ở Ấn Độ
cũng phát hiện được rằng sức ép thời gian có thể làm tăng hành vi sáng tạo của
người bán hàng.
Bán hàng được nhìn nhận là công việc có nhiều áp lực (Roman &
Munuera, 2005; Ameer & Halinen, 2019), theo đó, mâu thuẫn vai trò (role
conflict), sức ép bán hàng (selling pressure), và tính thách thức của mục tiêu
(goal difficulty) là những áp lực rất phổ biến mà người bán hàng thường đối mặt
(Fang và cộng sự, 2004; Jaramillo và cộng sự, 2011; Yi và cộng sự, 2012; Chiu
và cộng sự, 2015; Munoz & Mallin, 2019; Ameer & Halinen, 2019). Cụ thể, với
vai trò là người kết nối giữa doanh nghiệp và khách hàng, người bán hàng
thường phải cân bằng lợi ích của các bên liên quan, ví dụ như những mong cầu
của khách hàng, lợi ích của người bán hàng, và những yêu cầu công việc mà
doanh nghiệp đặt ra (Radin & Predmore, 2002). Trong ngành BHNT, một mặt,
người bán hàng phải cố gắng bán sản phẩm để mang về doanh số cho doanh
nghiệp, nhưng mặt khác, họ cũng có nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng để khách
hàng mua được sản phẩm phù hợp. Tuy nhiên, đôi khi những sản phẩm mà
doanh nghiệp muốn bán lại không phải là sản phẩm mà khách hàng muốn mua
(Radin & Predmore, 2002). Do đó, người bán hàng thường đối mặt với mâu
thuẫn vai trò khi họ cảm thấy họ không biết phải làm sao để hoàn thành các vai
trò của mình (Radin & Predmore, 2002; Jaramillo và cộng sự, 2011).
Bên cạnh đó, các tổ chức thường quản lý người bán hàng bằng cách đưa ra
những mục tiêu (như doanh số bán hàng hay số lượng sản phẩm BHNT phải
bán ra), và những mục tiêu ngắn hạn này cũng là cơ sở để đánh giá kết quả làm
việc của người bán hàng (Roman & Munuera, 2005; Chen & Mau, 2009).
7
Doanh nghiệp thường muốn nguồn thu của doanh nghiệp tăng cao, do đó, họ
cũng thường đưa ra các mục tiêu với tính thách thức rất cao.
Ngoài việc đặt ra các mục tiêu, doanh nghiệp cũng thường tạo ra áp lực
buộc người bán hàng phải đạt được những kết quả kinh doanh, bằng cách áp
dụng các chính sách sa thải nếu người bán hàng không bán được hàng, hoặc tạo
ra môi trường làm việc thúc ép việc bán hàng, đưa ra các chương trình đào tạo
bán hàng trong đó tập trung đào tạo các thủ thuật bán hàng nhiều hơn là đào tạo
đạo đức (ethics training) cho người bán hàng (Babin và cộng sự, 2000; Yi và
cộng sự, 2012). Điều này khiến cho người bán hàng cảm nhận về sức ép bán
hàng trong tổ chức, rằng tổ chức của họ rất quan tâm đến việc bán hàng và bán
được hàng là nhiệm vụ chính trong công việc của họ. Chính vì vậy, họ có thể
thực hiện USB chỉ nhằm để bán được hàng và giữ được công việc (Chen &
Mau, 2009), mà không cần biết sản phẩm đó có phù hợp với khách hàng hay
không (Babin và cộng sự, 2000; Yi và cộng sự, 2012).
Tại Việt Nam, một vài nghiên cứu gần đây cũng quan tâm đến áp lực công
việc (Thanh, 2016; Tran, 2020). Đơn cử như trong nghiên cứu của Thanh
(2016), thông qua việc phỏng vấn 42 người phụ nữ (đang giảng dạy và nghiên
cứu tại các tổ chức giáo dục), tác giả phát hiện được rằng khoảng cách quyền
lực và các quan hệ cấp bậc chính là những áp lực công việc mà phụ nữ thường
gặp phải. Trong khi đó, học giả Tran (2020) đã quan tâm đến những khác biệt
về áp lực công việc, định hướng công việc giữa các giới tính, độ tuổi và kinh
nghiệm làm việc (trong Nhà nước) của người lao động. Với mẫu khảo sát 294
cá nhân (lấy mẫu thuận tiện), tác giả kết luận rằng người Việt Nam có định
hướng công việc khá cao. Bên cạnh đó, gần như không có sự khác biệt về áp lực
công việc giữa các giới tính nữ và nam, và giữa những người có và không có
kinh nghiệm làm việc (trong Nhà nước), và giữa các độ tuổi (Tran, 2020). Tuy
nhiên, các nghiên cứu kể trên không đề cập đến những ảnh hưởng của các áp
lực công việc đối với USB của người bán hàng. Cũng theo Tran (2020), so với
người dân ở các nước phát triển, người dân ở các nước đang phát triển (ví dụ
8
như Việt Nam) thường đối mặt với nhiều áp lực hơn và họ cũng ít có khả năng
giải quyết những áp lực của mình. Trong khi đó, tại Việt Nam, số lượng các
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu về các áp lực công việc vẫn còn khiêm tốn (Tran,
2020), vì vậy, đây vẫn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu (Tran, 2020).
Như vậy, có thể thấy rằng các nghiên cứu trước đây đã tìm hiểu về những
tác động của các áp lực công việc đối với hành vi cá nhân. Tuy nhiên, trong các
nghiên cứu liên quan đến người bán hàng, những ảnh hưởng của các áp lực
công việc (gồm mâu thuẫn vai trò, tính thách thức của mục tiêu, và sức ép bán
hàng) đối với USB vẫn chưa được nhiều nghiên cứu đề cập (Chiu và cộng sự,
2015; Tarkiainen và cộng sự, 2016). Để làm rõ hơn những lập luận này, phần
tiếp theo sẽ trình bày tình hình nghiên cứu về sự ảnh hưởng áp lực công việc
đối với hành vi phi đạo đức (nói chung) và USB (nói riêng).
1.1.1.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực công việc đối với USB trên thế
giới và Việt Nam
Như đã đề cập ở trên, nhiều học giả đã bày tỏ sự quan ngại về những ảnh
hưởng của áp lực công việc, bởi yếu tố này được cho là tác nhân thúc đẩy hành
vi phi đạo đức, tuy nhiên, trong công việc bán hàng, người bán hàng thường
phải đối mặt với nhiều áp lực công việc (Jaramillo và cộng sự, 2011; Chiu và
cộng sự, 2015; Rostami và cộng sự, 2019). Đơn cử như công trình của Chiu và
cộng sự (2015) đã phát hiện được rằng các áp lực công việc gồm mâu thuẫn vai
trò, sự thiếu rõ ràng trong vai trò, và sự quá tải công việc có thể làm tăng những
hành vi phi đạo đức, như hành vi lấy cắp tài sản của người bán hàng (Chiu và
cộng sự, 2015). Tương tự, nghiên cứu của Rostami và cộng sự (2019) cũng phát
hiện sức ép thời gian là một áp lực công việc một mặt thúc đẩy sự nỗ lực và
hành vi sáng tạo, nhưng mặt khác cũng thúc đẩy những hành vi phi đạo đức của
người bán hàng.
Ngoài các áp lực công việc, các nhân tố tâm lý cá nhân, ví dụ như thái độ
đạo đức (Yi và cộng sự, 2012), sự chối bỏ đạo đức (Seriki và cộng sự, 2020), sự
lo âu (Fida và cộng sự, 2015; Baumeister & Vohs, 2016), sự suy kiệt nguồn lực tự
9
kiểm (Welsh & Ordonez, 2014; Wang và cộng sự, 2017) cũng được phát hiện có
liên quan đến hành vi phi đạo đức. Theo đó, bên cạnh những nghiên cứu chỉ tìm
hiểu về những nối kết trực tiếp của các áp lực công việc và hành vi phi đạo đức
(Chiu và cộng sự, 2015; Rostami và cộng sự, 2019), hoặc những nối kết trực tiếp
giữa các nhân tố tâm lý và hành vi phi đạo đức (Barsky, 2011), các nghiên cứu khác
đã dần quan tâm đến những nối kết giữa các áp lực công việc, các nhân tố tâm lý và
hành vi cá nhân thông qua việc phân tích vai trò trung gian của các nhân tố tâm lý
cá nhân (Yi và cộng sự, 2012; Seriki và cộng sự, 2020).
Với mong muốn lý giải sự tác động của các áp lực công việc đối với hành
vi cá nhân thông qua các trung gian tâm lý cá nhân, một số học thuyết đã được
phát triển, ví dụ như thuyết bảo tồn nguồn lực (Conservation of resources
theory) (COR) (Hobfoll và cộng sự, 1989, 2016), và thuyết nguồn lực- yêu cầu
công việc (Job demands-resources theory) (JD-R) (Bakker và Demerouti, 2017),
và thuyết nhận thức xã hội (Social cognitive theory) (SCT) (Bandura, 2002). Tuy
nhiên, theo những lược khảo của McClaren (2015) và Ameer và Halinen
(2019), những nghiên cứu về hành vi phi đạo đức của người bán hàng vẫn chỉ
tập trung ở một số ít các lý thuyết. Điển hình như Yi và cộng sự (2012) đã dựa
trên thuyết tổng quát về đạo đức marketing (Hunt & Vitell, 1986) để phát triển
mô hình về sự tác động của môi trường làm việc đạo đức, mức độ cạnh tranh
trong ngành, sức ép bán hàng, sự phức tạp và đa dạng của sản phẩm, thái độ đạo
đức đối với USB. Trong khi đó, Welsh và cộng sự (2019) đã vận dụng thuyết
thiết lập mục tiêu (Locke & Latham, 1990) để tìm hiểu về những tác động của
các mục tiêu công việc đối với các hành vi phi đạo đức của người lao động
(trong đó có người bán hàng). Ngay cả nghiên cứu gần đây của Seriki và cộng
sự (2020) vẫn dựa trên thuyết hợp lý hóa (Kunda, 1990) để tìm hiểu về các hành
vi phi đạo đức của người bán hàng (vui lòng tham khảo thêm bảng 2.1 và phụ
lục 1). Chính vì lẽ đó, các học giả đã khuyến khích các nghiên cứu cần dựa trên
những lý thuyết khác để có thể hiểu rõ hơn về hành vi này (McClaren, 2015;
Ameer & Halinen, 2019). Đây cũng là cơ hội để luận án vận dụng các thuyết
10
COR, thuyết JD-R, và thuyết SCT, để làm rõ vai trò trung gian của các nhân tố
tâm lý cá nhân, nhờ đó giải thích rõ hơn về những ảnh hưởng của áp lực công
việc đối với USB.
Đáng chú ý, trong các nhân tố tâm lý cá nhân, sự lo âu và sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm là những yếu tố rất đáng quan tâm, bởi các yếu tố này không chỉ phản
ánh những căng thẳng của cá nhân trong công việc (McCarthy và cộng sự, 2016),
mà còn được phát hiện có liên quan đến hành vi phi đạo đức (Kouchaki & Desai,
2015; Zhang và cộng sự, 2020). Bên cạnh đó, sự bào chữa, một yếu tố phản ánh
cách mà cá nhân tìm ra các ý nghĩa đạo đức cho những hành vi sai trái của mình
(Bandura, 2002; Barsky, 2011), cũng được gợi ý có liên quan với các áp lực (Fida
và cộng sự, 2015), sự lo âu (Paciello và cộng sự, 2013; Fida và cộng sự, 2015), và
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (Huberts và cộng sự, 2014). Tuy nhiên, những nối kết
giữa sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa, và hành vi phi đạo đức
vẫn chưa được nhiều nghiên cứu tìm hiểu, chính vì vậy, bằng cách nào mà sự lo âu,
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có thể ảnh hưởng đến hành vi phi đạo đức vẫn đang
là vấn đề thu hút sự quan tâm của các học giả (Paciello và cộng sự, 2013; Huberts
và cộng sự, 2014; Zhang và cộng sự, 2020).
Như vậy, có thể thấy rằng, trong các nghiên cứu về đạo đức trong kinh
doanh bán hàng, việc tìm hiểu về những trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm, và sự bào chữa trong việc nối kết các áp lực công việc (mâu thuẫn
vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu) và USB vẫn chưa
được làm rõ trong các nghiên cứu trước. Trong khi đó, việc vận dụng các lý
thuyết khác để tìm hiểu về hành vi phi đạo đức đang được nhiều học giả khuyến
khích.
1.1.2 Về mặt thực tiễn
1.1.2.1 Khái quát ngành bảo hiểm nhân thọ (BHNT) tại Việt Nam
Được hình thành từ năm 1996, cho đến nay, BHNT là một trong số ít
những ngành có tốc độ tăng trưởng trên 20% trong suốt 5 năm qua, với tổng
doanh thu toàn ngành năm 2019 đã đạt hơn 106.640 tỷ đồng, tăng 23,75% so với
11
năm 2018. Tính đến cuối năm 2019, thị trường Việt Nam đã có đến 18 hãng
BHNT, trong đó, chỉ có Bảo Việt là hãng BHNT có vốn sở hữu hoàn toàn trong
nước, với thị phần trên tổng doanh thu khoảng 23,87%, thị phần còn lại thuộc
về các hãng có vốn góp nước ngoài gồm AIA, Manulife, Dai-ichi, Prudential,
Chubb, Map Life, Cathay, FWD, Hanwha, VCLI, Fubon, Generali, Aviva, Sun
Life, Phú Hưng, BIDV MetLife, MB Ageas (Cục Quản lý giám sát bảo hiểm,
2020).
Các hãng BHNT đã đa dạng các sản phẩm bảo hiểm, như bảo hiểm liên kết
đầu tư, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trọn đời. Song song đó, các hãng cũng phát
triển các kênh bán hàng, mở đại lý, liên kết với ngân hàng, với tổng số đại lý
trong ngành là 866.769 người (năm 2019), tăng 13,81% so với năm 2018.
Đi cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng, những vi phạm trong ngành cũng
không ngừng gia tăng trong những năm qua. Tính đến tháng 8/2019, có đến
8.000 đại lý BHNT có những sai phạm trong kinh doanh bảo hiểm (Nha Trang,
2019), với những sai phạm phổ biến như chiếm dụng tiền của khách, không
tuân thủ quy định của hãng bảo hiểm, tư vấn không đầy đủ, cung cấp thông tin
12
sai lệch. Mặc dù đã có những quy định nhằm kiểm soát các hoạt động bán hàng
trong ngành, ví dụ như luật số 24/2000/QH về kinh doanh bảo hiểm, hay nghị
định số 73/2016/NĐ-CP, tuy nhiên, do các quy định pháp lý chưa theo kịp với
xu hướng phát triển của ngành, trong khi đó, các hãng bảo hiểm cũng không
ngừng phát triển các kênh bán hàng và số lượng đại lý, nên việc giám sát các
hoạt động kinh doanh bán hàng trong ngành rất khó khăn (Nha Trang, 2019),
cũng vì thế, khách hàng có thể đối mặt với nhiều bất lợi nếu họ không có
chuyên môn và không được tư vấn đầy đủ (Hiệp, 2020).
1.1.2.2 Sự cần thiết nghiên cứu về USB trong ngành BHNT
Trong nhiều ngành kinh doanh, BHNT là ngành mà nhiều học giả quan
ngại, với những minh chứng cho thấy USB trong ngành này vẫn diễn ra ở nhiều
nơi trên thế giới, như Mỹ (Cupach & Carson, 2002), Hàn Quốc (Yi và cộng sự,
2012), Đài Loan (Cheng và cộng sự, 2014). Do đặc thù của ngành BHNT là một
ngành dịch vụ, với các sản phẩm dịch vụ vô hình, hành vi bán hàng của người
bán hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cảm nhận của khách hàng (Yi và cộng sự,
2012). Khác biệt hơn so với những ngành khác, các hợp đồng bảo hiểm trong
ngành này thường có tính chất dài hạn, và khách hàng rất khó để biết được liệu
sau khi mua các dịch vụ bảo hiểm, họ có được thụ hưởng những quyền lợi như
trên hợp đồng hay không, do đó, khách hàng phải đối mặt với sự không chắc
chắn (Chen & Mau, 2009). Thêm vào đó, những từ ngữ trong các hợp đồng
thường rất phức tạp và khó hiểu (Yi và cộng sự, 2012), nếu người bán hàng
không giải thích rõ hoặc che giấu thông tin với khách hàng, thì khách hàng có
thể lựa chọn những sản phẩm không phù hợp với họ.
Liên quan đến USB trong ngành này, có thể kể đến nghiên cứu của
Cupach và Carson (2002), Yi và cộng sự (2012), và Cheng và cộng sự (2014)
(vui lòng tham khảo phụ lục 1). Cụ thể, Cupach và Carson (2002) đã thực hiện
nghiên cứu tại Mỹ nhằm phân tích những ảnh hưởng của hoa hồng (gắn liền với
doanh số bán sản phẩm bảo hiểm) đối với hành vi tư vấn bảo hiểm. Thông qua
việc khảo sát 336 đại lý bảo hiểm, nghiên cứu phát hiện được rằng mức hoa
13
hồng gần như không ảnh hưởng gì đến hành vi tư vấn bảo hiểm. Tuy nhiên, do
chỉ tập trung vào hoa hồng, nên nghiên cứu này không xem xét tác động của các
áp lực công việc. Trong khi đó, một nghiên cứu khác của Yi và cộng sự (2012)
đã được thực hiện tại Hàn Quốc nhằm tìm hiểu về USB của những người tư vấn
BHNT qua điện thoại. Với mẫu 204 người, các tác giả phát hiện được rằng môi
trường làm việc đạo đức, đào tạo đạo đức trong tổ chức, mức độ cạnh tranh
trong ngành, sức ép bán hàng, và thái độ đạo đức của cá nhân là những tác nhân
ảnh hưởng đến USB. Mặc dù có quan tâm đến sức ép bán hàng, tuy nhiên,
nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012) không đề cập đến những trung gian như
sự lo âu, và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Tương tự, Cheng và cộng sự (2014)
đã thực hiện nghiên cứu tại Đài Loan nhằm phân tích về những liên hệ giữa độ
tuổi và số năm kinh nghiệm của người bán hàng, vị trí địa lý và quy mô của
công ty đối với USB. Với mẫu nghiên cứu 957 người bán hàng, nghiên cứu phát
hiện được rằng ở nhóm tuổi trên 60, độ tuổi có tác động đến USB mạnh hơn so
với các nhóm tuổi 20-30, 30-40, và 40-50, trong khi đó, với nhóm người có
kinh nghiệm từ 6-10 năm, số năm kinh nghiệm sẽ có tác động đến USB mạnh
hơn so với nhóm người có kinh nghiệm từ 1-5 năm. Bên cạnh đó, những công
ty có quy mô lớn thì USB càng gia tăng ở những đại lý lâu năm, và những
người bán hàng ở khu vực phía Nam sẽ có xu hướng thực hiện USB nhiều hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng không đề cập đến những ảnh hưởng của các áp
lực công việc đối với USB.
Với sự khác biệt về văn hóa, xã hội, những nghiên cứu ở các quốc gia
khác nhau có thể mang lại những kết quả khác nhau (Cheng và cộng sự, 2014),
do đó, bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam có thể mang lại những kết quả khác
biệt. Với mẫu nghiên cứu là những người đang tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ
BHNT (của các hãng BHNT đang hoạt động tại Việt Nam), luận án góp phần
tìm hiểu về USB trong ngành dịch vụ này tại Việt Nam, qua đó, kết quả của
luận án có thể là cơ sở để đưa ra các hàm ý quản trị cho các hãng BHNT tại
Việt Nam.
14
1.1.3 Những khoảng trống nghiên cứu
Từ những tìm hiểu về bối cảnh nghiên cứu, luận án kỳ vọng lấp vào những
khoảng trống như sau:
- Trong nhiều tác nhân ảnh hưởng đến hành vi phi đạo đức, các áp lực công
việc là những tác nhân rất đáng quan tâm (Chiu và cộng sự, 2015; Tarkiainen và
cộng sự, 2016). Riêng đối với công việc bán hàng, mâu thuẫn vai trò, tính thách
thức của mục tiêu, và sức ép bán hàng là những áp lực công việc rất thường trực
mà người bán hàng phải đối mặt (Radin & Predmore, 2002; Roman & Munuera,
2005; Chen & Mau, 2009; Jaramillo và cộng sự, 2011; Yi và cộng sự, 2012;
Munoz & Mallin, 2019). Mặc dù đã có một số nghiên cứu tìm hiểu về USB
(Roman & Munuera, 2005; Cheng và cộng sự, 2014), tuy nhiên, vẫn chưa có
nhiều nghiên cứu phân tích những nối kết giữa các áp lực công việc và USB
(Tarkiainen và cộng sự, 2016). Luận án lấp vào khoảng trống này bằng việc nghiên
cứu về sự ảnh hưởng của các áp lực công việc (gồm mâu thuẫn vai trò, tính thách
thức của mục tiêu, và sức ép bán hàng) đối với USB, theo đó, luận án đã phát triển
mô hình về những nối kết trực tiếp và gián tiếp của mâu thuẫn vai trò, tính thách
thức của mục tiêu, và sức ép bán hàng đối với USB, và thực hiện khảo sát những
người tư vấn bán BHNT để phân tích những ảnh hưởng này.
- Mặc dù một số trung gian đã được tìm hiểu, tuy nhiên, rất ít nghiên cứu quan
tâm giải thích các áp lực công việc đã dẫn đến những căng thẳng (ví dụ như sự lo
âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm) như thế nào, những căng thẳng này đã tác động
đến nhận thức của cá nhân (ví dụ như sự bào chữa) như thế nào, và nhận thức này
đã ảnh hưởng như thế nào đến USB. Lấp vào khoảng trống này, luận án tập trung
khám phá vai trò chuỗi trung gian (serial mediation) của sự lo âu, sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm, và sự bào chữa, theo đó, luận án làm rõ sự lo âu, sự bào chữa và sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm đã trung gian một phần và bổ sung vào những nối kết giữa
mâu thuẫn vai trò, tính thách thức của mục tiêu, sức ép bán hàng và USB. Với khám
phá này, luận án góp phần giải thích các áp lực công việc (mâu thuẫn vai trò, sức ép
bán hàng, tính thách thức của mục tiêu) đã gây nên những căng thẳng cho cá nhân
15
(sự lo âu, sự bào chữa và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm), từ đó, làm tăng sự bào
chữa, và dẫn đến USB của cá nhân.
- Việc tìm hiểu về các hành vi phi đạo đức của người bán hàng vẫn còn tập
trung ở một số ít lý thuyết (McClaren, 2015; Ameer & Halinen, 2019), như thuyết
tổng quát về đạo đức marketing (Hunt & Vitell, 1986), thuyết thiết lập mục tiêu
(Locke & Latham, 1990), thuyết hợp lý hóa (Kunda, 1990). Chính vì vậy, các
học giả Ameer & Halinen (2019, trang 1) đã nhấn mạnh rằng cần vận dụng nhiều lý
thuyết khác để có thể có thêm những hiểu biết về hành vi này. Đây cũng là cơ hội
để luận án vận dụng các thuyết COR, thuyết JD-R, và thuyết SCT để đưa ra mô
hình giả định rằng các áp lực công việc (gồm mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng,
tính thách thức của mục tiêu) sẽ dẫn đến những căng thẳng cho cá nhân (gồm sự lo
âu, sự bào chữa và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm), từ đó, dẫn đến sự bào chữa và
USB của cá nhân. Việc vận dụng các thuyết này không chỉ giúp luận án tìm hiểu
thêm về các tác nhân của USB, mà còn giúp luận án đưa ra một góc nhìn khác về
USB, theo đó, USB là cách mà người bán hàng đối phó với những áp lực và căng
thẳng trong công việc nhằm bảo tồn các nguồn lực của mình. Khác với các nghiên
cứu trước đã tiếp cận USB với giả định rằng người bán hàng đã nhận thức được
các vấn đề đạo đức, tức là họ đã dành các nguồn lực nhận thức của mình để
phân tích các thách thức đạo đức và cân nhắc về hành vi, nhưng họ vẫn có thể
thực hiện USB vì họ nhận thấy hành vi này mang lại nhiều lợi ích hơn là thiệt
hại (Abratt & Penman, 2002; Cupach & Carson, 2002; Tseng, 2019), luận án
này tiếp cận USB với giả định rằng người bán hàng đã thực hiện USB vì họ đã
không dành các nguồn lực của mình để nhìn nhận và phân tích các vấn đề đạo
đức, đơn giản là bởi họ muốn bảo tồn các nguồn lực của mình, và tập trung các
nguồn lực của mình để đối phó với những căng thẳng công việc. Do họ không
tiêu hao các nguồn lực để phân tích các vấn đề đạo đức, họ đã không nhận thấy
những khía cạnh phi đạo đức (có thể có) trong hành vi bán hàng của mình, do
đó, họ có thể thực hiện USB chỉ nhằm đối phó với những áp lực công việc và
căng thẳng.
16
-Những vấn đề liên quan đến đạo đức trong bán hàng tại Việt Nam chưa được
nhiều nghiên cứu quan tâm (Pham và cộng sự, 2015). Trong khi đó, với những khác
biệt về bối cảnh nghiên cứu, việc tìm hiểu về USB tại Việt Nam có thể có những kết
quả khác biệt. Hơn nữa, không ít học giả đã quan ngại rằng ngành BHNT tại nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam, đang đối mặt với các thách thức đạo đức (Cupach
& Carson, 2002; Yi và cộng sự, 2012; Hiệp, 2020). Chính vì vậy, luận án thực hiện
đề tài Nghiên cứu sự ảnh hưởng của các áp lực công việc đối với USB: trường hợp
ngành BHNT tại Việt Nam. Thông qua việc phỏng vấn, cùng với việc khảo sát
những người tư vấn bán BHNT tại Việt Nam để kiểm định mô hình, luận án kỳ
vọng có thể đóng góp thêm sự hiểu biết về USB tại quốc gia này.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận án này là nhằm phân tích những ảnh hưởng của
các áp lực công việc đối với hành vi bán hàng phi đạo đức trường hợp ngành
BHNT tại Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu tổng quát trên, luận án xác định các mục tiêu cụ thể như sau:
(1) Đề xuất và phân tích mô hình về những ảnh hưởng của các áp lực
công việc (gồm mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức
của mục tiêu) đối với USB.
(2) Khám phá chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
và sự bào chữa trong việc nối kết mâu thuẫn vai trò, sức ép bán
hàng, tính thách thức của mục tiêu và USB.
(3) Đưa ra hàm ý quản trị cho các nhà quản lý trong ngành BHNT.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Với những mục tiêu nghiên cứu như trên, luận án trả lời những câu hỏi sau:
(1) Mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục
tiêu ảnh hưởng đến USB như thế nào?
(2) Sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa đóng vai trò
17
trung gian như thế nào trong việc nối kết giữa mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu và USB?
(3) Hàm ý quản trị nào có thể được đưa ra từ kết quả nghiên cứu?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: những ảnh hưởng của các áp lực công việc (gồm mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu) đối với USB.
Đối tượng khảo sát: những người tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của
các hãng BHNT đang hoạt động tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian nghiên cứu: tại Việt Nam
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2018 đến năm 2020.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng (Robert
và cộng sự, 2011). Theo Robert và cộng sự (2011), do mỗi phương pháp có
những lợi thế khác nhau, nên việc sử dụng cả hai phương pháp này có thể bổ
sung cho nhau. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực marketing, số
lượng nghiên cứu áp dụng cả hai phương pháp này vẫn còn rất khiêm tốn
(Robert và cộng sự, 2011). Do đó, luận án sử dụng phương pháp định tính trong
bước 1 và bước 2, với những việc cụ thể như nghiên cứu lý thuyết, phỏng vấn các
nhóm đối tượng gồm (1) những người tư vấn bán BHNT, (2) các giảng viên (người
nghiên cứu), (3) những người khách hàng mua BHNT, và phân tích nội dung định
tính. Bên cạnh đó, luận án cũng áp dụng phương pháp định lượng trong các
nghiên cứu sơ bộ và chính thức (bước 2 và bước 3). Theo Ameer và Halinen
(2019), phương pháp định lượng rất phổ biến trong các nghiên cứu về hành vi phi
đạo đức của người bán hàng. Hơn nữa, khảo sát người bán hàng là cách thu thập
dữ liệu phổ biến nhất trong các nghiên cứu về đạo đức của người bán hàng
(McClaren, 2015). Như vậy, với hai phương pháp này, luận án thực hiện quy
trình nghiên cứu gồm ba bước như sau:
Bước 1: Nghiên cứu tổng quan lý thuyết và các tài liệu liên quan nhằm xác
18
định khoảng trống học thuật, và đề xuất mô hình nghiên cứu.
Bước 2: Phỏng vấn và phân tích nội dung định tính được thực hiện nhằm
hiểu rõ hơn các khái niệm và tìm kiếm thang đo phù hợp để hình thành bản
khảo sát sơ bộ. Từ đó, nghiên cứu sơ bộ được thực hiện nhằm đánh giá thang
đo. Do đây là nghiên cứu sơ bộ, nên việc khảo sát và lấy mẫu thuận tiện sẽ được
thực hiện nhằm thu thập dữ liệu. Lấy mẫu thuận tiện cũng là cách lấy mẫu phổ biến
nhất trong các nghiên cứu về đạo đức của người bán hàng (McClaren, 2015). Mô
hình PLS-SEM với phần mềm SmartPLS cũng được vận dụng để đánh giá
thang đo dựa trên Cronbach’s alpha, phương sai trích (AVE) và hệ số tải (outer
loading) (OL).
Bước 3: Thực hiện nghiên cứu chính thức nhằm kiểm định mô hình. Trong
khi lấy mẫu hạn ngạch là cách có thể cải thiện tính đại diện của mẫu trong
những trường hợp việc tiếp cận mẫu bị hạn chế (Rubin và cộng sự, 2005; Górny
& Napierała, 2015; Sarstedt và cộng sự, 2017), thì lấy mẫu thuận tiện là cách lấy
mẫu được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu liên quan đến đạo đức của
người bán hàng (McClaren, 2015). Do đó, để có thể đảm bảo tính đại diện của
mẫu, ở bước này, luận án thu thập mẫu bằng lấy mẫu có hạn ngạch và thuận
tiện. Trong ngành BHNT, hiện chưa có thống kê chính thức nào về các đặc
điểm nhân khẩu (như giới tính, vùng miền) của người tư vấn bán BHNT, chính
vì vậy, việc tiếp cận mẫu rất khó khăn. Do đó, luận án dựa trên thị phần của
hãng BHNT có vốn đầu tư hoàn toàn trong nước để xác định mẫu cần thu thập.
Với 18 hãng BHNT đang hoạt động tại Việt Nam, duy nhất chỉ có Bảo Việt có
vốn đầu tư hoàn toàn trong nước với thị phần khoảng 23,87% vào năm 2019.
Dựa trên con số này, tác giả chọn mẫu là người tư vấn bán BHNT của Bảo Việt sao
cho chiếm khoảng 23% tổng mẫu, còn lại sẽ là người tư vấn bán BHNT của các
hãng khác.
1.6 Những đóng góp mới của luận án
Về mặt học thuật
Thứ nhất, luận án đưa ra mô hình chuỗi trung gian (serial mediation model)
19
nối kết các áp lực công việc (mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức
của mục tiêu) và USB, qua đó, khám phá vai trò chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa. Thông qua việc vận dụng thuyết COR, JD-
R và SCT, luận án đưa ra góc nhìn khác về USB, không như các nghiên cứu trước
tiếp cận USB với giả định rằng người bán hàng đã dành các nguồn lực cá nhân để
nhận thức các vấn đề đạo đức và cân nhắc hành vi (Cupach & Carson, 2002; Tseng
và cộng sự, 2016), luận án này giả định rằng người bán hàng đã không dành các
nguồn lực để nhận thức các vấn đề đạo đức và cân nhắc hành vi, và họ thực hiện
USB như là hành vi đối phó nhằm bảo tồn các nguồn lực của cá nhân.
Thứ hai, luận án đã tìm hiểu về USB trong bối cảnh ngành BHNT, một
ngành dịch vụ với sản phẩm vô hình đang đối mặt với nhiều thách thức đạo đức
trong bán hàng.
Về mặt thực tiễn
Thứ ba, luận án góp phần làm rõ những cách hiểu về các khái niệm nghiên
cứu trong bối cảnh ngành BHNT tại Việt Nam.
1.7 Bố cục luận án
Nội dung của luận án được trình bày theo năm chương như sau:
Chương 1: Tổng quan
Phần này tập trung trình bày bối cảnh nghiên cứu, để từ đó làm rõ đối
tượng và mục tiêu nghiên cứu. Đồng thời, chương này cũng trình bày tổng quan
về bố cục của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Bằng việc trình bày về thuyết COR, thuyết JD-R, và thuyết SCT, và lược
khảo các nghiên cứu liên quan đến USB, chương này tập trung vào việc đề xuất
mô hình, trình bày các khái niệm, lập luận và đề xuất các giả thuyết.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương này lập luận những lý do lựa chọn phương pháp nghiên cứu, và
trình bày các bước thực hiện nghiên cứu. Theo đó, phương pháp định tính và
định lượng được diễn giải chi tiết với những bước như phỏng vấn, phân tích nội
20
dung định tính, tìm kiếm thang đo và hình thành bản khảo sát sơ bộ, thực hiện
nghiên cứu sơ bộ, hình thành bản khảo sát chính thức và thực hiện nghiên cứu
chính thức.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương này tập trung vào việc diễn giải các kết quả trong nghiên cứu
chính thức, với những bước như đánh giá thang đo (chính thức), và kiểm định
giả thuyết. Từ đó, kết quả cũng được thảo luận để làm rõ hơn những nối kết giữa
các khái niệm trong mô hình.
Chương 5: Kết luận và hàm ý quản trị
Nội dung của chương này tập trung vào việc trình bày lại kết quả nghiên
cứu, để từ đó đề xuất các hàm ý quản trị. Bên cạnh đó, chương này cũng xác
định những hạn chế trong nghiên cứu và gợi ý cho các nghiên cứu tương lai.
21
CHƯƠNG 2- CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Nội dung chương này trình bày về những định nghĩa về đạo đức, đạo đức kinh
doanh, hành vi phi đạo đức, và các khái niệm trong mô hình gồm mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu, sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự
kiểm, sự bào chữa và USB. Bên cạnh đó, chương này cũng trình bày khái quát các
thuyết COR, thuyết JD-R, và thuyết SCT. Dựa trên giải định của các lý thuyết và
dẫn giải các nghiên cứu liên quan, luận án lập luận để đưa ra các giả thuyết và đề
xuất mô hình.
2.1 Khái niệm về hành vi bán hàng phi đạo đức (USB)
Trước khi tìm hiểu khái niệm về USB, luận án sẽ trình bày sơ lược về khái
niệm đạo đức, đạo đức kinh doanh, và hành vi đạo đức/phi đạo đức.
2.1.1 Đạo đức
Cụm từ đạo đức (ethics) liên quan đến một mô hình chung, hay một cách sống,
hay một bộ quy tắc ứng xử hay quy tắc đạo đức (Lewis, 1985). Hiểu một cách tổng
quát nhất, đạo đức là chuẩn mực để đánh giá hành vi của một người là đúng hay sai
với người khác (Chen & Mau, 2009).
Đạo đức và phi đạo đức thường được hiểu như là sự đối lập của nhau
(Agnihotri và cộng sự, 2012; Roman & Munuera, 2005). Từ đó, việc phân định
hành vi đạo đức hay phi đạo đức là dựa vào việc đánh giá hành vi đó đúng hay sai,
công bằng hay không công bằng, tốt hay xấu (Hunt & Vitell, 1986; Chen & Mau,
2009).
2.1.2 Đạo đức kinh doanh
Thuật ngữ đạo đức kinh doanh (business ethics) thường được hiểu là các
nguyên tắc hay những chuẩn mực nhằm quản lý các cá nhân, hoặc có thể hiểu là
những gì đúng hoặc sai trong những tình huống nhất định, hoặc những gì là xấu
hoặc tốt, hoặc những gì là hợp pháp (Lewis, 1985, trang 380), hoặc cũng có thể
hiểu là những quy tắc đạo đức, những chuẩn mực, hoặc những nguyên tắc nhằm
hướng dẫn hành vi đúng và trung thực trong những tình huống nhất định
(Lewis, 1985, trang 382).
22
Hiểu một cách tổng quát, đạo đức kinh doanh là những giá trị, chuẩn mực,
và những nguyên tắc hay những tiêu chuẩn ứng xử mà tổ chức dựa vào đó để
đưa ra quyết định, và khách hàng có thể dựa vào đó để đánh giá những quyết
định này là đúng hay sai (Ferrell và cộng sự, 2019).
2.1.3 Hành vi phi đạo đức
Thuật ngữ hành vi phi đạo đức (unethical behavior) có thể được hiểu là những
hành vi bất hợp pháp hoặc không được chấp nhận về mặt đạo đức trong một xã hội
nhất định (Barsky, 2008, trang 65), những hành vi vi phạm các nguyên tắc đạo
đức (Wang và cộng sự, 2017, trang 188), hoặc những hành vi ích kỷ nhằm có
lợi cho người thực hiện hành vi (Munoz & Mallin, 2019), và có thể gây hại cho
người khác (Gino, 2015).
Một số dạng hành vi phi đạo đức có thể kể đến như lấy cắp tài sản (Chiu
và cộng sự, 2015), hành vi vượt rào bỏ qua những quy định trong tổ chức, hoặc
báo cáo sai, hoặc thông tin sai lệch cho khách hàng (Barsky, 2011; Fida và cộng
sự, 2015; Rostami và cộng sự, 2019).
2.1.4 Hành vi bán hàng phi đạo đức (USB)
Với vai trò là người kết nối khách hàng và doanh nghiệp, người bán hàng
được ví như người tạo dựng nên hình ảnh cho doanh nghiệp và mang lại giá trị
cho khách hàng (Roman & Ruiz, 2005). Chính vì vậy, hành vi bán hàng của họ
có ý nghĩa rất lớn đối với cả doanh nghiệp và khách hàng. Nhiều nghiên cứu
cho thấy, hành vi bán hàng đạo đức không chỉ thúc đẩy sự tin tưởng và sự hài
lòng của khách hàng đối với người bán hàng, mà còn thúc đẩy sự tin tưởng và
sự cam kết của khách hàng đối với doanh nghiệp, từ đó làm tăng lòng trung
thành của khách hàng (Chen & Mau, 2009). Ngược lại, USB có thể dẫn đến sự
kém hài lòng của khách hàng đối với doanh nghiệp (Cheng cộng sự, 2014). Tuy
nhiên, việc quản lý hay giám sát hành vi bán hàng là rất khó khăn, bởi người
bán hàng thường thực hiện công việc bán hàng bên ngoài tổ chức (Chen & Mau,
2009). Nhiều vụ việc thực tế cũng ghi nhận một số người bán hàng đã thực hiện
USB, dẫn đến những hệ lụy cho cả doanh nghiệp và khách hàng (Roman &
23
Munuera, 2005; Seriki và cộng sự, 2020).
Trong các hoạt động thương mại, USB (unethical selling behavior) được
hiểu là những hành vi nhằm làm lợi cho người bán hàng và có thể bất lợi cho
khách hàng (Munoz & Mallin, 2019; Roman & Munuera, 2005; Chen & Mau,
2009), hoặc những hành vi trái với quy định pháp luật và quy tắc đạo đức trong
bán hàng (Cheng và cộng sự, 2014).
Khái niệm USB ở đây khác với khái niệm hành vi phi đạo đức vì tổ chức
(UPB) (unethical pro-organizational behavior). Cụ thể, UPB được hiểu là hành
vi nhằm thúc đẩy hoạt động hiệu quả của tổ chức nhưng lại vi phạm các giá trị
xã hội hay quy định của pháp luật (Tang và cộng sự, 2020; Sheedy và cộng sự,
2020). Cách hiểu này cho thấy UPB cũng là một dạng hành vi phi đạo đức,
nhưng mục đích của người thực hiện UPB chính là để thúc đẩy hoạt động hiệu
quả của tổ chức, qua đó, có thể gián tiếp có lợi cho người bán hàng, ví dụ như
tiền thưởng và thăng tiến (Sheedy và cộng sự, 2020). Trong khi đó, khái niệm
về USB cho thấy rằng người thực hiện USB nhằm để làm lợi cho họ, ở đây
chính là người bán hàng, nhưng có thể dẫn đến những bất lợi cho khách hàng.
Trong nghiên cứu về những người bán hàng trong ngành BHNT, Cheng và
cộng sự (2014) cho rằng phần lớn những hành vi phi đạo đức của người bán
hàng trong ngành BHNT xoay quanh việc cung cấp thông tin và cạnh tranh,
chính vì vậy, theo các tác giả, hành vi này được hiểu là những hành vi trái với
quy định pháp luật và quy tắc đạo đức trong bán hàng (Cheng và cộng sự,
2014), ví dụ như trong quá trình cung cấp một sản phẩm hoặc hoàn thành một
quy trình dịch vụ, người bán hàng đã hành xử theo cách trái với các tiêu chuẩn
đạo đức đã được thiết lập, ví dụ như họ trình bày sai về sản phẩm dịch vụ trong
tiếp thị, quảng cáo, và bán hàng (Cheng và cộng sự, 2014, trang 3).
Dựa vào định nghĩa của mình, Cheng và cộng sự (2014) đã xác định những
hành vi phi đạo đức của người bán hàng gồm những hành vi như:
- Mô tả không chính xác hoặc che giấu thông tin của sản phẩm dịch vụ
trong quá trình bán hàng phục vụ khách hàng.
24
- Không có khả năng xác định nhu cầu của khách hàng để cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ phù hợp.
- Thiếu khái niệm, kiến thức hoặc kỹ năng để thực hiện trách nhiệm, dẫn
đến những khiếm khuyết trong công việc bán hàng.
- Không hoàn thành trách nhiệm do những mâu thuẫn lợi ích.
- Những hành vi sai trái khác gây ảnh hưởng đến uy tín của công ty.
Có thể thấy, Cheng và cộng sự (2014) đã tiếp cận về USB bằng cách dựa
vào những quy tắc đạo đức trong bán hàng hay những quy định pháp luật. Tuy
nhiên, cách tiếp cận của Cheng và cộng sự (2014) về USB có thể khá rộng.
Trong khi đó, luận án chỉ muốn tập trung vào những hành vi phi đạo đức mà
người bán hàng thực hiện đối với khách hàng. Lý do là mặc dù người bán hàng
có thể hành xử phi đạo đức với nhiều đối tượng như khách hàng, đối thủ hay
đồng nghiệp, nhưng khách hàng là đối tượng mà người bán hàng thường thực
hiện nhiều hành vi phi đạo đức hơn cả (Roman & Munuera, 2005).
Do đó, trong nghiên cứu của Roman và Ruiz (2005) về hành vi bán hàng
của những người bán hàng ngành bảo hiểm và tín dụng thế chấp, Roman và
Ruiz (2005) đã dựa trên quan điểm của khách hàng để định nghĩa USB là hành
vi mà người bán hàng thực hiện (trong ngắn hạn) để đạt được lợi ích cho người
bán hàng nhưng bất lợi cho khách hàng, ví dụ như hành vi nói dối hoặc nói quá
về tính năng hữu ích của sản phẩm (Roman & Ruiz, 2005, trang 440). Các học
giả Chen và Mau (2009) đã kế thừa định nghĩa này để hiểu về USB như là
những hành vi chỉ nhằm có lợi cho người bán hàng và có thể bất lợi cho khách
hàng (Chen & Mau, 2009, trang 61). Với cách tiếp cận này, Roman và Ruiz
(2005) đã phát triển thang đo về USB dựa trên quan điểm của người khách
hàng. Theo đó, USB bao gồm những hành vi như:
- Người bán hàng nói dối về tính năng sản phẩm để bán được hàng.
- Người bán hàng nói dối về sự cạnh tranh để bán được hàng.
- Người bán hàng đưa ra những câu trả lời ngay cả khi họ không biết rõ
câu trả lời.
25
- Người bán hàng cố gắng tạo sức ép đối với khách hàng để khách hàng
mua hàng ngay cả khi họ biết rằng sản phẩm đó không phù hợp với
khách hàng.
- Người bán hàng thêu dệt về sản phẩm để khiến cho sản phẩm hấp dẫn.
Trong một tác phẩm khác của Roman và Munuera (2005), các tác giả cho
rằng USB là sự đối lập của hành vi bán hàng đạo đức. Theo đó, các tác giả đã
đưa ra định nghĩa về hành vi bán hàng đạo đức như là những hành vi công bằng
và trung thực của người bán hàng đối với khách hàng. Dựa trên định nghĩa này,
Roman và Munuera (2005) đã đo lường hành vi bán hàng đạo đức bằng những
thang đo đảo ngược (dùng để đo lường USB).
Có thể thấy, những định nghĩa của các học giả Roman và Ruiz (2005),
Chen và Mau (2009), Roman và Munuera (2005) đã nhấn mạnh đến những
hành vi của người bán hàng trong quá trình tư vấn và đưa ra những khuyến nghị
mua hàng dành cho khách hàng, một trong những đối tượng chính tham gia vào
giao dịch bán hàng (Roman & Munuera, 2005). Chính vì vậy, trong luận án này,
USB được tiếp cận theo định nghĩa này. Theo đó, USB được hiểu là những
hành vi mà người bán hàng thực hiện để đạt được lợi ích cho người bán hàng
mà có thể bất lợi cho khách hàng (Roman và Ruiz, 2005; Roman & Munuera,
2005; Chen & Mau, 2009).
2.2 Ngành BHNT và những thách thức đạo đức
So với nhiều ngành khác, người bán hàng trong ngành BHNT thường phải đối
mặt với nhiều thách thức đạo đức, do những đặc thù trong công việc này. Cụ thể,
các hãng bảo hiểm thường dựa trên doanh số bán bảo hiểm để tính toán những
khen thưởng, hoa hồng cho người bán hàng (Cupach & Carson, 2002; Yi và
cộng sự, 2012; Tseng và cộng sự, 2016). Một mặt, việc áp dụng các phần
thưởng sẽ thúc đẩy người bán hàng nỗ lực bán hàng đạt doanh số cao hơn,
nhưng mặt khác, những phần thưởng này cũng có thể là tác nhân dẫn đến USB
(Tseng và cộng sự, 2016; Yi và cộng sự, 2012). Thậm chí, một số người bán
hàng có thể ưu tiên tư vấn những dịch vụ bảo hiểm có giá trị lớn để được hưởng
26
hoa hồng cao hơn, trong khi sự thật thì khách hàng không cần đến những dịch
vụ này (Cupach & Carson, 2002; Yi và cộng sự, 2012; Tseng và cộng sự, 2016).
Hành vi bán hàng trong việc bán sản phẩm dịch vụ (như ngành BHNT)
cũng khác với hành vi bán hàng trong việc bán sản phẩm hàng hóa (Yi và cộng
sự, 2012). Trong quá trình giao tiếp với khách hàng, khác với những người bán
sản phẩm hàng hóa thường thu hút khách hàng bằng cách nhấn mạnh những
tính năng hữu hình của sản phẩm, người bán sản phẩm dịch vụ thường tác động
đến cảm xúc của khách hàng để thu hút khách hàng, ví dụ như phóng đại sự
nghiêm trọng của một vấn đề nào đó khiến khách hàng lo lắng để khách hàng
cảm thấy họ cần mua sản phẩm dịch vụ (Yi và cộng sự, 2012).
Một điểm đáng lưu ý là những hợp đồng trong ngành BHNT thường là
những hợp đồng dài hạn, có thể kéo dài đến 5 hoặc 10 năm. Điều này có thể
gây nên những rủi ro cho khách hàng, bởi họ không chắc chắn được liệu hợp
đồng có được thực thi như những gì họ kỳ vọng không (Chen & Mau, 2009).
Bên cạnh đó, các thuật ngữ trong hợp đồng cũng rất khó hiểu đối với khách
hàng (Yi và cộng sự, 2012). Chính vì vậy, khách hàng thường dựa vào những tư
vấn của người bán hàng để đưa ra quyết định mua hàng, và do đó, khách hàng lệ
thuộc rất nhiều vào người bán hàng (Yi và cộng sự, 2012). Trong quá trình giao
tiếp tư vấn với khách hàng, nếu người bán hàng không tư vấn đầy đủ hay không
giải thích rõ ràng, khách hàng có thể đưa ra những quyết định mua hàng không
phù hợp. Những điều này cũng phản ánh rằng người bán hàng trong ngành
BHNT có nhiều cơ hội trong việc thực hiện các USB (Yi và cộng sự, 2012).
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về USB trong ngành BHNT là rất cần thiết.
2.3 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam và trên thế giới
Cùng với sự phát triển của các lý thuyết đạo đức, các nghiên cứu không chỉ tập
trung vào việc phân tích những kết quả (hoặc hậu quả) của hành vi bán hàng đạo
đức/ phi đạo đức (Roman & Munuera, 2005; Chen & Mau, 2009), mà còn tập trung
vào việc tìm kiếm những tác nhân tác động đến hành vi bán hàng đạo đức/ phi đạo
đức (Yi và cộng sự, 2012; Cheng và cộng sự, 2014; Yang và cộng sự, 2018; Seriki
27
và cộng sự, 2020), cũng như tìm hiểu thêm về những vấn đề liên quan đến đạo đức
của người bán hàng, ví dụ như ý định bán hàng phi đạo đức (Tseng và cộng sự,
2016; Tseng, 2019), hay sự bào chữa (Munoz & Mallin, 2019) (vui lòng tham khảo
thêm phụ lục 1). Với lý thuyết tổng quát về đạo đức marketing, Hunt và Vitell
(1986) đã đưa ra mô hình diễn giải về hành vi đạo đức của cá nhân. Theo mô
hình này, các yếu tố tổ chức (ví dụ như quy định trong tổ chức), đặc điểm cá
nhân (ví dụ như nhận thức đạo đức, niềm tin, sự nhạy cảm đạo đức), các yếu tố
môi trường tổng quát (ví dụ như hệ thống pháp luật, hệ thống chính trị), các yếu
tố thuộc môi trường ngành (ví dụ như quy định trong ngành) là những tác nhân
dẫn đến hành vi đạo đức/phi đạo đức. Trong một công trình của Ingram (2007),
tác giả cũng đề xuất một mô hình về nhận định đạo đức của người bán hàng.
Theo mô hình này, các yếu tố như môi trường đạo đức của tổ chức, phong cách
lãnh đạo, các chính sách kiểm soát bán hàng, và nhận thức đạo đức của người
bán hàng được giả định là những tác nhân ảnh hưởng đến nhận định đạo đức
của người bán hàng.
Các mô hình này đã tạo tiền đề cho nhiều nghiên cứu về USB tại nhiều
quốc gia khác nhau (vui lòng tham khảo thêm phụ lục 1, tác giả đã tổng hợp
những nghiên cứu tại nhiều quốc gia và nhiều ngành nghề khác nhau, bao gồm
cả những nghiên cứu trong ngành BHNT). Đơn cử như tại Mỹ, một công trình
gần đây của Schwepker (2019) đã góp phần phát hiện được rằng sự phù hợp
giữa cá nhân và tổ chức có những ảnh hưởng đáng kể thúc đẩy sự tin tưởng của
người bán hàng đối với người quản lý, sự cam kết của người bán hàng trong
việc mang lại những giá trị cho khách hàng và từ đó làm giảm ý định phi đạo
đức của người bán hàng. Trong một nghiên cứu khác của Yi và cộng sự (2012),
lấy bối cảnh ngành BHNT, các tác giả đã phát triển mô hình nối kết các yếu tố
như môi trường làm việc đạo đức, đào tạo đạo đức, sự phức tạp và sự đa dạng
của sản phẩm bảo hiểm, mức độ cạnh tranh trong ngành và USB thông qua vai
trò trung gian của thái độ đạo đức. Tương tự, cũng lấy bối cảnh ngành BHNT,
có thể kể đến nghiên cứu của Cupach & Carson (2002) được thực hiện tại Mỹ,
28
nghiên cứu của Tseng và cộng sự (2016) được thực hiện tại Đài Loan, và nghiên
cứu của Roman và Munuera (2005) được thực hiện tại Thụy Điển (vui lòng
tham khảo phụ lục 1).
Với trường hợp của Việt Nam, những vấn đề liên quan đến đạo đức trong
kinh doanh bán hàng cũng bắt đầu nhận được sự quan tâm của một số học giả
(Tuan, 2012; Tuan, 2015; Nhung, 2014; Pham và cộng sự, 2015). Cụ thể, học
giả Tuan (2015) đã phân tích sự ảnh hưởng của hành vi bán hàng đạo đức đối
với sự tin tưởng, sự cam kết và lòng trung thành của khách hàng. Tuy nhiên,
nghiên cứu này chỉ tập trung vào tìm hiểu những kết quả của hành vi bán hàng
đạo đức, nên đã bỏ qua việc tìm hiểu về các tác nhân ảnh hưởng đến USB.
Trong khi đó, học giả Nhung (2014) đã lấy bối cảnh ngành bảo hiểm tại Việt
Nam để tìm hiểu về hành vi trục lợi bảo hiểm, tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập
trung vào việc đưa ra những giải pháp, chứ không nhằm tìm hiểu những nối kết
giữa các áp lực công việc và USB. Theo Pham và cộng sự (2015), các nghiên
cứu về đạo đức trong kinh doanh tại Việt Nam vẫn còn ít, vì vậy, chủ đề USB
vẫn có thể tiếp tục được nghiên cứu trong bối cảnh ngành BHNT tại Việt Nam.
2.4 Các lý thuyết nền
Những lược khảo của các học giả Ameer và Halinen (2019) và lược khảo
của McClaren (2015) đã cùng phản ánh rằng các nghiên cứu về các vấn đề đạo
đức của người bán hàng vẫn chỉ tập trung ở một số ít lý thuyết, ví dụ như
nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012) đã vận dụng thuyết tổng quát về đạo đức
marketing (Hunt & Vitell, 1986) và mô hình đạo đức trong kinh doanh bán hàng
(Ferrell và cộng sự, 2007), trong khi đó, nghiên cứu của Seriki và cộng sự
(2020) vẫn tập trung vận dụng thuyết hợp lý hóa (Kunda, 1990) và thuyết SCT
(Bandura, 2002) (vui lòng tham khảo bảng 2.1). Chính vì vậy, các học giả này
đã khuyến khích việc vận dụng thêm những lý thuyết khác để tìm hiểu về những
vấn đề liên quan đến đạo đức của người bán hàng (McClaren, 2015; Ameer &
Halinen, 2019).
29
Bảng 2.1: Tổng hợp các nghiên cứu về USB
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
Barsky (2011)
Mô hình Thuyết SCT Thực hiện 2 nghiên Sự bào chữa Nghiên
được phát (Bandura, cứu. Nghiên cứu thứ và sự đổ lỗi cứu góp
triển với giả 2002) nhất đưa ra tình huống làm tăng hành phần kiểm
thuyết rằng bán hàng và thực hiện vi phi đạo định
sự chối bỏ khảo sát 164 sinh viên đức. Trong những ảnh
đạo đức tại Mỹ nhằm kiểm khi đó, sự hưởng trực
(gồm sự bào định những nối kết tham gia vào tiếp của sự
chữa và sự trực tiếp của sự bào việc ra quyết bào chữa
đổ lỗi) sẽ chữa, sự đổ lỗi đối với định càng lớn, và sự đổ
thúc đẩy hành vi phi đạo đức. thì tác động lỗi đối với
hành vi phi Nghiên cứu thứ hai: của sự bào hành vi phi
đạo đức, khảo sát 83 người học chữa đối với đạo đức.
trong khi đó, thạc sĩ kinh doanh hành vi phi Tuy nhiên,
sự tham gia nhằm kiểm định vai trò đạo đức càng nghiên cứu
vào việc ra điều tiết của sự tham giảm. Tuy không đề
quyết định sẽ gia vào việc ra quyết nhiên, sự cập các áp
điều tiết các định. Các khái niệm tham gia vào lực công
ảnh hưởng được đánh giá trên việc ra quyết việc.
nói trên. thang đo Likert 7 điểm, định không
cụ thể như sau: điều tiết ảnh
-Sự bào chữa: 4 phát hưởng của sự
biểu. đổ lỗi đối với
-Sự đổ lỗi: 4 phát biểu. hành vi phi
- Sự tham gia vào việc đạo đức.
30
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
ra quyết định: 3 phát
biểu.
- Hành vi phi đạo đức:
4 phát biểu.
Yi và cộng sự (2012)
Mô hình được Tổng hợp các Khảo sát người tư vấn Môi trường Nghiên
phát triển với thuyết tổng bán BHNT qua điện làm việc đạo cứu này đã
giả thuyết quát về đạo thoại ở 5 hãng bảo hiểm đức và đào gợi ý
rằng môi đức marketing lớn của Hàn Quốc, với tạo đạo đức, những nối
trường làm (Hunt & mẫu 204 người. Các và mức độ kết giữa
việc đạo đức, Vitell, 1986) khái niệm được đánh cạnh tranh sức ép bán
đào tạo đạo và mô hình giá trên thang đo Likert trong ngành hàng và
đức, và mức đạo đức trong 5 điểm, cụ thể như sau: đã làm suy USB.
độ cạnh tranh kinh doanh -Môi trường làm việc yếu thái độ Tuy nhiên,
trong ngành bán hàng đạo đức: 3 phát biểu. đạo đức của nghiên cứu
làm tăng thái (Ferrell và -Đào tạo đạo đức: 3 cá nhân, khi này chỉ tập
độ đạo đức, cộng sự, 2007) phát biểu. thái độ đạo trung phân
trong khi sức -Sức ép bán hàng: 3 đức của cá tích nối kết
ép bán hàng phát biểu. nhân càng suy trực tiếp
làm giảm thái -Mức độ cạnh tranh yếu thì xu giữa sức
độ đạo đức, trong ngành: 3 phát hướng thực ép bán
từ đó làm biểu. hiện USB của hàng và
tăng USB, và -Sự phức tạp của sản họ càng cao. thái độ đạo
sự phức tạp phẩm: 3 phát biểu. Trong khi đó, đức, và
và sự đa dạng -Sự đa dạng của sản sự phức tạp giữa thái
của sản phẩm phẩm: 3 phát biểu. và sự đa dạng độ đạo đức
31
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
làm tăng -Thái độ đạo đức: 3 của sản phẩm và USB,
USB. phát biểu. càng tăng thì do đó,
-USB: đo lường qua chỉ USB cũng không
số thực hiện quy trình càng tăng. phân tích
(trong suốt 3 tháng) của Tuy nhiên, nối kết
người bán hàng, với các ảnh hưởng trực tiếp và
hoạt động như: thông của sức ép gián tiếp
tin cho khách hàng về bán hàng đối giữa sức
sản phẩm và các điều với USB ép bán
khoản, hỏi về bệnh sử không được hàng và
của khách hàng, ký xác ủng hộ. USB.
nhận hợp đồng.
Tseng và cộng sự (2016)
Mô hình được Thuyết hành vi Bản khảo sát đưa ra tình Những sản Nghiên
phát triển với có kế hoạch huống đề nghị người phẩm bảo cứu góp
giả định hoa (The theory of bán hàng ra quyết định hiểm có hoa phần cung
hồng (dựa planned có (hoặc không) tư vấn hồng cao, và cấp minh
trên doanh số behavior) sản phẩm bảo hiểm định hướng chứng cho
bán bảo hiểm) (Ajzen,2005) (không phù hợp) cho bán hàng của sự tác
và định khách hàng. Với 420 hãng càng động của
hướng bán phiếu khảo sát được cao, thì hoa hồng
hàng của phát ra cho người bán người bán đối với
hãng bảo BHNT tại Đài Loan, hàng càng có thái độ và
hiểm sẽ ảnh cuối cùng, mẫu đạt 335. xu hướng tư ý định thực
hưởng đến vấn những hiện USB.
thái độ và ý sản phẩm này Tuy nhiên,
32
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
định của cho khách nghiên cứu
người bán hàng, dù biết này không
hàng đối với rằng sản đề cập đến
việc tư vấn phẩm không áp lực
sản phẩm bảo thực sự cần công việc.
hiểm (không thiết với
phù hợp) cho khách hàng,
khách hàng. và họ cho
rằng hành vi
này không
sai trái.
Roman và Munuera (2005)
Mô hình Thuyết kỳ Thực hiện phỏng vấn Nối kết giữa Nghiên
được phát vọng sâu với những người trình độ giáo cứu này đã
triển với giả (theory of bán hàng (mẫu thuận dục và hành góp phần
thuyết rằng identification) tiện) nhằm hiểu thêm vi bán hàng phát triển
phương pháp (Kelman, các khái niệm và hoàn đạo đức, và thang đo
trả thu nhập, 1958) thiện bản khảo sát. Sau nối kết giữa về USB.
hệ thống đó, bản khảo sát được hành vi bán Tuy nhiên,
kiểm soát, độ phát đến 280 người bán hàng đạo đức nghiên cứu
tuổi của hàng. Các thang đo cụ và kết quả không tập
người bán thể như sau: kinh doanh trung vào
hàng và trình -Phương pháp trả thu không được những ảnh
độ giáo dục nhập: đo lường bởi tỷ ủng hộ. hưởng của
quan hệ tích lệ lương cứng của năm Phương pháp các áp lực
cực với hành trước và năm hiện tại trả thu nhập công việc
33
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
-Hệ thống kiểm soát: với mức đối với vi bán hàng
đo lường trên thang đo lương cứng USB. đạo đức, từ
đó giảm mâu đa hướng, gồm 3 thang càng cao, hệ
thuẫn vai trò, đo về (1) tiêu chí đánh thống kiểm
tăng kết quả giá kết quả kinh soát càng
kinh doanh doanh, (2) định hướng, cao, độ tuổi
và sự hài và (3) sự hỗ trợ của càng cao thì
lòng với cấp trên. người bán
công việc. -Mâu thuẫn vai trò: 2 hàng càng có
phát biểu. xu hướng
-Kết quả kinh doanh: 4 thực hiện
phát biểu. hành vi bán
-Sự hài lòng: 3 phát hàng đạo
biểu. đức, từ đó,
- Hành vi bán hàng đạo họ càng ít
đức: 3 phát biểu (thang cảm nhận
đo đảo ngược). mâu thuẫn
vai trò và
càng hài lòng
với công
việc.
Yang và cộng sự (2018)
Mô hình Dựa trên Các đáp viên trả lời Sự phức tạp Nghiên
được phát thuyết tùy ý khảo sát trực tuyến và tính đột cứu góp
triển với giả (discretion mỗi ngày trong 15 xuất của phần phản
thuyết rằng theory) (Caza, ngày. Kết quả thu nhiệm vụ vừa ánh những
34
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
sự phức tạp 2012). được 798 bản trả lời từ thúc đẩy tác động
và tính đột 55 người tư vấn tài hành vi bán của các áp
chính tại Hồng Kông hàng linh lực công xuất của
và Đài Loan. hoạt vừa thúc việc đối nhiệm vụ
đẩy USB. với USB. làm tăng
Bên cạnh đó, Tuy nhiên, hành vi bán
sự kiểm soát nghiên cứu hàng linh
của khách không đề hoạt và USB.
hàng và sự tự cập đến Sự kiểm soát
kiểm cá nhân các trung của khách
điều tiết gian. hàng và sự tự
những ảnh kiểm cá nhân
hưởng này. điều tiết các
ảnh hưởng
nói trên.
Seriki và cộng sự (2020)
Mô hình giả Tổng hợp Tìm kiếm đáp viên Sự phức tạp Nghiên
định rằng sự thuyết hợp lý nhờ vào công ty dịch trong tổ chức cứu góp
chối bỏ đạo hóa (Kunda, vụ khảo sát online và trong môi phần
đức là trung 1990) và Qualtrics. Với mẫu 400 trường kinh khẳng định
gian nối kết thuyết SCT người bán hàng trong doanh đã làm vai trò
sự phức tạp (Bandura, ngành bảo hiểm và bất tăng sự chối trung gian
trong tổ 2002) động sản. Các khái bỏ đạo đức. của sự chối
chức, sự niệm được đánh giá trên Khi sự chối bỏ đạo
phức tạp thang đo Likert 7 điểm, bỏ đạo đức đức. Tuy
trong môi cụ thể như sau: càng cao, thì nhiên,
35
Mô hình Lý thuyết Phương pháp Kết quả Nhận xét nghiên cứu
trường kinh -Sự phức tạp trong tổ các hành vi nghiên cứu
doanh với chức: 5 phát biểu. phi đạo đức này đã
các hành vi -Sự phức tạp trong môi của người không đề
phi đạo đức trường kinh doanh: 4 bán hàng đối cập đến vai
của người phát biểu. với khách trò trung
bán hàng đối - Sự sự chối bỏ đạo hàng và đối gian một
với khách đức: 8 phát biểu. với tổ chức phần hay
hàng và tổ -Sự tự tin (trong bán càng cao. toàn phần
chức. Bên hàng): 4 phát biểu. Hình mẫu của sự chối
cạnh đó, hình -Hình mẫu đạo đức: 4 đạo đức điều bỏ đạo
mẫu đạo đức phát biểu. tiết làm giảm đức.
và sự tự tin -Nhận định về tổ chức: những ảnh
của người 4 phát biểu. hưởng nói
bán hàng - Hành vi phi đạo đức trên. Tuy
điều tiết làm đối với tổ chức: 7 phát nhiên, vai trò
giảm những biểu. điều tiết của
ảnh hưởng - Hành vi phi đạo đức sự tự tin
nói trên. đối với khách hàng: 4 không được
phát biểu. ủng hộ.
Nguồn: tác giả tổng hợp
Thống nhất với lược khảo của Ammeer và Halinen (2019), cũng như lược
khảo của McClaren (2015), phần lược khảo của luận án (vui lòng tham khảo
thêm bảng 2.1 và phụ lục 1) cũng chỉ tìm thấy nghiên cứu của Chiu và cộng sự
(2015) đã vận dụng thuyết COR để tìm hiểu về hành vi phi đạo đức. Tuy nhiên,
hành vi phi đạo đức trong nghiên cứu này chỉ đề cập đến những hành vi như lấy
cắp tài sản, mà không đề cập đến USB. Thêm vào đó, nghiên cứu của Chiu và
cộng sự (2015) chỉ kiểm định những ảnh hưởng trực tiếp của các áp lực công
36
việc (gồm mâu thuẫn vai trò, sự thiếu rõ ràng trong vai trò, và sự quá tải vai trò)
đối với hành vi phi đạo đức, nhưng không đề cập đến các trung gian.
Trong khi đó, các thuyết COR, thuyết JD-R và thuyết SCT là những thuyết có
thể diễn giải cho những ảnh hưởng của các áp lực công việc đối với những căng
thẳng và hành vi cá nhân. Chính vì vậy, luận án kỳ vọng việc vận dụng các thuyết
COR, JD-R và SCT sẽ góp phần lý giải về những ảnh hưởng của mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu đối với USB, và có thể giải thích
về chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa. Phần
tiếp theo sẽ trình bày về các lý thuyết này.
2.4.1 Thuyết bảo tồn nguồn lực (COR)
Thuyết COR (Hobfoll, 1989, 2002, 2016) được phát triển dựa trên giả định
cho rằng các cá nhân được thúc đẩy để bảo tồn nguồn lực hiện tại của họ và
phát triển nguồn lực mới. Trong đó, nguồn lực được hiểu là những gì mà cá
nhân cho là đáng giá với họ (ví dụ như lòng tự trọng, sức khỏe), hoặc có thể là
phương tiện giúp cá nhân đạt được những thứ khác mà họ cho là đáng giá (ví dụ
như tiền bạc). Có nhiều dạng nguồn lực, bao gồm điều kiện hoàn cảnh (ví dụ
như thâm niên, tình trạng hôn nhân, địa vị), hay những nguồn năng lượng (ví dụ
như sức khỏe), nguồn lực tâm lý (ví dụ như nhận thức, cảm xúc) (Hobfoll,
1988, 2002, 2016). Tuy nhiên, các nguồn lực này có thể bị tổn hại bởi những áp
lực (stressors), ví dụ như tính cấp bách của công việc, sự mất việc làm, áp lực
thi cử, bất hòa hôn nhân, hay việc phải tham gia các cuộc họp kinh doanh mà cá
nhân không mong muốn (Hobfoll, 1989). Theo đó, những áp lực này được hiểu
là những yếu tố có thể đe dọa làm mất mát hoặc làm cạn kiệt nguồn lực của họ,
hoặc có thể dẫn đến việc họ bị thiếu hụt và không thể phát triển nguồn lực của
mình (Hobfoll, 1989).
Thuyết COR đưa ra giả định cho rằng cá nhân luôn mong muốn và tìm
mọi cách để hạn chế tiêu hao các nguồn lực của mình (Hobfoll, 2002). Do đó,
khi đối mặt với những áp lực, cá nhân sẽ có những cách nhận thức và hành vi
nhằm tự bảo vệ bản thân để họ không bị tổn thất nguồn lực. Bên cạnh đó, thuyết
37
này cũng cho rằng những áp lực có thể khiến cá nhân lo sợ họ bị mất mát các
nguồn lực, do đó họ thường bị căng thẳng (ví dụ như lo âu, cạn kiệt nguồn lực).
Đối mặt với những căng thẳng này, cá nhân cũng sẽ có những cách nhận thức
và hành vi nhằm đối phó nhằm tối thiểu hóa sự mất mát các nguồn lực.
Những lập luận của thuyết COR này đã đưa ra những ý tưởng tiền đề cho
các nghiên cứu về những căng thẳng của cá nhân (Quade và cộng sự, 2013;
Chiu và cộng sự, 2015). Cụ thể, trong nghiên cứu của Quade và cộng sự (2013)
về sự cạn kiệt cảm xúc của người lao động tại Mỹ, các tác giả đã phát hiện được
rằng việc phải đối mặt với những cư xử phi đạo đức của khách hàng có thể được
xem như một áp lực khiến người lao động bị cạn kiệt cảm xúc. Một nghiên cứu
khác của Chiu và cộng sự (2015) cũng áp dụng thuyết này để phân tích về tác
động của các áp lực (ví dụ như mâu thuẫn vai trò, sự thiếu rõ ràng trong vai trò,
và sự quá tải công việc) đối với những hành vi phi đạo đức. Với mẫu 326 cặp
người bán hàng và người làm việc trong bộ phận dịch vụ khách hàng cùng với
cấp trên của họ (đang làm việc tại các công ty ở Đài Loan), nghiên cứu đã chỉ ra
rằng các áp lực này chính là những nguyên nhân dẫn đến các hành vi phi đạo
đức, ví dụ như hành vi lấy cắp tài sản của công ty mà chưa có sự cho phép.
Tuy nhiên, việc vận dụng thuyết COR để nghiên cứu về các vấn đề trong
công việc và tổ chức vẫn còn khiêm tốn (Halbesleben và cộng sự, 2014). Do đó,
luận án kỳ vọng việc vận dụng thuyết này để tìm hiểu sự ảnh hưởng của các áp
lực công việc đối với USB có thể không chỉ giúp kiểm định lại lý thuyết này mà
còn đóng góp thêm sự hiểu biết về USB.
Theo đó, dựa vào định nghĩa về áp lực và dựa vào giả định của thuyết
COR về việc cá nhân luôn mong muốn và tìm cách để hạn chế tiêu hao các
nguồn lực của mình, trong luận án này, các áp lực công việc (gồm mâu thuẫn
vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu) được xem như những
áp lực dẫn đến những căng thẳng của cá nhân (gồm sự lo âu và sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm), từ đó dẫn đến những cách nhận thức và hành vi đối phó để
bảo tồn nguồn lực của cá nhân (gồm sự bào chữa và USB).
38
2.4.2 Thuyết nguồn lực-yêu cầu công việc (JD-R)
Dựa trên lý thuyết gốc là thuyết COR, thuyết JD-R (Bakker & Demerouti,
2017) đã kế thừa thuyết COR với những giả định về nguồn lực. Theo đó, thuyết này
đã gợi ý rằng những yếu tố đặc tính công việc hay môi trường công việc có thể
được chia ra thành hai nhóm, bao gồm yêu cầu công việc và nguồn lực công việc.
Trong đó, các yêu cầu công việc (ví dụ như sức ép từ công việc) là những yếu tố có
thể tiêu hao nguồn lực của bản thân (ví dụ như nguồn lực sức khỏe, nhận thức, cảm
xúc), dẫn đến những căng thẳng của cá nhân (ví dụ như sự kiệt sức, sự lo âu), và từ
đó làm suy giảm sự cam kết và sự tham gia vào công việc của cá nhân. Chính vì
vậy, trong công việc, những yêu cầu công việc có thể được xem là những áp lực gây
nên những căng thẳng cho cá nhân (Woerkom và cộng sự, 2016; Bakker &
Demerouti, 2017). Trong khi đó, các nguồn lực công việc (ví dụ như cơ hội thăng
tiến, tính chủ động ra quyết định trong công việc, phần thưởng) lại là những yếu tố
có thể thúc đẩy cá nhân cam kết với công việc và tham gia vào công việc.
Không ít nghiên cứu đã dựa trên thuyết này để tìm hiểu về các áp lực công
việc, những căng thẳng và hành vi của cá nhân (Babakus và cộng sự, 2009; Lee và
cộng sự, 2016). Đơn cử như nghiên cứu của Babakus và cộng sự (2009) đã dựa trên
thuyết này để tìm hiểu về tác động của các yêu cầu và nguồn lực công việc đối với
sự kiệt sức. Bằng cách khảo sát 842 nhân viên làm việc trong ngân hàng, kết quả đã
chỉ ra rằng các yêu cầu công việc càng tăng có thể khiến nhân viên càng bị kiệt sức,
trong khi các nguồn lực công việc lại giúp giảm trừ sự kiệt sức.
Cũng trong tác phẩm của mình, các học giả Bakker và Demerouti (2017) đã
kêu gọi cần có thêm nhiều nghiên cứu làm rõ thêm những khoảng trống học thuật để
phát triển lý thuyết. Một trong những câu hỏi mà các tác giả gợi ý đó là liệu còn có
những yếu tố trung gian nào khác có thể kết nối các yêu cầu công việc và hành vi cá
nhân, ngoài những yếu tố mà học thuyết đã gợi ý, ví dụ như là sự lo âu (anxiety), và
sự kiệt sức (burnout) (Bakker & Demerouti, 2017).
Theo thuyết COR và thuyết JD-R, những yêu cầu công việc cũng chính là
những áp lực có thể gây nên những căng thẳng cho cá nhân, thúc đẩy cá nhân có
39
những cách nhận thức và thực hiện các hành vi nhằm hạn chế sự tổn thất các nguồn
lực. Những lập luận từ thuyết COR và thuyết JD-R cũng là những ý tưởng để luận
án đưa ra những giả thuyết về sự nối kết giữa các áp lực công việc (bao gồm mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu) và USB.
Dựa vào các thuyết này, luận án xem xét những áp lực công việc (gồm mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu) không chỉ là những
áp lực, mà còn là những yêu cầu công việc, để từ đó đề xuất những giả thuyết về
những ảnh hưởng của mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của
mục tiêu đối với những căng thẳng của cá nhân (ví dụ như sự lo âu, sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm).
2.4.3 Thuyết nhận thức xã hội (SCT)
Thuyết SCT (Bandura, 2002) giả định rằng để thực hiện một hành vi đạo đức,
cá nhân phải thực hiện tự kiểm về mặt đạo đức, tức là họ phải nhận diện được vấn
đề họ đang đối mặt có những thách thức đạo đức, họ phải chú ý đến các các chuẩn
mực đạo đức và kiểm soát hành vi để hành vi của họ phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức. Tuy nhiên, khi cá nhân không thực hiện tự kiểm về mặt đạo đức, họ không
nhận ra những thách thức đạo đức trong tình huống của họ, họ có thể thực hiện hành
vi phi đạo đức với suy nghĩ rằng hành vi của họ không vi phạm đạo đức, và họ vẫn
là người có đạo đức (Bandura, 2002). Để không phải thực hiện tự kiểm về mặt đạo
đức, cá nhân thường tìm cách chối bỏ đạo đức, với những cách như bào chữa, mỹ
danh, so sánh có lợi, đổ lỗi, khuếch tán trách nhiệm, phản ánh sai lệch, phi nhân, và
quy chụp (Bandura, 2002).
Trong đó, bào chữa là một cách mà cá nhân cho rằng những hành vi của mình
là hợp lý và ý nghĩa, và không có gì sai trái (Bandura, 2002).
Mỹ danh là cách mà cá nhân tìm kiếm những từ ngữ, hay những cái tên cho
các hành vi của mình sao cho hành vi của họ trở thành hành vi có ý nghĩa, hoặc vô
hại, dù rằng đó có thể là một hành vi có thể tổn hại đến người khác (Bandura,
2002).
So sánh có lợi cũng là một cách mà cá nhân tìm cách so sánh hành vi của họ
40
với những dạng hành vi sai trái khác, để thấy rằng hành vi của họ có vẻ không gây
tổn hại gì nhiều so với những dạng hành vi khác, nhờ đó, họ sẽ tự lừa dối bản thân
rằng không cần thiết phải nghiêm trọng hóa những hành vi của họ (Bandura, 2002).
Đổ lỗi là một cách mà cá nhân biện dẫn những lý do rằng hành vi của họ là do
ý muốn của một ai đó, hay một tổ chức nào đó. Thực chất, họ đang tìm cách đổ
trách nhiệm cho những đối tượng khác, để họ thấy rằng họ không có lỗi trong hành
vi (Bandura, 2002).
Khuếch tán trách nhiệm là cách cá nhân tự biện dẫn rằng họ chỉ có phần nhỏ
trách nhiệm trong suốt quá trình thực hiện hành vi của chính mình, vì vậy, họ không
cần phải gánh hết những trách nhiệm cho những hành vi đó (Bandura, 2002).
Phản ánh sai lệch là cách mà cá nhân cố đưa ra những thông tin không đúng
nhằm phản ánh sai lệch sự thật, để họ thấy rằng hành vi của họ không gây ra hậu
quả gì nghiêm trọng (Bandura, 2002).
Phi nhân là cách cá nhân cho rằng những người bị tổn hại bởi hành vi của họ
là xứng đáng bị như vậy. Nhờ đó, cá nhân tự xoa dịu mình rằng hành vi của họ là
phù hợp (Bandura, 2002).
Quy chụp là cách cá nhân nghĩ rằng họ chỉ là nạn nhân, ví dụ như: họ hành xử
như vậy là do hoàn cảnh bức ép, hoặc họ có thể hành xử như vậy bởi không có
những hướng dẫn quy định nào về hành vi đó. Do đó, họ sẽ quy chụp rằng trách
nhiệm không nằm ở họ, mà ở xã hội, hay do hoàn cảnh (Bandura, 2002).
Thuyết SCT đã đưa ra giả định về những nối kết giữa các cơ chế chối bỏ đạo
đức và hành vi phi đạo đức, đồng thời đã đưa ra quan điểm tiếp cận về hành vi phi
đạo đức khi cho rằng cá nhân có thể thực hiện hành vi phi đạo đức khi họ không
nhận diện ra những thách thức đạo đức mà họ đang đối mặt. Luận án đã dựa trên
quan điểm này để đề xuất những giả thuyết về những nối kết giữa sự lo âu, sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa và USB.
2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến USB
Một số yếu tố đã được phát hiện là nhân tố ảnh hưởng đến USB, bao gồm:
-Những yếu tố đặc điểm nhân khẩu cá nhân: các nghiên cứu cho thấy
41
những đặc điểm nhân khẩu như giới tính (Ergeneli & Arikan, 2002), độ tuổi
(Cheng và cộng sự, 2014; Roman & Munuera, 2005), kinh nghiệm (Cheng và
cộng sự, 2014), trình độ giáo dục (Roman & Munuera, 2005) là những yếu tố có
liên quan với hành vi bán hàng đạo đức/ phi đạo đức. Cụ thể, với nghiên cứu
của Cheng và cộng sự (2014), các yếu tố gồm độ tuổi và kinh nghiệm làm việc
của cá nhân đã được phát hiện là những yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến hành vi
phi đạo đức của người bán hàng. Trong khi đó, nghiên cứu của Roman và
Munuera (2005) đã khẳng định những người bán hàng có độ tuổi càng lớn thì
hành vi bán hàng đạo đức càng tăng.
-Những yếu tố tâm lý cá nhân: các nghiên cứu cho thấy hành vi bán hàng
đạo đức/ phi đạo đức được dẫn dắt bởi các yếu tố tâm lý, ví dụ như thái độ đạo
đức (Yi và cộng sư, 2012), sự bào chữa và sự đổ lỗi (Barsky, 2011), khả năng
thấu cảm và khả năng tự xấu hổ (Agnihotri và cộng sự, 2012), sự chối bỏ đạo
đức (Seriki và cộng sự, 2020). Điển hình như nghiên cứu gần đây của Seriki và
cộng sự (2020) đã phát hiện được rằng những người bán hàng có sự chối bỏ đạo
đức càng lớn thì họ càng gia tăng xu hướng thực hiện các hành vi phi đạo đức
đối với cả doanh nghiệp và khách hàng. Tương tự, nghiên cứu của Barsky
(2011) cũng phát hiện sự bào chữa và sự đổ lỗi có thể làm gia tăng xu hướng
thực hiện các hành vi phi đạo đức của cá nhân.
-Những yếu tố bên ngoài: các nghiên cứu đã phát hiện được rằng hành vi
bán hàng đạo đức/phi đạo đức có thể là hệ quả của nhiều yếu tố bên ngoài, ví dụ
như môi trường đạo đức (Yi và cộng sự, 2012), sự phức tạp của sản phẩm (Yi
và cộng sự, 2012), hệ thống kiểm soát (Roman & Munuera, 2005), và sự phức
tạp của nhiệm vụ (bán hàng) (Yang và cộng sự, 2018). Đơn cử như nghiên cứu
của Yang và cộng sự (2018) trong ngành dịch vụ tài chính tại Đài Loan, các tác
giả đã phát hiện được rằng sự phức tạp của nhiệm vụ (bán hàng) là một tác nhân
dẫn đến USB, theo đó, khi sự phức tạp của nhiệm vụ (bán hàng) càng tăng, thì
người tư vấn tài chính càng gia tăng xu hướng thực hiện USB.
Như đã đề cập ở trên, bên cạnh việc tìm hiểu các tác nhân ảnh hưởng đến
42
USB, các học giả cũng quan tâm tìm hiểu những trung gian ẩn sau hành vi này
(Yi và cộng sự, 2012; Seriki và cộng sự, 2020). Qua đó, có thể thấy rằng, các
nghiên cứu về USB có thể được phân thành dòng nghiên cứu như sau (vui lòng
tham khảo bảng 2.2):
Dòng nghiên cứu thứ nhất xem xét các yếu tố cá nhân và các yếu tố bên
ngoài như là những biến độc lập tác động đến USB (Cheng & cộng sự, 2014;
Roman & Munuera, 2005; Rostami và cộng sự, 2019). Đơn cử như trong nghiên
cứu của Roman và Munuera (2005), các đặc điểm nhân khẩu cá nhân (gồm độ
tuổi và trình độ giáo dục), và các yếu tố bên ngoài (gồm phương pháp trả thu
nhập và hệ thống kiểm soát của doanh nghiệp) được giả định là những biến độc
lập ảnh hưởng đến USB.
Dòng nghiên cứu thứ hai lý giải sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài
đối với USB thông qua các nhân tố trung gian (Yi và cộng sự, 2012; Seriki và
cộng sự, 2020). Cụ thể, trong nghiên cứu của Seriki và cộng sự (2020), thông
qua việc khảo sát 400 người bán hàng trong ngành bảo hiểm và bất động sản,
các tác giả phát hiện được rằng sự chối bỏ đạo đức là trung gian nối kết sự phức
tạp trong tổ chức, sự phức tạp trong môi trường kinh doanh và các hành vi phi
đạo đức của người bán hàng. Theo đó, sự phức tạp trong tổ chức và sự phức tạp
trong môi trường kinh doanh có thể làm tăng chối bỏ đạo đức, từ đó, làm tăng
các hành vi phi đạo đức của người bán hàng.
So với dòng nghiên cứu thứ nhất, dòng nghiên cứu thứ hai nối kết được
các yếu tố bên ngoài, các yếu tố tâm lý và hành vi cá nhân, nhờ đó, giúp giải
thích rõ hơn về những tác động của các yếu tố bên ngoài đối với hành vi cá
nhân (Seriki và cộng sự, 2020). Tuy nhiên, việc tìm hiểu các trung gian cũng chỉ
mới được tiếp cận trong các nghiên cứu gần đây (Seriki và cộng sự, 2020).
Bảng 2.2 trình bày những tác nhân của các hành vi đạo đức/phi đạo đức
của người bán hàng, bao gồm cả USB, theo hai dòng nghiên cứu trên. Qua đó,
có thể thấy rằng mặc dù các nghiên cứu đã khám phá được các tác nhân ảnh hưởng
đến USB, tuy nhiên, việc tìm hiểu về những ảnh hưởng của các áp lực công việc đối
43
với USB vẫn còn khiêm tốn (Chiu và cộng sự, 2015; Tarkiainen và cộng sự, 2016).
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp các tác nhân của hành vi đạo đức/phi đạo đức
Nhân tố
Nghiên cứu
Dòng nghiên cứu thứ nhất
Dòng nghiên cứu thứ hai
- n u M
Loại biến
g n ộ c à v i
) 5 1 0 2 (
) 2 0 0 2 (
) 4 1 0 2 (
) 8 1 0 2 (
) 2 1 0 2 (
) 9 1 0 2 (
) 0 2 0 2 (
) 9 1 0 2 ( ự s
ự s g n ộ c à v i
) 5 0 0 2 ( a r e u
ự s g n ộ c à v h s l e
à v i r t o - h i n g A
Y
) 2 1 0 2 ( ự s g n ộ c
ự s g n ộ c à v u i h C
à v n a m o R
m a t s o R
ự s g n ộ c à v g n a Y
ự s g n ộ c à v i k i r e S
của người bán hàng.
n o s r a C à v h c a p u C
ự s g n ộ c à v g n e h C √ √ √ √
√ √ √
W √ √
√ √
√
√ √
√
√
√
p ậ l c ộ đ n ế i b
√
√ √
√
√ √
√ √
√
√
√
n a i g
g n u r t n ế i b
√
√
√
√ √
√
√
√
√
√
√
√
√
√
√
c ộ u h t ụ h p n ế i b
Độ tuổi Trình độ giáo dục kinh nghiệm Vị trí địa lý công ty Quy mô công ty Khả năng thấu cảm/ tự xấu hổ Khả năng tự xấu hổ Áp lực thời gian Mâu thuẫn vai trò Sự thiếu rõ rằng trong vai trò Sự quá tải vai trò Tính thách thức của mục tiêu Loại mục tiêu (học tập/kết quả) Sức ép bán hàng Môi trường đạo đức/ đạo đức của tổ chức Đào tạo đạo đức Mức độ cạnh tranh ngành Sự phức tạp trong tổ chức Sự phức tạp môi trường kinh doanh Sự phức tạp Sự đa dạng của sản phẩm Sự phức tạp của nhiệm vụ Sự kiểm soát của khách hàng Hoa hồng/ phương pháp trả thu nhập Hệ thống kiểm soát Sự bào chữa/ chối bỏ đạo đức Sự tập trung ngăn ngừa thất bại Hành vi đạo đức/phi đạo đức Thái độ đạo đức USB/ hành vi phi đạo đức với khách hàng Các hành vi đạo đức/phi đạo đức (khác) Kết quả kinh doanh
√ Nguồn: tác giả tổng hợp
44
Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng không tập trung vào việc phân tích những
ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các áp lực công việc, do đó, vai trò trung gian
một phần hay toàn phần của các nhân tố trung gian cũng không được đề cập. Điển
hình như nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012) mặc dù có quan tâm đến USB
trong ngành BHNT, tuy nhiên, nghiên cứu vẫn được phát triển dựa trên việc
tổng hợp thuyết tổng quát về đạo đức marketing (Hunt & Vitell, 1986) và mô
hình đạo đức trong kinh doanh bán hàng (Ferrell và cộng sự, 2007). Theo mô
hình này (hình 2.1), môi trường làm việc đạo đức, đào tạo đạo đức, và mức độ
cạnh tranh trong ngành được giả định là có ảnh hưởng tích cực đến thái độ đạo
đức, trong khi sức ép bán hàng ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ đạo đức, từ đó
làm giảm trừ USB. Bên cạnh đó, sự phức tạp và sự đa dạng của sản phẩm bảo
hiểm cũng được giả định làm tăng USB.
Nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012) đã góp phần nối kết những yếu tố
bên ngoài (gồm môi trường làm việc đạo đức, đào tạo đạo đức, và mức độ cạnh
tranh trong ngành, sức ép bán hàng, sự phức tạp và sự đa dạng của sản phẩm
45
bảo hiểm) với yếu tố tâm lý (ví dụ như thái độ đạo đức) và USB, qua đó đưa ra
giả thuyết rằng sức ép bán hàng làm giảm thái độ đạo đức, từ đó làm tăng USB.
Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ quan tâm đến những nối kết trực tiếp giữa sức ép
bán hàng với thái độ đạo đức, và giữa thái độ đạo đức với USB, chứ không quan
tâm đến ảnh hưởng gián tiếp của sức ép bán hàng đối với USB, do đó, vai trò
trung gian một phần hay toàn phần của thái độ đạo đức đã không được làm rõ.
Tương tự, các học giả Seriki và cộng sự (2020) đã dựa vào thuyết hợp lý
hóa (Kunda, 1990) và thuyết SCT (Bandura, 2002) để tìm hiểu những ảnh
hưởng của sự phức tạp trong tổ chức, sự phức tạp trong môi trường kinh doanh,
và sự chối bỏ đạo đức đối với các dạng hành vi phi đạo đức của người bán hàng.
Tuy nhiên, nghiên cứu này không phân tích những nối kết giữa sự phức tạp
trong tổ chức, sự phức tạp trong môi trường kinh doanh và các dạng hành vi phi
đạo đức, do đó, vai trò trung gian một phần hay toàn phần của sự chối bỏ đạo
đức cũng không được đề cập.
Với những lược khảo vừa nêu, có thể thấy rằng việc tìm hiểu về những ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp của các áp lực công việc (bao gồm mâu thuẫn vai
trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu) đối với USB thông qua
chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa vẫn là
mảng nghiên cứu mà luận án có thể tiếp tục tìm hiểu. Các khái niệm này sẽ
được trình bày làm rõ ở phần tiếp theo.
2.6 Mô hình nghiên cứu
2.6.1 Các khái niệm trong bối cảnh ngành BHNT
2.6.1.1 USB
Như đã nêu ở trên, liên quan đến ngành BHNT, Chen và Mau (2009) đã
thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu về USB trong ngành này. Theo đó, USB
được hiểu là những hành vi mà người bán hàng thực hiện (trong ngắn hạn) để
đạt được lợi ích cho người bán hàng nhưng lại bất lợi cho khách hàng, ví dụ như
hành vi nói dối với khách hàng về tính năng của sản phẩm (Chen & Mau, 2009,
trang 61).
46
Thực chất, định nghĩa này đã được kế thừa từ Roman và Ruiz (2005)
trong nghiên cứu về USB của những người bán hàng trong ngành dịch vụ tài
chính, cụ thể bao gồm ngành ngành bảo hiểm và tín dụng thế chấp (Roman &
Ruiz, 2005, trang 440). Định nghĩa này cũng phù hợp với định nghĩa mà Munoz
và Mallin (2019) đã đưa ra về hành vi phi đạo đức của người bán hàng khi cho
rằng hành vi phi đạo đức (của người bán hàng) là hành vi ích kỷ nhằm có lợi
cho người bán hàng.
Những định nghĩa này đã tập trung vào những hành vi của người bán hàng
trong quá trình tư vấn cho khách hàng, một trong những đối tượng chính tham
gia vào giao dịch bán hàng (Roman & Munuera, 2005). Chính vì vậy, kế thừa
định nghĩa về USB của các học giả Roman và Ruiz (2005), Chen và Mau (2009),
Munoz và Mallin (2019), trong luận án này, USB được hiểu là những hành vi mà
người bán hàng thực hiện để đạt được lợi ích cho chính họ nhưng lại bất lợi cho
khách hàng, ví dụ như hành vi vi nói dối hoặc nói quá về những lợi ích của sản
phẩm dịch vụ đối với khách hàng (Roman & Ruiz, 2005; Roman & Munuera, 2005;
Chen & Mau, 2009).
2.6.1.2 Mâu thuẫn vai trò
Mâu thuẫn vai trò (role conflict) được hiểu là những cảm nhận của cá nhân
về việc cá nhân phải làm theo những kỳ vọng, mong muốn khác biệt của nhiều
bên liên quan (Rod và cộng sự, 2008), hoặc cũng có thể hiểu mâu thuẫn vai trò
là những xung đột giữa những vai trò công việc mà cá nhân buộc phải thực hiện
(Jaramillo và cộng sự, 2011; Miao & Evans, 2013).
Khác với các nghiên cứu trước tìm hiểu về mâu thuẫn vai trò trong công
việc của người lao động (nói chung), luận án này tập trung vào mâu thuẫn vai
trò trong công việc bán hàng. Theo đó, trong luận án này, khái niệm mâu thuẫn
vai trò được hiểu là việc người bán hàng nhận thấy những yêu cầu và kỳ vọng
giữa các nhóm đối tượng (ví dụ như khách hàng, chủ doanh nghiệp, và của
chính người bán hàng) không khớp với nhau, và người bán hàng khó có thể
thực hiện các vai trò cùng lúc (Munoz & Mallin, 2019).
47
Khi những mâu thuẫn này lặp lại nhiều lần, nó dần trở thành một đặc điểm
tính chất công việc, đòi hỏi cá nhân phải tiêu tốn các nguồn lực của mình nhằm
tư duy các giải pháp phù hợp. Mâu thuẫn vai trò được nhìn nhận là một áp lực
phổ biến trong công việc bán hàng (Jaramillo và cộng sự, 2011; Miao & Evans,
2013), đặc biệt trong ngành BHNT, khi người bán hàng cùng một lúc phải đóng
vai trò người tư vấn, cố gắng tư vấn và cung cấp những sản phẩm phù hợp với
khách hàng, nhưng mặt khác, họ phải đóng vai trò là người nhân viên bán hàng,
cố gắng bán những sản phẩm dịch vụ bảo hiểm mà các hãng bảo hiểm yêu cầu.
Mâu thuẫn vai trò cũng được phát hiện là tác nhân dẫn đến những căng thẳng
như cạn kiệt cảm xúc (Jaramillo và cộng sự, 2011), sự lo âu (Glazer và Beehr,
2005), và là tiền tố của hành vi phi đạo đức (Chiu và cộng sự, 2015; Tarkiainen
và cộng sự, 2016). Chính vì vậy, mâu thuẫn vai trò không chỉ là áp lực mà còn là
một yêu cầu công việc (Rod và cộng sự, 2008), và việc nghiên cứu về mâu thuẫn
vai trò sẽ có thể góp phần làm rõ hơn những ảnh hưởng của yếu tố này đối với USB.
2.6.1.3 Sức ép bán hàng
Sức ép bán hàng là một áp lực đặc thù trong công việc bán hàng. Hiểu một
cách tổng quát, sức ép bán hàng là cảm nhận của cá nhân về các phương thức
bán hàng (selling practices) của tổ chức, hay những cảm nhận của cá nhân về
hoạt động hay chính sách bán hàng trong tổ chức, rằng tổ chức của họ quan tâm
việc bán hàng hay thấu hiểu khách hàng như thế nào, và việc bán hàng quan
trọng như thế nào đối với tổ chức của họ (Babin và cộng sự, 2000; Yi và cộng
sự, 2012).
Thực chất, trong kinh doanh, các tổ chức luôn muốn đạt được các mức thu
nhập cao hơn, và bán hàng là cách để có nguồn thu nhập này. Cũng vì lẽ đó, gần
như tổ chức nào cũng mong muốn người bán hàng bán được càng nhiều càng
tốt. Và dù cố ý hay không cố ý, các chính sách quản lý bán hàng của tổ chức đã
tạo ra những cảm nhận trong người bán hàng về sức ép bán hàng, nhắc nhở họ
phải nhớ đến nhiệm vụ chính trong công việc của họ là nhiệm vụ bán hàng, và
họ phải nỗ lực để bán được hàng. Mặc dù trong ngành BHNT, nhiều người tư vấn
48
bán BHNT không phải là nhân viên chịu sự quản lý toàn diện của hãng bảo hiểm,
nhưng dù ít hay nhiều, công việc bán hàng của họ cũng bị ảnh hưởng bởi các chính
sách quản lý, hay những chương trình đào tạo bán hàng của hãng bảo hiểm.
Khi người bán hàng cảm nhận sức ép bán hàng càng cao, họ cũng có thể suy
diễn rằng tổ chức của họ rất quan tâm đến kết quả cuối cùng là bán được hàng,
trong khi đó, bằng cách nào để bán được hàng thì gần như không cần quan tâm
(Babin và cộng sự, 2000). Do đó, họ sẽ có xu hướng nỗ lực nhiều hơn, bán hàng
chăm chỉ hơn, hoặc cố gắng tìm kiếm nhiều giải pháp để bán được hàng, thậm
chí họ có thể bán hàng phi đạo đức để bán được hàng (Yi và cộng sự, 2012).
Việc phải nỗ lực nhiều hơn, bán hàng chăm chỉ hơn, hay phải suy nghĩ tìm
kiếm các giải pháp bán hàng, đều đòi hỏi người bán hàng phải tiêu hao các
nguồn lực tự kiểm của mình, ví dụ như họ phải tiêu hao nguồn lực chú ý để chú
ý đến nhiệm vụ bán hàng, họ cũng phải tiêu hao nguồn lực nhận thức để phát
triển nhiều giải pháp bán hàng. Với những tính chất như vậy, sức ép bán hàng
có thể được xem là một yêu cầu công việc trong công việc bán hàng, và việc
nghiên cứu về sức ép bán hàng có thể góp phần làm hiểu rõ hơn về USB.
2.6.1.4 Tính thách thức của mục tiêu
Mục tiêu được hiểu là một đối tượng hay một mục đích của một hành động
nào đó, thường gắn liền với thời gian nhất định (Niven & Heally, 2015). Có thể
phân loại mục tiêu thành hai loại, bao gồm mục tiêu học tập (learning goal), và
mục tiêu kết quả (outcome goal) (Welsh và cộng sự, 2019). Mục tiêu học tập là
những mục tiêu nhấn mạnh vào quá trình phát triển bản thân cá nhân, trong khi
đó, mục tiêu kết quả nhấn mạnh vào việc hoàn thành những kết quả cuối cùng
(Welsh và cộng sự, 2019).
Để thống nhất, trong luận án này, thuật ngữ mục tiêu sẽ được sử dụng để
nói về mục tiêu kết quả. Theo đó, mục tiêu được hiểu là những mục tiêu kết quả
bán hàng cuối cùng mà doanh nghiệp mong muốn người bán hàng đạt được
(Fang và cộng sự, 2004; Niven & Healy, 2015). Như vậy, trong luận án này,
khác với những công việc khác, những mục tiêu kết quả bán hàng cuối cùng là
49
những mục tiêu định lượng, ví dụ như chỉ tiêu doanh số bán hàng (Fang và cộng
sự, 2004, trang 194).
Tính thách thức của mục tiêu là một thuộc tính của mục tiêu (Welsh và
cộng sự, 2019), phản ánh việc cá nhân cảm nhận về việc hoàn thành mục tiêu là
khó như thế nào (Fang và cộng sự, 2004, trang 189). Vì luận án này muốn tập
trung vào các mục tiêu kết quả bán hàng, nên khái niệm tính thách thức của mục
tiêu trong luận án này được hiểu là những cảm nhận của người bán hàng về khả
năng hoàn thành các mục tiêu kết quả bán hàng là khó đến mức độ nào (Fang và
cộng sự, 2004, trang 194).
Một trong những vai trò của mục tiêu là mục tiêu có thể định hướng cho cá
nhân (Welsh và cộng sự, 2019). Tức là, thông qua việc thiết lập mục tiêu công
việc cho người bán hàng, các doanh nghiệp sẽ có thể định hướng cho người lao
động những nhiệm vụ công việc mà họ cần làm, cũng như phản ánh rõ những
mức độ hoàn thành công việc mà doanh nghiệp kỳ vọng ở người bán hàng (Fang
và cộng sự, 2004; Barsky, 2008). Do đó, ngoài tính định hướng, mục tiêu còn
có khả năng thu hút sự chú ý của cá nhân, và thúc đẩy những nỗ lực của cá nhân
để đạt được mục tiêu (Welsh & Ordonez, 2014; Welsh và cộng sự, 2019).
Trong thực tế, việc quản lý hoạt động và hành vi của người bán hàng là rất
khó khăn. Mặc dù những nhiệm vụ giao tiếp, thương thuyết với khách hàng là
những nhiệm vụ chính trong công việc bán hàng, tuy nhiên, các nhiệm vụ này
thường được thực thi bên ngoài tổ chức, tức là nằm ngoài sự giám sát của tổ
chức (Chen & Mau, 2009). Do đó, với mong muốn người bán hàng nỗ lực tập
trung vào công việc bán hàng, cũng như có thể ngăn ngừa việc người bán hàng
xao nhãng công việc, việc đề ra các mục tiêu bán hàng với các chỉ tiêu doanh số
là rất cần thiết. Khi độ khó của mục tiêu công việc càng cao, tức là tính thách
thức của mục tiêu càng cao, thì cá nhân càng nỗ lực để đạt được mục tiêu, chính
vì vậy, họ thường đạt được kết quả cao hơn (Fang và cộng sự, 2004; Welsh và
cộng sự, 2019).
Trong công việc bán hàng, việc đưa ra các mục tiêu kết quả là một trong
50
những cách quản trị phổ biến để thúc đẩy người bán hàng đạt được kết quả kinh
doanh (Fang và cộng sự, 2004). Nghiên cứu của Fang và cộng sự (2004) chỉ ra
rằng khi độ khó của mục tiêu càng cao, thì người bán hàng càng nỗ lực bán
hàng và đạt kết quả công việc cao hơn.
Tuy nhiên, khi đối mặt với những mục tiêu thách thức, cá nhân phải nỗ lực
và tiêu hao các nguồn lực của mình nhằm đạt được mục tiêu (Welsh và
Ordonez, 2014), chính vì vậy, tính thách thức của mục tiêu có thể được xem là
một yêu cầu hay một áp lực công việc. Bên cạnh đó, tính thách thức của mục
tiêu là một trong những tác nhân của hành vi phi đạo đức (Barsky, 2008; Welsh
và cộng sự, 2019).
Cụ thể, mô hình lý thuyết của Barsky (2008) gợi ý rằng tính thách thức của
mục tiêu có thể là yếu tố giải thích cho hành vi phi đạo đức. Trong nghiên cứu
gần đây của Welsh và cộng sự (2019), các tác giả cũng nêu ra một ví dụ thực tế
về vụ việc của hãng tài chính Wells Fargo khi nhân viên của hãng này đã tạo ra
3,5 triệu tài khoản khách hàng (mà không được sự chấp nhận của khách hàng) nhằm
đáp ứng các mục tiêu bán hàng mà hãng đề ra.
Nghiên cứu của các tác giả Welsh và cộng sự (2019) cũng phát hiện được
rằng đối với những mục tiêu nhấn mạnh kết quả cuối cùng (ví dụ như bán được
bao nhiêu sản phẩm, tiếp cận được bao nhiêu khách hàng), tính thách thức của
mục tiêu càng cao sẽ càng khiến cá nhân lo sợ thất bại, và do đó, cá nhân càng
tập trung vào việc làm sao để ngăn ngừa thất bại. Bởi vậy, họ thường có xu
hướng thực hiện hành vi phi đạo đức để đạt được mục tiêu (Welsh và cộng sự,
2019). Với những quan ngại về những nối kết giữa tính thách thức của mục tiêu
và hành vi phi đạo đức, việc nghiên cứu về tính thách thức của mục tiêu trong
công việc bán BHNT có thể góp phần hiểu rõ hơn về USB.
2.6.1.5 Sự lo âu
Trong môi trường làm việc, sự lo âu (job anxiety) là yếu tố phản ánh những
căng thẳng, lo sợ, và cảm giác bị đe dọa của cá nhân về khả năng không hoàn thành
công việc (McCarthy và cộng sự, 2016). Kế thừa định nghĩa này, trong luận án này,
51
sự lo âu được hiểu là những căng thẳng, lo sợ của người bán hàng về khả năng họ
không hoàn thành công việc bán hàng.
Sự lo âu là yếu tố rất đáng để quan tâm, bởi lẽ đây là một trong những tác
nhân của các hành vi phi đạo đức (McCarthy và cộng sự, 2016; Zhang và cộng sự,
2020). Các nghiên cứu chỉ ra rằng sự lo âu có thể làm suy giảm hiệu quả nhận thức
của cá nhân, hoặc tạo nên một sức ép lên nhận thức của cá nhân, khiến nhận thức
của cá nhân bị quá tải, và hậu quả là làm suy yếu hiệu quả xử lý thông tin của cá
nhân. Nói một cách khác, những năng lực nhìn nhận vấn đề, phân tích, đánh giá, và
chú ý của cá nhân đều bị suy giảm (McCarthy và cộng sự, 2016; Zhang và cộng sự,
2020), và hậu quả là cá nhân có thể hành xử phi đạo đức (Fida và cộng sự, 2015;
Kouchaki & Desai, 2015; McCarthy và cộng sự, 2016; Zhang và cộng sự, 2020).
Bên cạnh đó, các yêu cầu công việc cũng được cho là những nguyên nhân dẫn
đến sự lo âu (Fida và cộng sự, 2015; Bakker & Demerouti, 2017), vì vậy, luận án
nghiên cứu về sự lo âu với kỳ vọng có thể góp phần làm rõ vai trò trung gian của sự
lo âu, từ đó, giúp lý giải những ảnh hưởng của các áp lực công việc đối với USB.
2.6.1.6 Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
Trong thuyết tự kiểm, thuật ngữ tự kiểm soát (self-control) hoặc tự kiểm (self-
regulation) được hiểu như nhau, và được hiểu là khả năng tự kiểm soát, và tự điều
chỉnh về nhận thức, cảm xúc, và hành vi của chính cá nhân (Baumeister & Vohs,
2016). Theo đó, thuật ngữ sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, được tạm dịch theo từ
nguyên gốc là ego-depletion, là yếu tố phản ánh việc cá nhân cảm nhận rằng nguồn
lực tự kiểm của cá nhân bị cạn kiệt (Baumeister & Vohs, 2016).
Trong nghiên cứu của Rivkin và cộng sự (2015) về nhu cầu tự kiểm soát và
căng thẳng của cá nhân, các tác giả cho rằng sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm là một
yếu tố phản ánh những căng thẳng của cá nhân, theo đó, cá nhân cảm thấy họ bị cạn
kiệt nguồn lực tự kiểm và kiệt sức. Tương tự, Schmidt và cộng sự (2016) cũng xem
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm như là một yếu tố phản ánh căng thẳng của cá nhân.
Do đó, việc nghiên cứu về sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có thể đóng góp vào
thuyết JD-R trong việc phát hiện thêm một yếu tố phản ánh căng thẳng của cá nhân
52
dưới tác động của yêu cầu công việc. Kế thừa những quan điểm này, trong luận án
này, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm được hiểu như là một yếu tố phản ánh căng
thẳng của người bán hàng, khi họ cảm nhận rằng họ bị suy giảm các nguồn lực tự
kiểm.
Trong các tài liệu về đạo đức, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm đang thu hút sự
quan tâm của nhiều nghiên cứu (Gino và cộng sự, 2011; Yam và cộng sự, 2014;
Wang và cộng sự, 2017). Cụ thể, các học giả Yam và cộng sự (2014) đã phát hiện
được rằng những người bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm sẽ có xu hướng cao hơn trong
việc đưa ra các quyết định hành vi phi đạo đức. Tương tự, các học giả Wang và
cộng sự (2017) cũng từng khẳng định rằng những cá nhân suy kiệt nguồn lực tự
kiểm sẽ có xu hướng nói dối về kết quả hoạt động của mình.
Với những nghi ngại về quan hệ giữa các áp lực công việc và sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm, cũng như những nối kết giữa sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và
hành vi phi đạo đức, việc nghiên cứu về sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có thể góp
phần lý giải những ảnh hưởng của các áp lực công việc đối với USB.
2.6.1.7 Sự bào chữa
Sự bào chữa (moral justification) được hiểu là cách mà cá nhân chối bỏ đạo
đức, theo đó, họ sẽ suy nghĩ rằng hành vi (phi đạo đức) của họ là có ý nghĩa và đạo
đức (Bandura, 2002). Tương tự, Barsky (2011) cũng cho rằng sự bào chữa là cách
mà cá nhân cho rằng hành vi của họ có ý nghĩa đối với tổ chức và với chính bản
thân họ, thậm chí, hành vi đó có thể không gây hại gì đến người khác (Barsky,
2011). Kế thừa Bandura (2002) và Barsky (2011), trong luận án này, sự bào chữa
được hiểu là cách mà người bán hàng cho rằng những hành vi bán hàng của họ là
hợp lý, ý nghĩa, và không có gì sai trái.
Bào chữa được cho là cách mà người bán hàng thường sử dụng để hợp lý hóa
các hành vi bán hàng (phi đạo đức) của mình (Munoz & Mallin, 2019), và yếu tố
này cũng được gợi ý có liên quan mật thiết với sự lo âu (Paciello và cộng sự, 2013;
Fida và cộng sự, 2015), và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (Huberts và cộng sự,
2014). Chính vì vậy, luận án tìm hiểu về sự bào chữa với kỳ vọng yếu tố này có thể
53
là trung gian giúp lý giải cho những ảnh hưởng của sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm đối với USB, nhờ đó, làm rõ vai trò chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa trong việc nối kết mâu thuẫn vai trò, sức ép bán
hàng, tính thách thức của mục tiêu và USB.
2.6.2 Các giả thuyết
Lý thuyết COR, thuyết JD-R đã góp phần làm rõ những tác động của yêu cầu
công việc (hay những áp lực công việc) đối với hành vi cá nhân thông qua các trung
gian. Trong khi đó, thuyết SCT lại góp phần giải thích vì sao cá nhân có thể thực
hiện hành vi phi đạo đức và đưa ra những giả định về sự kết nối của sự bào chữa và
hành vi phi đạo đức. Dựa vào việc tổng hợp thuyết COR, thuyết JD-R, và thuyết
SCT, và phân tích những công trình nghiên cứu liên quan, luận án đề xuất mô hình
kết nối các yếu tố mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu,
sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa, và USB, theo đó, những giả
thuyết về những nối kết giữa các khái niệm được lập luận như sau:
2.6.2.1 Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức
của mục tiêu, và USB
Dựa trên thuyết COR, những yếu tố nào gây nên những tổn thất nguồn lực
hoặc có thể khiến cá nhân bị mất nguồn lực được xem là những áp lực. Trong
trường hợp của người bán hàng, khi đối mặt với những áp lực công việc như mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu, người bán hàng phải
tiêu hao các nguồn lực (ví dụ như nguồn lực nhận thức) để theo đuổi mục tiêu và
hoàn thành công việc bán hàng, do đó, họ có thể bị tổn thất nguồn lực, chính vì vậy,
mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu có thể được
xem là những áp lực. Khi đối mặt với những áp lực như mâu thuẫn vai trò, sức ép
bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu, người bán hàng có thể cảm nhận rằng họ
khó có khả năng hoàn thành công việc, và việc không hoàn thành công việc có thể
khiến họ mất đi những nguồn lực hiện tại, ví dụ như họ có thể mất việc làm, mất đi
sự tự tin của bản thân, và mất đi khả năng khẳng định về bản thân (Hobfoll, 1989).
Chính vì vậy, họ sẽ thực hiện những hành vi nhằm giúp họ không bị tổn thất nguồn
54
lực (Hobfoll, 1989).
Bên cạnh đó, họ cũng sẽ dành những nguồn lực hiện có của mình để tập trung
vào việc theo đuổi các mục tiêu công việc, và hoàn thành công việc, thay vì dành
nguồn lực cho những vấn đề khác (Hobfoll, 1989). Nếu người bán hàng cho rằng
USB có thể giúp họ hoàn thành mục tiêu công việc và giúp họ tự bảo vệ bản thân
không bị mất mát nguồn lực (ví dụ như mất việc làm), họ sẽ có thể thực hiện USB.
Nối kết giữa mâu thuẫn vai trò và USB có thể được ủng hộ trong nghiên cứu
của Chiu và cộng sự (2015) khi phân tích về những ảnh hưởng của mâu thuẫn vai
trò đối với các hành vi phi đạo đức. Với mẫu 326 cặp người bán hàng cùng với
cấp trên của họ tại các công ty Đài Loan, kết quả khảo sát của các tác giả cho thấy
mâu thuẫn vai trò làm tăng hành vi phi đạo đức. Tương tự, nghiên cứu gần đây của
của Tarkiainen và cộng sự (2016) về USB đã ủng hộ giả định này khi kết quả cho
thấy mâu thuẫn vai trò làm tăng những hành vi phi đạo đức của người bán hàng.
Mặc dù nối kết trực tiếp giữa sức ép bán hàng và USB chưa được tìm thấy, tuy
nhiên, nối kết này có thể được ủng hộ bởi lập luận của Yi và cộng sự (2012). Trong
nghiên cứu của mình, Yi và cộng sự (2012) đã gợi ý rằng sức ép bán hàng làm tăng
thái độ đạo đức, từ đó làm giảm USB. Mặc dù trong nghiên cứu của Yi và cộng sự
(2012), giả thuyết về ảnh hưởng của sức ép bán hàng đối với thái độ đạo đức đã
không được ủng hộ, tuy nhiên, nghiên cứu này không đề cập đến những nối kết trực
tiếp và gián tiếp của sức ép bán hàng đối với USB, do đó, đây vẫn là khoảng trống
mà luận án có thể lấp vào.
Bên cạnh nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012), trong một nghiên cứu về
ngành BHNT tại Đài Loan, các học giả Cheng và cộng sự (2014) từng gợi ý rằng
dưới áp lực bán hàng, nếu người bán hàng không hiểu được mong cầu của khách
hàng, thì người bán hàng rất có thể tư vấn những sản phẩm không phù hợp. Những
lập luận này cũng ám chỉ rằng sức ép bán hàng có thể thúc đẩy USB.
Tương tự, phần lược khảo của luận án cũng cho thấy mặc dù nối kết trực tiếp
giữa tính thách thức của mục tiêu và USB chưa được kiểm định ở các nghiên cứu
trước, tuy nhiên, sự nối kết giữa hai yếu tố này có thể được ủng hộ bởi các học giả
55
Barsky (2008), và Welsh và cộng sự (2019). Theo đó, các học giả Welsh và cộng sự
(2019) đã thực hiện các nghiên cứu nhằm đánh giá những ảnh hưởng của tính thách
thức của mục tiêu đối với hành vi phi đạo đức thông qua trung gian sự tập trung vào
việc ngăn ngừa thất bại. Trong nghiên cứu thứ nhất, các tác giả đã thực hiện khảo
sát với mẫu là 313 cặp người quản lý- nhân viên làm trong nhiều công việc khác
nhau, trong đó có những người làm công việc bán hàng. Các tác giả phát hiện được
rằng những cá nhân nào đối mặt với các mục tiêu có tính thách thức càng cao thì sự
tập trung vào việc ngăn ngừa thất bại của họ càng cao, từ đó, họ càng có xu hướng
thực hiện nhiều hành vi phi đạo đức hơn là những cá nhân đối mặt với các mục tiêu
có tính thách thức thấp hơn (Welsh và cộng sự, 2019). Với những lập luận vừa nêu,
giả thuyết sau được gợi ý:
H1a: Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến USB.
H1b: Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến USB.
H1c: Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích cực đến USB.
2.6.2.2 Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức
của mục tiêu, và sự lo âu
Như đã diễn giải ở trên, mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức
của mục tiêu là những yêu cầu công việc đối với người bán hàng. Theo thuyết COR
và thuyết JD-R, các yêu cầu công việc là tác nhân gây nên những căng thẳng cho cá
nhân, ví dụ như sự kiệt sức, sự lo âu (Bakker & Demerouti, 2017). Với giả định
này, có thể phỏng đoán rằng mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức
của mục tiêu có thể tác động tích cực đến sự lo âu. Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu và sự lo âu cũng được ủng hộ trong
các nghiên cứu trước đây (Han và cộng sự, 2014; Mérida-López và cộng sự, 2017;
Babin và cộng sự, 2000; Mawritz và cộng sự, 2013).
Cụ thể, liên quan đến sự nối kết giữa mâu thuẫn vai trò và sự lo âu, nhiều
nghiên cứu cho thấy mâu thuẫn vai trò có thể là nguyên nhân dẫn đến sự lo âu (Han
và cộng sự, 2014; Mérida-López và cộng sự, 2017). Cụ thể, trong nghiên cứu của
Han và cộng sự (2014), các tác giả đã dựa trên thuyết COR để đưa ra giả thuyết về
56
sự tác động của mâu thuẫn vai trò đối với sự hài lòng và sự lo âu trong công việc.
Bằng cách khảo sát 245 nhà quản trị cấp trung tại Trung Quốc, nghiên cứu khám
phá được rằng mâu thuẫn vai trò làm tăng sự lo âu trong công việc, trong khi đó, tác
động của mâu thuẫn vai trò đối với sự hài lòng không được ủng hộ.
Tương tự, trong nghiên cứu của Mérida-López và cộng sự (2017) về những áp
lực công việc của giáo viên, thông qua việc khảo sát 336 giảng viên tại Tây Ban
Nha, các tác giả cũng phát hiện rằng mâu thuẫn vai trò và sự thiếu rõ ràng trong vai
trò là những áp lực công việc dẫn đến những lo âu và phiền muộn của giảng viên
(Mérida-López và cộng sự, 2017). Từ những lập luận và các kết quả nêu trên, giả
thuyết sau được gợi ý:
H2a: Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến sự lo âu.
Mặc dù ảnh hưởng trực tiếp của sức ép bán hàng đối với sự lo âu chưa được
tìm thấy ở các nghiên cứu trước đây, tuy nhiên, những nối kết giữa hai yếu tố này
có thể được ủng hộ dựa vào những lập luận sau. Cụ thể, Babin và cộng sự (2000) đã
từng nhấn mạnh rằng khi cá nhân cảm nhận sức ép bán hàng càng lớn, họ sẽ thường
suy nghĩ rằng bán hàng là một nhiệm vụ rất quan trọng trong công việc của họ.
Thêm vào đó, những chính sách bán hàng ưu tiên doanh số cũng có thể góp phần
tạo nên cảm nhận về sức ép bán hàng trong cá nhân. Điều này đồng nghĩa rằng sức
ép bán hàng càng cao sẽ có thể khiến người bán hàng nghĩ rằng tổ chức của họ đặt
nhiệm vụ bán hàng là mối quan tâm hàng đầu, tổ chức của họ chỉ quan tâm đến kết
quả cuối cùng là bán được hàng, những vấn đề hay những nhiệm vụ khác (ví dụ như
quan tâm tìm hiểu nhu cầu, giải thích thông tin tường tận cho khách hàng) trong
công việc bán hàng gần như không được lưu tâm. Những suy nghĩ như vậy cũng có
thể tạo ra áp lực về kết quả công việc, khiến cá nhân lo lắng về khả năng hoàn thành
công việc của mình (Babin và cộng sự, 2000; Rodriguez-Escudero và cộng sự,
2010; Yi và cộng sự, 2012).
Nghiên cứu của Rodriguez-Escudero và cộng sự (2010) về áp lực kết quả công
việc của nhóm cũng chỉ ra rằng những nhóm nào có cảm nhận về sức ép kết quả
công việc càng cao thường sẽ có xu hướng càng lo lắng về khả năng đạt được kết
57
quả (Rodriguez-Escudero và cộng sự, 2010). Với những lập luận vừa nêu, có thể
suy diễn rằng khi sức ép bán hàng càng cao, cá nhân cũng sẽ có mức độ lo âu càng
cao.
H2b: Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến sự lo âu.
Liên quan đến tính thách thức của mục tiêu, nghiên cứu của Jones và Cale
(1997) đã phát hiện được rằng khi đối mặt với những mục tiêu thách thức, tức là độ
khó của mục tiêu càng cao, sự tự tin của cá nhân sẽ bị suy giảm, đồng thời, cá nhân
sẽ có xu hướng lo âu nhiều hơn (Jones & Cale, 1997). Trong một tác phẩm nghiên
cứu những hành vi gắt gỏng của những người quản lý, các học giả Mawritz và cộng
sự (2013) cũng phát hiện được rằng những nhiệm vụ công việc khó khăn thách thức
có thể làm tăng sự lo âu ở người quản lý, khiến họ có những gắt gỏng đối với nhân
viên và giám sát nhân viên quá mức (Mawritz và cộng sự, 2013).
Trong tình huống của người bán hàng, khi phải đối mặt với những mục tiêu có
tính thách thức càng cao, họ sẽ có cảm giác rằng họ có thể thất bại trong việc đạt
được mục tiêu, và do đó, họ càng tập trung vào việc làm sao để ngăn ngừa thất
bại này (Welsh và cộng sự, 2019). Cũng trong nghiên cứu của Welsh và cộng sự
(2019), sự tập trung vào việc ngăn ngừa thất bại được đo lường qua các phát biểu
phản ánh sự lo âu của cá nhân, ví dụ như Khi đối mặt với những mục tiêu công việc
(nhấn mạnh kết quả cuối cùng) càng cao, tôi càng lo lắng về việc liệu mình có thể
hoàn thành trách nhiệm công việc hay không (Welsh và cộng sự, 2019), điều này
phản ánh rằng tính thách thức của mục tiêu càng cao thì sự lo âu của cá nhân càng
cao. Với những lập luận và những kết quả được phát hiện từ các nghiên cứu trước,
giả thuyết sau được gợi ý:
H2c: Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích cực đến sự lo âu.
2.6.2.3 Quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức
của mục tiêu, và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
Trong luận án này, kế thừa từ các học giả trước, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
được xem như là yếu tố phản ánh những căng thẳng của cá nhân (Schmidt và cộng
sự, 2016; Rivkin và cộng sự, 2016). Dựa vào thuyết JD-R với giả định cho rằng các
58
yêu cầu công việc có thể dẫn đến những căng thẳng cho cá nhân, có thể phỏng đoán
rằng mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu sẽ ảnh
hưởng tích cực đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Ở hướng tiếp cận khác, thuyết tự kiểm (Baumeister & Vohs, 2016) đã dựa trên
quan điểm về sự giới hạn các nguồn lực tự kiểm để đưa ra giả định cho rằng để theo
đuổi và nỗ lực đáp ứng bất kỳ một công việc nào, cá nhân cũng phải tiêu hao những
nguồn lực tự kiểm của mình, ví dụ như nguồn lực nhận thức, chú ý, và cảm xúc
(Welsh & Ordonez, 2014; Baumeister & Vohs, 2016). Tuy nhiên, việc tiêu hao liên
tục các nguồn lực vào một công việc nào đó có thể khiến cá nhân bị suy giảm dần
hoặc thậm chí có thể suy kiệt các nguồn lực tự kiểm (Baumeister & Vohs, 2016).
Như đã trình bày ở trên, công việc bán hàng thường có những mâu thuẫn vai
trò, khiến cho người bán hàng không biết rõ họ cần phải thực hiện vai trò nào, hay
họ cần thực hiện những hành vi gì trong các tình huống bán hàng (Jaramillo và cộng
sự, 2011). Điều này thể hiện rất rõ trong công việc tư vấn bán BHNT, khi người bán
hàng vừa phải thực hiện vai trò người bán hàng với nhiệm vụ là cố gắng bán hàng
để thu về doanh số cho hãng bảo hiểm, vừa phải thực hiện vai trò người tư vấn là cố
gắng tư vấn chân thật, đầy đủ, đáp ứng mong mỏi của khách hàng và mang lại
những sản phẩm phù hợp với khách hàng, thậm chí, họ có thể phải từ chối bán hàng
hoặc tư vấn cho khách hàng không nên mua một sản phẩm dịch vụ bảo hiểm nào đó
nếu sản phẩm đó không cần thiết với khách hàng.
Trong những tình huống như vậy, người bán hàng phải cân nhắc, phân tích các
tình huống để đưa ra những quyết định đúng đắn, hay những giải pháp phù hợp,
nhằm cân bằng lợi ích của doanh nghiệp và của khách hàng. Tuy nhiên, việc cân
nhắc quyết định hay phân tích tình huống đòi hỏi người bán hàng phải vận hành các
hoạt động tự kiểm và sử dụng các nguồn lực tự kiểm của mình, ví dụ như họ phải sử
dụng nguồn lực nhận thức để tìm kiếm các giải pháp phù hợp, hay vận dụng các
kiến thức kỹ năng bán hàng, kỹ năng giao tiếp để thương thuyết và thỏa thuận với
các bên liên quan. Tất cả những hoạt động kể trên khiến họ tiêu hao dần các nguồn
lực tự kiểm, và có thể dẫn đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
59
Ủng hộ lập luận này, Alarcon (2011) trong một nghiên cứu về những áp lực
công việc và sự kiệt sức của cá nhân cũng phát hiện được rằng mâu thuẫn vai trò là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự kiệt sức của cá nhân, với những
biểu hiện như mệt mỏi, chán nản, nghi vực (Alarcon, 2011). Nghiên cứu gần đây
của Barling và Frone (2016) cũng đưa ra những kết luận tương tự, khi kết quả cho
thấy những người lao động thường xuyên trải nghiệm những mâu thuẫn vai trò
trong công việc sẽ có xu hướng mệt mỏi và kiệt sức (Barling & Frone, 2016). Với
những lập luận như vậy, giả thuyết sau được gợi ý:
H3a: Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Trong công việc bán BHNT, khi những người bán BHNT nhận thấy tổ chức
của họ tạo ra những sức ép bán hàng càng cao, thì họ sẽ càng tập trung vào công
việc bán hàng, với suy nghĩ rằng bán được hàng là nhiệm vụ quan trọng họ cần phải
hoàn thành. Với suy nghĩ này, họ nỗ lực, vận hành hoạt động tự kiểm, để kiểm soát
sự chú ý của họ đến nhiệm vụ bán hàng, để tư duy các chiến lược hành vi nhằm tiếp
cận khách hàng và bán hàng. Tất cả những điều này khiến cho nguồn lực tự kiểm
của họ bị tiêu hao, trong khi nguồn lực tự kiểm của họ không phải là vô tận, hậu quả
là các nguồn lực tự kiểm bị cạn kiệt dần và họ bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm của
mình. Với những lập luận như vậy, giả thuyết sau được gợi ý:
H3b: Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Một trong những áp lực đối với người bán BHNT là phải hoàn thành các chỉ
tiêu doanh số bán hàng. Tùy vào mức chỉ tiêu doanh số bán hàng do tổ chức đề ra,
cá nhân sẽ cảm nhận về tính thách thức của mục tiêu là cao hay thấp, tức là mức độ
khó hay dễ khi phải theo đuổi và hoàn thành những mục tiêu này. Cần lưu ý rằng,
tính thách thức của mục tiêu không chỉ thu hút sự chú ý của cá nhân, mà nó còn có
khả năng tác động khiến cá nhân phải đổ dồn các nguồn lực và nỗ lực để đạt được
mục tiêu (Welsh & Ordonez, 2014). Lý giải cho những tác động này, Barsky (2008)
lập luận rằng tính thách thức của mục tiêu sẽ làm nổi bật những mong muốn hay
những kỳ vọng của doanh nghiệp về kết quả hoàn thành công việc của cá nhân.
Chính vì vậy, cá nhân thường suy diễn rằng những mục tiêu thách thức này sẽ có
60
những ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp, và việc họ đạt được những mục tiêu
thách thức như vậy sẽ giúp họ nhận được những đánh giá tích cực từ doanh nghiệp,
hoặc giúp họ chứng tỏ được năng lực bản thân (Barsky, 2008).
Trong tình huống của người bán hàng, để có thể đạt được những mục tiêu kinh
doanh với những chỉ tiêu doanh số, họ phải không ngừng tiêu hao các nguồn lực tự
kiểm, ví dụ như nguồn lực nhận thức để lập kế hoạch và tư duy tìm kiếm các giải
pháp bán hàng. Tuy nhiên, việc liên tục tiêu hao các nguồn lực tự kiểm như vậy có
thể khiến họ bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm (Welsh và Ordonez, 2014). Nghiên cứu
của Welsh và Ordonez (2014) về những liên hệ giữa việc thiết lập mục tiêu và hành
vi phi đạo đức cũng phát hiện được rằng những mục tiêu có tính thách thức càng
lớn, thì càng có khả năng thúc đẩy cá nhân tiêu hao nguồn lực tự kiểm, dẫn đến hậu
quả là sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm của bản thân. Với những phát hiện từ nghiên
cứu này, giả thuyết sau được gợi ý:
H3c: Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích cực đến sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm.
2.6.2.4 Quan hệ giữa sự lo âu, sự bào chữa, và USB
Thuyết COR đưa ra giả định cho rằng khi đối mặt với những căng thẳng
(ví dụ như sự lo âu), cá nhân sẽ có những cách nhận thức và thực hiện các hành
vi nhằm tự bảo vệ mình không bị mất mát các nguồn lực (Hobfoll, 1989, 2002).
Khi cá nhân cảm nhận họ có khả năng bị mất mát các nguồn lực, họ sẽ cố tìm
cách giảm sự tiêu hao các nguồn lực của mình, đồng thời, họ có thể chuyển
hướng sự tập trung của họ vào những gì họ có thể đạt được, từ đó, họ đầu tư các
nguồn lực còn lại của mình để đạt được các nguồn lực đáng giá hơn, nhằm ngăn
chặn sự mất mát các nguồn lực trong tương lai (Hobfoll, 1989, 2002; Hobfoll và
cộng sự, 2016).
Trong tình huống của người bán hàng, khi họ lo âu về công việc, họ sẽ có
thể cảm nhận rằng họ có khả năng không hoàn thành công việc. Như vậy, họ có
thể cảm nhận rằng các nguồn lực của họ (ví dụ như việc làm của họ) có thể bị
mất mát. Để ngăn ngừa sự mất mát các nguồn lực của mình, họ sẽ tìm cách nào
61
đó để hạn chế tiêu hao thêm các nguồn lực vào các vấn đề khác, trong đó có
những vấn đề đạo đức. Bên cạnh đó, khi người bán hàng lo âu về công việc, họ
lo sợ mình không hoàn thành công việc, họ lo sợ bị đánh giá kém, họ sẽ dồn các
nguồn lực của mình để giải quyết những lo âu này. Lập luận này cũng tương tự
như thuyết kiểm soát sự chú ý (Eysenck & Derakshan, 2011) với giả định rằng
khi một người lo âu về một vấn đề gì đó, họ sẽ đổ dồn các nguồn lực chú ý của
mình vào những vấn đề đó, đồng thời, họ cũng có thể dành hết các nguồn lực
nhận thức để tìm kiếm những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề khiến họ
lo âu. Tuy nhiên, các nguồn lực của con người không phải là vô tận, một khi họ
ưu tiên dành các nguồn lực chú ý và nguồn lực nhận thức của mình vào những
vấn đề khiến họ lo âu, họ cũng sẽ giảm đi nguồn lực của mình đối với những
vấn đề khác (Eysenck & Derakshan, 2011), trong đó, có thể có những vấn đề
đạo đức. Một khi cá nhân không dành đủ nguồn lực của mình để chú ý và giải
quyết các vấn đề đạo đức, họ sẽ không nhận diện ra những thách thức đạo đức
mà họ đang đối mặt, do đó, họ có thể thực hiện USB với suy nghĩ đơn giản rằng
hành vi đó giúp họ giải quyết những lo âu trong công việc.
Bên cạnh đó, con người thường không muốn tiêu hao các nguồn lực nhận
thức của mình (Hobfoll, 2002), trong khi đó, các hoạt động nhận thức lại tiêu
hao các nguồn lực nhận thức của họ, chính vì vậy họ sẽ chỉ dành nguồn lực
nhận thức của mình vào những vấn đề có thể giúp họ bảo tồn nguồn lực. Như
vậy, trong tình huống của người bán hàng, khi họ lo âu về công việc, họ sẽ đổ
dồn nguồn lực vào việc hoàn thành công việc, và họ không muốn tiêu hao
nguồn lực vào các vấn đề đạo đức. Bào chữa là một cách có thể giúp cá nhân
tập trung nguồn lực của mình vào công việc bán hàng, và đồng thời giúp họ
không phải tiêu tốn nguồn lực và các vấn đề đạo đức, vì thông qua sự bào chữa,
cá nhân không phải thực hiện các hoạt động tự kiểm về mặt đạo đức.
Quan điểm này đã được ủng hộ trong nghiên cứu của Kouchaki và Desai
(2015). Theo đó, các tác giả Kouchaki và Desai (2015) khám phá ra rằng sự lo
âu không chỉ tạo nên những cảm giác bị đe dọa và thu hút những nguồn lực chú
62
ý của cá nhân, mà còn dẫn dắt nhận thức của cá nhân với những suy nghĩ rằng
hành vi phi đạo đức của họ là để bảo vệ lợi ích của bản thân, do đó, hành vi của
họ có thể được chấp nhận và không có gì nghiêm trọng (Kouchaki & Desai,
2015). Tương tự, qua các nghiên cứu của mình, Zhang và cộng sự (2020) cũng
phát hiện được rằng sự lo âu có thể khơi gợi những phản ứng tự động trong
chính nhận thức của cá nhân, thúc đẩy cá nhân dịch chuyển sự chú ý của mình
vào việc tự bảo vệ bản thân, thay vì chú ý vào những vấn đề đạo đức. Một
nghiên cứu Fida và cộng sự (2015) cũng phát hiện được rằng sự giận dữ, sự lo
âu là những yếu tố thúc đẩy cá nhân bào chữa cho các hành vi sai trái của họ.
Với những lập luận này, giả thuyết sau được đưa ra:
H4a: Sự lo âu có ảnh hưởng tích cực đến USB.
H4b: Sự lo âu có ảnh hưởng tích cực đến sự bào chữa.
Trong khi đó, thuyết SCT cho rằng sự bào chữa có thể giúp cá nhân chối bỏ
việc phải vận hành các cơ chế tự kiểm đạo đức của bản thân, nhờ đó, họ có thể thực
hiện hành vi phi đạo đức mà vẫn thấy rằng hành vi của họ không có gì sai phạm
(Bandura, 2002). Thực tế, những nối kết giữa sự bào chữa và hành vi phi đạo đức
đã được phân tích và được ủng hộ trong các nghiên cứu gần đây (Barsky, 2011;
Fida và cộng sự, 2015).
Cụ thể, trong nghiên cứu của Barsky (2011) về những tác động của sự bào
chữa và sự đổ lỗi đối với các hành vi phi đạo đức (trong đó bao gồm cả những hành
vi phi đạo đức với khách hàng), với mẫu 164 sinh viên, các tác giả đã yêu cầu các
sinh viên tự giả định họ là người quản lý bán hàng. Tình huống đưa ra cho người
quản lý bán hàng đó là người chủ tịch công ty đã thay đổi nguyên liệu của sản phẩm
để giảm chi phí sản xuất. Mặc dù việc làm này có thể gây ra những bất lợi cho
khách hàng, tuy nhiên, người chủ tịch không thông báo điều này cho khách hàng.
Nhiều giải pháp (những giải pháp này là những hành vi phi đạo đức) được gợi ý để
các đáp viên lựa chọn. Kết quả phát hiện được rằng những cá nhân có sự bào chữa
và sự đổ lỗi càng cao thì họ cũng có xu hướng càng cao trong việc thực hiện các
giải pháp phi đạo đức, trong đó có những giải pháp phi đạo đức nhằm vào khách
63
hàng, như cung cấp cho khách hàng những thông tin sai lệch về sản phẩm (Barsky,
2011). Tiếp nối ý tưởng này, trong nghiên cứu của Fida và cộng sự (2015) về những
hành vi phi đạo đức của nhân viên trong tổ chức, thông qua việc khảo sát 1147
người lao động tại Ý, các tác giả cũng phát hiện được rằng sự lo âu làm tăng sự
chối bỏ đạo đức (trong đó có sự bào chữa), từ đó, thúc đẩy hành vi phi đạo đức.
Dựa vào những lập luận này, giả thuyết sau được đề xuất:
H4c: Sự bào chữa có ảnh hưởng tích cực đến USB.
H4: Sự bào chữa là trung gian trong ảnh hưởng của sự lo âu đối với USB.
2.6.2.5 Quan hệ giữa sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa, và USB
Theo thuyết COR, khi nguồn lực của cá nhân bị mất mát, họ sẽ ưu tiên bảo tồn
nguồn lực hiện tại của mình (Hobfoll, 2002; Hobfoll và cộng sự, 2016). Trong khi
đó, nguồn lực tự kiểm là một dạng nguồn lực của cá nhân (Hobfoll, 2002), chính vì
vậy, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm phán ánh việc cá nhân đang bị mất đi nguồn lực
của mình.
Khi một cá nhân bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm, họ không còn đủ nguồn lực để
nhận diện ra các khả năng phi đạo đức trong hành vi, chính vì vậy, họ có thể thực
hiện một hành vi, mà không nhận thức được những khía cạnh phi đạo đức của hành
vi (Gino và cộng sự, 2011; Wang và cộng sự, 2017). Trong nghiên của Gino và
cộng sự (2011), các tác giả phát hiện ra rằng những cá nhân có sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm càng lớn, họ càng có xu hướng nói dối về kết quả hoàn thành nhiệm vụ.
Tương tự, trong nghiên cứu của Wang và cộng sự (2017), các tác giả cũng thực hiện
ba nghiên cứu nhằm phân tích những nối kết giữa sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và
hành vi phi đạo đức. Trong nghiên cứu thứ nhất, các tác giả thực hiện một nghiên
cứu tại phòng thí nghiệm với 48 sinh viên nữ. Những sinh viên này tham gia vào
một nhiệm vụ đọc màu của các từ. Những từ này bao gồm từ đỏ, xanh lục, và xanh
lam, và đã được tô sẵn màu đỏ, xanh lục và xanh lam. Tuy nhiên, màu của các từ có
thể khớp hoặc không khớp với từ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, các sinh viên
được khảo sát về mức độ suy kiệt nguồn lực tự kiểm của họ. Sau đó, các sinh viên
sẽ tham gia vào một nhiệm vụ khác, và họ có cơ hội để báo cáo về kết quả hoàn
64
thành nhiệm vụ của mình và giành lấy tiền thưởng. Kết quả phát hiện được rằng
những người có mức độ suy kiệt nguồn lực tự kiểm càng cao, thì họ càng nói dối về
kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mình (Wang và cộng sự, 2017). Với những gợi ý
và những phát hiện từ các nghiên cứu trước, giả thuyết sau được đưa ra:
H5a: Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có ảnh hưởng tích cực đến USB.
Đối phó với sự mất mát nguồn lực, cá nhân sẽ ưu tiên bảo tồn nguồn lực còn
sót lại của họ (Hobfoll, 1989). Các học giả Baumeister và Vohs (2016) cũng nhấn
mạnh một lập luận tương tự rằng khi cá nhân bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm, họ sẽ
ưu tiên bảo tồn nguồn lực của mình. Một cách để bảo tồn nguồn lực đó là cá nhân sẽ
không tiêu hao những nguồn lực còn lại của mình vào việc theo đuổi những vấn đề
khác không quan trọng (Hobfoll, 2002; Hobfoll và cộng sự, 2016), và đạo đức có
thể là vấn đề mà họ cho là không quan trọng. Bào chữa là cách giúp họ chối bỏ việc
vận hành các cơ chế tự kiểm đạo đức, nhờ đó, họ không phải tiêu hao thêm các
nguồn lực còn sót lại của mình.
Mặc dù chưa tìm thấy nghiên cứu nào đề cập đến những ảnh hưởng của sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm đối với sự bào chữa, tuy nhiên, nối kết giữa hai yếu tố này
có thể được suy diễn từ nghiên cứu của Lee và cộng sự (2016). Theo đó, các tác giả
Lee và cộng sự (2016) đã phát hiện được rằng những người bị suy kiệt nguồn lực tự
kiểm sẽ có xu hướng quan tâm bảo vệ lợi ích bản thân nhiều hơn, do đó, họ sẽ thực
hiện hành vi ích kỷ cho bản thân mà ít chú ý về những hậu quả của hành vi đối với
người khác. Hậu quả là những người này có khả năng thực hiện những hành vi phi
đạo đức với người khác, với suy diễn rằng trong hoàn cảnh của họ, mọi người cũng
sẽ hành xử như vậy. Nói cách khác, khi họ bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm, họ có xu
hướng ích kỷ, và họ sẽ có những suy diễn rằng hành vi của họ là phù hợp, dù rằng
đó có thể là hành vi phi đạo đức. Với những lập luận như vậy, giả thuyết sau được
gợi ý:
H5b: Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có ảnh hưởng tích cực đến sự bào chữa.
Như đã trình bày ở trên, thuyết SCT đã đưa ra giả định về sự ảnh hưởng của
sự bào chữa đối với hành vi phi đạo đức (Bandura, 2002). Và ủng hộ cho giả định
65
này, nghiên cứu của Barsky (2011) đã chỉ ra rằng sự bào chữa làm tăng hành vi phi
đạo đức, trong đó có hành vi phi đạo đức nhằm vào khách hàng. Với những lập luận
như vậy, giả thuyết sau được đưa ra:
H5: Sự bào chữa là trung gian trong ảnh hưởng của sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm đối với USB.
2.6.2.6 Vai trò chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm,
và sự bào chữa
Thuyết COR đưa ra giả định cho rằng các áp lực sẽ dẫn đến những căng
thẳng, từ đó thúc đẩy cá nhân có những cách nhận thức và hành vi đối phó với
những căng thẳng này (Hobfoll, 1989). Nếu xem mâu thuẫn vai trò, sức ép bán
hàng, và tính thách thức của mục tiêu là những áp lực, và sự lo âu và sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm là những yếu tố phản ánh căng thẳng, và xem sự bào chữa và
USB như là những cách đối phó của cá nhân, có thể suy diễn rằng mâu thuẫn
vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu sẽ làm tăng sự lo âu và
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, từ đó, làm tăng sự bào chữa và USB.
Khi đối mặt với những căng thẳng, cá nhân sẽ cảm nhận họ có thể bị mất
mát các nguồn lực, chính vì vậy, họ sẽ có những cách nhận thức và thực hiện
những hành vi đối phó. Về mặt nhận thức, Hobfoll (2002) nhấn mạnh rằng cá
nhân luôn muốn hạn chế tiêu hao nguồn lực của mình, trong đó có những nguồn
lực nhận thức. Để thực hiện một hành vi đạo đức, cá nhân phải tiêu hao nguồn
lực nhận thức của mình để nhận diện vấn đề đạo đức và thực hiện các hoạt động
tự kiểm đạo đức (Bandura, 2002). Chính vì vậy, khi đối mặt với sự lo âu và sự
suy kiệt nguồn lực tự kiểm, cá nhân sẽ tìm cách giảm thiểu việc tiêu hao các
nguồn lực nhận thức của mình, bằng cách không nhìn nhận các vấn đề đạo đức,
nhờ đó, họ cũng không phải tiêu tốn nguồn lực của mình vào việc thực hiện tự
kiểm đạo đức. Bào chữa là cách mà cá nhân chối bỏ không nhìn nhận các vấn
đề đạo đức, vì vậy, sự bào chữa cũng có thể xem là một trong những cách giúp
cá nhân giảm thiểu sự tiêu hao nguồn lực của mình vào các vấn đề đạo đức.
Trong khi đó, về mặt hành vi, khi không muốn tiêu hao các nguồn lực của
66
mình, cá nhân sẽ có thể thực hiện nhiều hành vi khác nhau để đối phó với căng
thẳng, trong đó có thể là hành vi phi đạo đức. Hobfoll (2002) cũng nhấn mạnh
rằng bởi vì cá nhân không muốn tiêu hao các nguồn lực của mình, nên họ sẽ chỉ
tiêu hao nguồn lực để giải quyết những vấn đề mà họ cho là có thể giúp họ
chống lại sự mất mát nguồn lực. Trong trường hợp của người bán hàng, nếu họ
cho rằng USB có thể giúp họ chống lại sự mất mát nguồn lực, họ sẽ có thể thực
hiện hành vi này. Ủng hộ lập luận này, nghiên cứu của Fida và cộng sự (2015)
cũng cho thấy khi đối mặt với áp lực công việc càng cao, cá nhân sẽ có sự lo âu
càng cao, và hậu quả là họ cũng có xu hướng càng cao trong việc thực hiện
hành vi phi đạo đức.
Tương tự, thông qua việc khảo sát những người quản lý và nhân viên
(trong đó có người bán hàng), Welsh và cộng sự (2019) đã phát hiện rằng khi
tính thách thức mục tiêu càng cao, cá nhân sẽ có những lo lắng về việc họ có thể
không đạt mục tiêu, và để ngăn ngừa những khả năng thất bại này, họ sẽ có thể
thực hiện các hành vi phi đạo đức. Trước đó, trong nghiên cứu của Welsh và
Ordonez (2014) về những nối kết giữa tính thách thức của mục tiêu và hành vi
phi đạo đức, các tác giả cũng phát hiện được rằng việc theo đuổi những mục
tiêu có tính thách thức cao sẽ khiến cá nhân cạn kiệt các nguồn lực tự kiểm, khi
cá nhân bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm thì họ có xu hướng hành xử phi đạo đức
nhiều hơn. Những lập luận này đã gợi ý cho các giả thuyết:
H6a: mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
trung gian sự lo âu.
H6b: sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
trung gian sự lo âu.
H6c: tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB
thông qua trung gian sự lo âu.
H7a: mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
H7b: sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
67
trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
H7c: tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB
thông qua trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Ở một hướng tiếp cận khác, thuyết SCT cho rằng những hành vi đạo đức/ phi
đạo đức là kết quả của những tương tác giữa các yếu tố bên ngoài và chính nhận
thức của cá nhân (Bandura, 2002). Dưới sự ảnh hưởng của các áp lực công việc, cá
nhân có thể sẽ chối bỏ đạo đức và nhờ đó họ có thể thực hiện hành vi phi đạo đức
mà vẫn thấy rằng hành vi đó là hợp lý (Seriki và cộng sự, 2020), và bào chữa có thể
là một trong những cách chối bỏ đạo đức của cá nhân. Ủng hộ giả định này, Munoz
và Mallin (2019) cũng từng đưa ra giả thuyết cho rằng mâu thuẫn vai trò có thể thúc
đẩy cá nhân bào chữa cho các hành vi phi đạo đức của mình. Mặc dù trong nghiên
cứu Munoz và Mallin (2019), giả thuyết này đã không được ủng hộ, tuy nhiên,
nghiên cứu này cũng đã gợi ý nối kết giữa hai yếu tố.
Tương tự, lược khảo của luận án cũng chưa tìm thấy nghiên cứu nào đề cập
đến nối kết trực tiếp giữa sức ép bán hàng và sự bào chữa, tuy nhiên, các học giả
Tseng và cộng sự (2016) cũng từng quan ngại rằng việc các tổ chức định hướng
vào việc bán hàng sẽ có thể dẫn đến việc người bán hàng bào chữa cho rằng
hành vi tư vấn các sản phẩm bảo hiểm (không phù hợp với khách hàng) là
không có gì nghiêm trọng. Tác giả Barsky (2008) cũng từng đề xuất mô hình,
theo đó, tính thách thức của mục tiêu có thể làm tăng sự chối bỏ đạo đức, trong
đó có sự bào chữa của cá nhân. Dựa vào những lập luận này, những giả thuyết
sau được đề xuất:
H8a: mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến sự bào chữa.
H8b: sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến sự bào chữa.
H8c: tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích cực đến sự bào chữa.
Như đã trình bày ở trên, những kết nối giữa sự bào chữa và hành vi phi
đạo đức có thể được tìm thấy trong thuyết SCT (Bandura, 2002), theo đó, thuyết
này cho rằng sự bào chữa là một trong những yếu tố thúc đẩy hành vi phi đạo
đức (Bandura, 2002). Ủng hộ cho lập luận này, Barsky (2011) đã thực hiện
68
nghiên cứu nhằm phân tích những ảnh hưởng của sự bào chữa đối với hành vi
phi đạo đức, kết quả phát hiện được rằng sự bào chữa làm tăng hành vi phi đạo
đức. Trong tình huống của người bán hàng, có thể suy diễn rằng nếu sự bào
chữa của cá nhân càng lớn, họ sẽ cảm nhận rằng hành vi của họ là ý nghĩa và
phù hợp với công việc, vì vậy, họ sẽ có xu hướng càng lớn trong việc thực hiện
hành vi này. Do đó, ở phần trên, giả thuyết H4c rằng sự bào chữa có ảnh hưởng
tích cực đến USB đã được đề xuất.
Cũng theo thuyết SCT, hành vi đạo đức/ phi đạo đức có thể là kết quả của
những tương tác giữa cá nhân và các yếu tố môi trường bên ngoài. Ủng hộ lập luận
này, Seriki và cộng sự (2020) đã đưa ra mô hình giả định rằng các yếu tố môi
trường bên ngoài gồm sự phức tạp trong tổ chức và môi trường kinh doanh sẽ tác
động đến sự chối bỏ đạo đức, một yếu tố tâm lý của cá nhân, từ đó, làm tăng hành
vi phi đạo đức của cá nhân. Thông qua việc khảo sát 400 người bán hàng trong
ngành bảo hiểm và bất động sản, các tác giả Seriki và cộng sự (2020) đã phát hiện
những phức tạp trong tổ chức và môi trường kinh doanh có thể thúc đẩy sự chối bỏ
đạo đức (bao gồm cả sự bào chữa), từ đó làm tăng hành vi phi đạo đức của người
bán hàng.
Với những giả định từ thuyết SCT, và những khám phá trong nghiên cứu
của Seriki và cộng sự (2020), luận án lập luận rằng với tình huống của người
bán hàng, khi đối mặt với những mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính
thách thức của mục tiêu, người bán hàng có thể suy diễn rằng USB chỉ đơn giản
là những hành vi bán hàng trong kinh doanh, do đó, người bán hàng sẽ có thể
không nhận thấy những thách thức đạo đức mà họ có thể đối mặt. Một khi họ
không nhận diện ra những thách thức đạo đức, họ có thể thực hiện hành vi bán
hàng mà không nghĩ rằng đó là hành vi phi đạo đức (Bandura, 2002). Nói một
cách khác, khi mức độ mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức
của mục tiêu càng tăng, thì sẽ làm tăng sự bào chữa của cá nhân, từ đó, làm tăng
xu hướng thực hiện USB của cá nhân. Dựa vào những lập luận như vậy, giả
thuyết sau được gợi ý:
69
H9a: Mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
trung gian sự bào chữa.
H9b: sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
trung gian sự bào chữa.
H9c: tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB
thông qua trung gian sự bào chữa.
Dựa vào thuyết COR cho rằng các áp lực có thể gây nên những căng thẳng
cho cá nhân, có thể suy diễn rằng các áp lực công việc như mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu càng tăng, thì sẽ làm tăng
những căng thẳng cho cá nhân, trong luận án này, những căng thẳng đó chính là
sự lo âu, và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Khi sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm càng tăng, cá nhân sẽ tìm cách đối phó nhằm bảo tồn nguồn lực của
mình (Hobfoll, 1989).
Như đã nêu ở trên, để không phải tiêu hao nguồn lực nhận thức của mình,
cá nhân sẽ có thể chối bỏ không quan tâm đến những thách thức đạo đức mà họ
đang đối mặt, nhờ đó, họ không cần tiêu hao các nguồn lực của mình để phân
tích những vấn đề đạo đức trong tình huống bán hàng của mình, trong khi đó, sự
bào chữa lại là cách mà cá nhân đã nhận thức rằng hành vi bán hàng của họ
không có gì sai trái, do đó, có thể suy diễn rằng khi sự lo âu và sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm càng tăng thì sự bào chữa cũng sẽ tăng. Như đã lập luận ở
trên, một khi sự bào chữa gia tăng, cá nhân sẽ khó có thể nhận diện ra các thách
thức đạo đức mà họ đang đối mặt, do đó, họ sẽ có thể thực hiện nhiều hành vi
khác nhau, trong đó có cả hành vi phi đạo đức (Bandura, 2002). Từ những giả
thuyết và những lập luận vừa nêu, các giả thuyết sau được đề xuất:
H10a: mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
chuỗi trung gian sự lo âu và sự bào chữa.
H10b: sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
chuỗi trung gian sự lo âu và sự bào chữa.
H10c: tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB
70
thông qua chuỗi trung gian sự lo âu và sự bào chữa.
H11a: mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
chuỗi trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa.
H11b: sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB thông qua
chuỗi trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa.
H11c: tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh hưởng tích cực đến USB
thông qua chuỗi trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa.
Với những giả thuyết đã trình bày ở trên, luận án đề xuất mô hình (hình
2.2), với các biến gồm mâu thuẫn vai trò (RCO), sức ép bán hàng (SPR), tính
thách thức của mục tiêu (GDI), sự lo âu (trong công việc) (ANJ), sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm (EGD), sự bào chữa (MJU), và USB.
71
Theo mô hình này, mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức
của mục tiêu có ảnh hưởng trực tiếp và tích cực với USB. Bên cạnh đó, sự lo âu,
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa là chuỗi trung gian kết nối mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu với USB. Cụ thể,
mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu làm tăng sự
lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự
kiểm làm tăng sự bào chữa, từ đó làm tăng USB.
Bảng 2.3: Tổng hợp các giả thuyết
Giả Giả thuyết được phát triển Phát biểu thuyết và kế thừa từ
H1a Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến Hobfoll (1989, 2002); Chiu và
USB. cộng sự (2015); Tarkiainen và
cộng sự (2016)
H1b* Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến Hobfoll (1989, 2002); Yi và
USB. cộng sự (2012)
H1c* Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích Hobfoll (1989, 2002); Welsh
cực đến USB. và cộng sự (2019)
H2a Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến sự Han và cộng sự (2014);
lo âu. Mérida-López và cộng sự
(2017)
H2b* Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến sự Rodriguez-Escudero và cộng
lo âu. sự (2010)
H2c Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích Jones và Cale (1997);
cực đến sự lo âu. Mawritz và cộng sự (2013)
H3a* Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến sự Alarcon (2011); Barling và
suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Frone (2016); Baumeister và
Vohs (2016)
H3b* Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến sự Baumeister và Vohs (2016)
suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
72
Giả Giả thuyết được phát triển Phát biểu thuyết và kế thừa từ
H3c Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng tích Welsh và Ordonez (2014);
cực đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Baumeister và Vohs (2016)
H4a* Sự lo âu có ảnh hưởng tích cực đến USB. Kouchaki và Desai (2015);
Zhang và cộng sự (2020)
H4b Sự lo âu có ảnh hưởng tích cực đến sự bào Fida và cộng sự (2015)
chữa.
H4c Sự bào chữa có ảnh hưởng tích cực đến Barsky (2011), Fida và cộng
sự (2015) USB.
H4 Sự bào chữa là trung gian trong ảnh hưởng Fida và cộng sự (2015)
của sự lo âu đối với USB.
H5a Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có ảnh hưởng Gino và cộng sự (2011);
tích cực đến USB. Wang và cộng sự (2017)
H5b* Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có ảnh hưởng Baumeister và Vohs (2016);
tích cực đến sự bào chữa. Lee và cộng sự (2016)
H5* Sự bào chữa là trung gian trong ảnh hưởng Baumeister và Vohs (2016);
của sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm đối với Lee và cộng sự (2016)
USB.
H6a Mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (2002); Bandura
cực đến USB thông qua trung gian sự lo (2002); Fida và cộng sự
(2015) âu.
H6b* Sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (2002); Bandura
cực đến USB thông qua trung gian sự lo (2002); Babin và cộng sự
(2000) âu.
H6c* Tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh Hobfoll (2002); Bandura
hưởng tích cực đến USB thông qua trung (2002); Welsh và cộng sự
gian sự lo âu. (2019)
H7a* Mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (2002); Bandura
73
Giả Giả thuyết được phát triển Phát biểu thuyết và kế thừa từ
cực đến USB thông qua trung gian sự suy (2002)
kiệt nguồn lực tự kiểm.
H7b* Sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (2002); Bandura
cực đến USB thông qua trung gian sự suy (2002)
kiệt nguồn lực tự kiểm.
H7c Tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh Hobfoll (2002); Bandura
hưởng tích cực đến USB thông qua trung (2002); Welsh và Ordonez
gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. (2014)
H8a Mâu thuẫn vai trò ảnh hưởng tích cực đến Bandura (2002); Munoz và
sự bào chữa. Mallin (2019)
H8b* Sức ép bán hàng ảnh hưởng tích cực đến Bandura (2002); Tseng và
sự bào chữa. cộng sự (2016); Yi và cộng sự
(2012)
H8c* Tính thách thức của mục tiêu ảnh hưởng Bandura (2002); Barsky
tích cực đến sự bào chữa. (2008)
H9a Mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích Bandura (2002); Seriki và
cực đến USB thông qua trung gian sự bào cộng sự (2020)
chữa.
H9b* Sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích Bandura (2002)
cực đến USB thông qua trung gian sự bào
chữa.
H9c* Tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh Barsky (2008)
hưởng tích cực đến USB thông qua trung
gian sự bào chữa.
H10a* Mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng đến Hobfoll (2002); Bandura
USB thông qua chuỗi trung gian sự lo âu (2002); Chiu và cộng sự
và sự bào chữa. (2015); Mérida-Lospez và
74
Giả Giả thuyết được phát triển Phát biểu thuyết và kế thừa từ
cộng sự (2017)
H10b* Sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (2002); Bandura
cực đến USB thông qua chuỗi trung gian (2002); Yi và cộng sự (2012);
sự lo âu và sự bào chữa. Cheng và cộng sự (2014);
Rodriguez-Escuador và cộng
sự (2010)
H10c* Tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh Hobfoll (2002); Bandura
hưởng tích cực đến USB thông qua chuỗi (2002); Welsh và cộng sự
trung gian sự lo âu và sự bào chữa. (2019); Jone & Cales (1997);
Mawritz và cộng sự (2013)
H11a* Mâu thuẫn vai trò gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (1989); Baumeister
cực đến USB thông qua chuỗi trung gian và Vohs (2016); Alarcon
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào (2011); Barling & Frone
(2016) chữa.
H11b* Sức ép bán hàng gián tiếp ảnh hưởng tích Hobfoll (1989); Baumeister
cực đến USB thông qua chuỗi trung gian và Vohs (2016)
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào
chữa.
H11c* Tính thách thức của mục tiêu gián tiếp ảnh Barsky (2008); Hobfoll
hưởng tích cực đến USB thông qua chuỗi (1989); Baumeister và Vohs
trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (2016); Welsh và Ordonez
và sự bào chữa. (2014)
Ghi chú: (*) giả thuyết chưa được kiểm định ở nghiên cứu trước
Nguồn: Tác giả đề xuất
75
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Thông qua việc lược khảo các nghiên cứu về hành vi phi đạo đức và USB,
chương này đã làm rõ những vấn đề mà luận án có thể tiếp tục tìm hiểu. Bên cạnh
đó, thông qua việc tìm hiểu thuyết COR, thuyết JD-R, và thuyết SCT, chương này
đã trình bày những lập luận để đưa ra các giả thuyết và đề xuất mô hình nối kết
mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu và USB thông qua
các trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa. Bên cạnh
việc kế thừa và kiểm định lại một số giả thuyết, luận án đã lập luận để đề xuất
những giả thuyết khác chưa được kiểm định ở các nghiên cứu trước đây.
Theo đó, mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu
được giả định là những áp lực công việc có ảnh hưởng trực tiếp làm tăng sự bào
chữa và USB. Đồng thời, mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của
mục tiêu cũng ảnh hưởng tích cực đến sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Trong khi đó, sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có ảnh hưởng tích cực đến
sự bào chữa, từ đó làm tăng USB. Cuối cùng, sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự
kiểm, và sự bào chữa được giả định là chuỗi trung gian nối kết mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu và USB.
76
CHƯƠNG 3- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Quy trình nghiên cứu
Hình 3.1 mô tả lại những bước nghiên cứu trong luận án. Theo đó, luận án
thực hiện 3 bước gồm (1) nghiên cứu lý thuyết và đề xuất mô hình, (2) phỏng vấn
và nghiên cứu định lượng sơ bộ, và (3) nghiên cứu định lượng chính thức.
Bước 1:
Ở bước này, luận án thực hiện nghiên cứu các tài liệu lý thuyết, lược khảo
các tài liệu nghiên cứu liên quan đến USB, từ đó đề xuất mô hình.
Kế thừa từ các nghiên cứu trước, luận án cũng tìm kiếm các thang đo đã
77
từng được sử dụng trong các nghiên cứu có mẫu là người bán hàng hoặc người
lao động (nói chung), và thực hiện dịch các thang đo này sang tiếng Việt. Để có
thể đảm bảo các thang đo được dịch lại một cách rõ nghĩa, tác giả thực hiện
dịch các thang đo này, và phác thảo một bản thang đo nháp. Tất cả các thang đo
này đều là thang đo đơn hướng và là thang đo phản ánh (reflective).
Bước 2:
Ở bước 2, luận án thực hiện phỏng vấn, phân tích nội dung định tính và nghiên
cứu sơ bộ nhằm đánh giá thang đo. Với những nghiên cứu liên quan đến hành vi,
phỏng vấn là một phương pháp rất hữu ích trong việc thu thập những nhận định, và
làm rõ những cách hiểu của các cá nhân về một vấn đề (Roman & Munuera, 2005).
Do đó, để tìm hiểu về USB và hiểu hơn những khái niệm trong bối cảnh ngành
BHNT tại Việt Nam, tác giả cũng thực hiện phỏng vấn ba nhóm đối tượng, bao
gồm:
- Người bán hàng trong ngành BHNT: nhằm thu thập những chia sẻ của
họ về công việc bán BHNT. Những người tư vấn bán bảo hiểm là người hiểu rõ
nhất về công việc, và họ là người trải nghiệm rõ ràng nhất về sự lo âu, sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa của người bán hàng trong công việc bán
BHNT. Phỏng vấn người bán hàng trong ngành BHNT là rất quan trọng, bởi lẽ ở
những ngành nghề khác nhau, các áp lực công việc có thể khác nhau, và do đó, cách
hiểu về một vấn đề có thể sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, những thông tin từ những
người bán BHNT có thể giúp luận án hiểu rõ những khái niệm này trong bối cảnh
kinh doanh của ngành BHNT Việt Nam.
- Những giảng viên (người nghiên cứu) có kiến thức chuyên môn về các
nội dung trong nghiên cứu: nhằm thu thập cách hiểu về USB trong ngành
BHNT, cũng như bổ sung và hoàn thiện thang đo cho nghiên cứu.
- Khách hàng đã mua BHNT: nhằm thu nhận các quan niệm của họ về
USB trong ngành BHNT.
Với những thông tin thu thập được từ việc phỏng vấn, luận án tiến hành
phân tích nội dung định tính. Dựa vào gợi ý của Hsieh và Shannon (2005), do
78
mô hình trong luận án đã được xây dựng dựa trên các lý thuyết nền sẵn có, nên
việc phân tích nội dung định tính sẽ được tiếp cận theo cách chỉ dẫn. Theo đó,
dữ liệu được chia nhỏ ra thành các đơn vị ý nghĩa và đơn vị ý nghĩa cô đọng, từ đó
nhóm các đơn vị ý nghĩa này vào các nhóm mã hóa, thể loại và chủ đề đã được định
sẵn (Hsieh & Shannon, 2005; Erlingssona & Brysiewicz, 2017). Kết quả từ việc
phân tích nội dung định tính sẽ giúp người nghiên cứu hiểu hơn các khái niệm trong
bối cảnh ngành BHNT tại Việt Nam. Từ đó, bản khảo sát sơ bộ được hình thành.
Bản khảo sát này được gửi đến người tham gia phỏng vấn (CG3) một lần nữa để thu
nhận ý kiến của họ nhằm hoàn thiện các mục hỏi và trình bày bản khảo sát hoàn
chỉnh hơn.
Luận án thu thập dữ liệu bằng cách khảo sát người đang thực hiện công việc tư
vấn bán các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm của các hãng BHNT tại Việt Nam. Ở bước
này, do mục đích của nghiên cứu sơ bộ là nhằm đánh giá thang đo, nên cỡ mẫu
không cần lớn, chính vì vậy, tác giả thực hiện lấy mẫu thuận tiện với cỡ mẫu là 47.
Mô hình PLS-SEM được áp dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu gần đây,
vì SEM là một kỹ thuật phân tích dữ liệu cho phép kiểm định các quan hệ, biến điều
tiết, biến trung gian, bằng cách mô hình hóa các quan hệ (Hair và cộng sự, 2014).
Thêm vào đó, PLS-SEM có ưu điểm là không đòi hỏi dữ liệu phân phối chuẩn và
tránh được các vấn đề liên quan đến quy mô cỡ mẫu nhỏ (Hair và cộng sự, 2014).
Trong khi đó, phần mềm SmartPLS có ưu điểm là có thể kiểm định đồng thời các
ảnh hưởng trực tiếp và cả các biến trung gian, và có thể ước lượng đồng thời mô
hình đo lường và mô hình cấu trúc. Chính vì vậy, SmartPLS thường được sử dụng
trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực marketing, và hành vi tổ chức (Hair và cộng sự,
2014). Do đó, trong luận án này, việc đánh giá thang đo và kiểm định giả thuyết
được thực hiện với phần mềm SmartPLS. Do các thang đo trong luận án này là
những thang đo phản ánh, các tác giả Hair và cộng sự (2014) đã gợi ý của các bước
thực hiện đánh giá thang đo như sau:
Đánh giá thang đo
Một cấu trúc thang đo có thể có nhiều biến quan sát. Do đó, để đánh giá một
79
thang đo, cần xem xét những tiêu chí sau:
(1) Độ tin cậy: là một giá trị phản ánh mức độ tương quan giữa các biến
quan sát trong thang đo, Cronbach’s alpha là một cơ sở để đánh giá
thang đo có đạt độ tin cậy hay không. Theo đó, một thang đo sẽ thỏa
điều kiện về độ tin cậy khi Cronbach’s alpha đạt từ mức 0,7 trở lên
(Hair và cộng sự, 2014).
(2) Giá trị hội tụ: giá trị AVE và OL là những chỉ số cần xem xét. Theo
đó, một thang đo sẽ thỏa các điều kiện khi hệ số AVE đạt giá trị từ 0,5
trở lên, và các biến quan sát có OL đạt mức từ 0,4 trở lên. Nếu AVE
nhỏ hơn 0,5, cần cân nhắc loại bỏ lần lượt những biến nào có OL nhỏ
hơn 0,7 cho đến khi AVE thỏa điều kiện. Tuy nhiên, cho dù AVE lớn
hơn 0,5, mà có biến quan sát có OL dưới mức 0,4, thì biến này vẫn cần
được loại bỏ (Hair và cộng sự, 2014).
(3) Giá trị phân biệt: có thể được đánh giá dựa vào bảng tỷ lệ dị biệt - đặc
điểm đơn nhất (heterotrait-monotrait ratio- HTMT) (Hair và cộng sự,
2014). Nếu dựa vào bảng giá trị HTMT, các thang đo sẽ thỏa điều kiện
khi các giá trị trong bảng HTMT nhỏ hơn 0,85 (Hair và cộng sự, 2014).
Ngược lại, có thể kết luận các thang đo gần như giống nhau, và đang
cùng đo lường về một khái niệm nào đó (Hair và cộng sự, 2014).
Bước 3:
Ở bước này, luận án thực hiện nghiên cứu chính thức, nhằm đánh giá lại
các thang đo một lần nữa và kiểm định các giả thuyết. Mô hình PLS-SEM và
phần mềm SmartPLS vẫn tiếp tục được sử dụng.
Phỏng theo cách làm của nhiều nghiên cứu trước (Roman & Munuera,
2005; Seriki và cộng sự, 2020), luận án thực hiện khảo sát những người tư vấn
bán BHNT, vì họ là những người thường xuyên gặp mặt, tư vấn và đưa ra
những khuyến nghị mua các sản phẩm BHNT cho khách hàng. Khảo sát người
bán hàng cũng là cách thu thập dữ liệu khá phổ biến trong các nghiên cứu về
đạo đức (McClaren, 2015).
80
Phỏng theo Yang và cộng sự (2018), để giảm sự e ngại của người tham gia
khảo sát, những người tham gia khảo sát được đảm bảo về tính ẩn danh và tính
bảo mật của các câu trả lời của họ. Ngoài ra, phiếu khảo sát cũng nêu rõ rằng
không có câu trả lời nào là đúng hay sai mà chỉ nhằm để nghiên cứu. Điều này
nhằm giúp cho người tham gia khảo sát nhận thức được mục đích của bản khảo
sát, cũng như hạn chế việc người tham gia trả lời không trung thực (Yang và
cộng sự, 2018). Để tăng tính đại diện của mẫu, lấy mẫu hạn ngạch (quota) và
thuận tiện được sử dụng ở bước này, sao cho trong tổng số người tham gia khảo
sát, số người đang tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT tại Bảo Việt phải đạt
khoảng 25%. Do là nghiên cứu chính thức, nên cỡ mẫu cần phải lớn. Các tác giả
Hair và cộng sự (2014) có đề xuất rằng dựa trên thang đo nào có số mục hỏi
nhiều nhất, thì cỡ mẫu thu thập cần lớn gấp 10 lần số mục hỏi này. Trong số các
thang đo, thì thang đo sự lo âu có nhiều mục hỏi nhất, với 8 mục hỏi, như vậy,
cỡ mẫu thu thập cần lớn hơn 80. Như vậy, trong luận án này, mẫu thu thập là
402 người là phù hợp.
Đánh giá thang đo
Đánh giá thang đo được thực hiện lại một lần nữa, với các tiêu chí đánh
giá được gợi ý từ Hair và cộng sự (2014). Như đã đề cập ở trên, thang đo được
đánh giá dựa trên các tiêu chí:
-Độ tin cậy của thang đo: Nếu Cronbach’s alpha đạt từ 0,7 trở lên, thì có
thể khẳng định độ tin cậy của thang đo.
-Giá trị hội tụ: được đánh giá dựa vào AVE và OL. Thang đo sẽ đạt giá trị
hội tụ nếu giá trị AVE đạt giá trị từ 0,5 trở lên, và các biến quan sát có OL đạt
mức từ 0,4 trở lên.
-Giá trị phân biệt: được đánh giá dựa vào giá trị HTMT. Theo đó, các
thang đo sẽ thỏa điều kiện khi các giá trị trong bảng HTMT nhỏ hơn 0,85.
Đánh giá mô hình
Mô hình được đánh giá qua các giá trị R2, f2 và Q2. Đáng chú ý, riêng đối
với PLS-SEM, để đánh giá khả năng tiên đoán của mô hình, cần xem xét giá trị
81
Q2, vì đây là giá trị chỉ xuất hiện trong PLS-SEM. Ở bước này, kỹ thuật
blindfolding được sử dụng để để tính toán hệ số Q2. Nếu Q2 lớn hơn 0 thì có thể
chấp nhận khả năng tiên đoán của mô hình (Hair và cộng sự, 2014).
Kiểm định giả thuyết
Do mô hình có những biến trung gian, vì vậy, việc kiểm định bao gồm kiểm
định các ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp.
Để kiểm định các biến trung gian, có thể thực hiện kiểm định Sobel mà Baron
và Kenny đã đề xuất, theo đó, khi cả ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp thỏa mức ý
nghĩa, thì có thể khẳng định về vai trò trung gian một phần của biến trung gian,
trong khi đó, nếu ảnh hưởng trực tiếp không thỏa mức ý nghĩa và ảnh hưởng gián
tiếp thỏa mức ý nghĩa, thì có thể khẳng định về vai trò trung gian toàn phần của biến
trung gian (Zhao và cộng sự, 2010). Tuy nhiên, Zhao và cộng sự (2010) lập luận
rằng có thể đơn giản hóa việc kiểm định biến trung gian bằng cách thực hiện kỹ
thuật lấy mẫu ngẫu nhiên lặp lại (bootstrapping) và xác định xem liệu ảnh hưởng
gián tiếp có thỏa mức ý nghĩa hay không. Theo đó, Zhao và cộng sự (2010) đề xuất
rằng:
-Nếu ảnh hưởng gián tiếp không thỏa mức ý nghĩa, mà ảnh hưởng trực tiếp
thỏa mức ý nghĩa thì cần xem lại mô hình và biến trung gian có thể không phù hợp.
Nếu ảnh hưởng gián tiếp và ảnh hưởng trực tiếp cùng không thỏa mức ý nghĩa thì
xem như không có quan hệ gì giữa các biến.
-Nếu ảnh hưởng gián tiếp thỏa mức ý nghĩa, cần xét tiếp:
+ Nếu ảnh hưởng trực tiếp không thỏa mức ý nghĩa, thì có thể khẳng định về
vai trò trung gian toàn phần của biến trung gian (Zhao và cộng sự, 2010).
+ Nếu ảnh hưởng trực tiếp thỏa mức ý nghĩa, và các ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp đều cùng chiều thì có thể khẳng định về vai trò trung gian bổ sung của
biến trung gian.
+ Nếu ảnh hưởng trực tiếp thỏa mức ý nghĩa, nhưng ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp trái chiều nhau thì có thể khẳng định về vai trò trung gian cạnh tranh của
biến trung gian.
82
Lợi thế của SmartPLS là có thể kiểm định đồng thời các ảnh hưởng trực tiếp
và gián tiếp. Hơn nữa, đối với phần mềm SmartPLS, bất kể là kiểm định ảnh hưởng
trực tiếp hay gián tiếp, kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên lặp lại (bootstrapping) phải
được tiến hành để kiểm định giả thuyết (Hair và cộng sự, 2014). Các học giả Hair
và cộng sự (2014) cũng đề xuất cần thực hiện cỡ mẫu lặp lại là 5000 quan sát (n =
5000) ở các nghiên cứu chính thức. Với những lợi thế của smartPLS, luận án thực
hiện kiểm định các biến trung gian dựa trên gợi ý của Zhao và cộng sự (2010).
Các mức ý nghĩa 1%, 5%, và 10% cũng được Hair và cộng sự (2014) đề nghị
lựa chọn để đưa ra quyết định chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết, tuy nhiên, mức ý
nghĩa 5% thường được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu, còn mức ý nghĩa
10% thường được sử dụng cho các nghiên cứu khám phá, và mức ý nhĩa 1% được
sử dụng khi các nghiên cứu muốn kiểm định các quan hệ một cách nghiêm ngặt
(Hair và cộng sự, 2014). Vì vậy, trong luận án này, mức ý nghĩa 5% được lựa chọn
để đưa ra quyết định chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết.
3.2 Cơ sở lựa chọn phương pháp
Như đã đề cập trước đó, trong lược khảo của Ameer và Halinen (2019) về các
tài liệu nghiên cứu hành vi phi đạo đức trong bán hàng, định lượng là phương pháp
phổ biến nhất, trong khi đó, phương pháp định tính chỉ được áp dụng trong số ít
nghiên cứu (Ameer và Halinen, 2019).
Tuy nhiên, trong những bối cảnh xã hội khác nhau, những quan niệm nhận
thức của con người đối với cùng một vấn đề vẫn có thể có nhiều khác biệt. Chính vì
vậy, cho dù nghiên cứu cùng một vấn đề, phương pháp định tính vẫn rất hữu ích
trong việc giúp hiểu rõ hơn những khái niệm khi nghiên cứu ở những trường hợp
ngành nghề hay bối cảnh khác nhau. Trong đó, phỏng vấn là phương pháp rất hữu
ích để thu thập những nhận định, quan điểm của các cá nhân về một vấn đề, từ đó có
thể giúp hiểu rõ hơn về khái niệm (Roman & Munuera, 2005). Theo cách này,
một số học giả đã thực hiện phỏng vấn người bán hàng, khách hàng, người quản
lý bán hàng, bằng cách lấy mẫu thuận tiện, nhằm giúp hiểu rõ hơn các khái niệm và
có thể điều chỉnh các từ ngữ trong bản khảo sát sao cho phù hợp và rõ nghĩa hơn
83
(Roman & Munuera, 2005; Munoz & Mallin, 2019).
Trong khi đó, định lượng là một phương pháp có thể giúp kiểm định mô hình
và đưa ra những số liệu thống kê và lượng hóa rõ ràng. Với phương pháp này, khảo
sát người bán hàng là một trong những cách thu thập dữ liệu rất phổ biến trong
các nghiên cứu về đạo đức bán hàng (McClaren, 2015). Ví dụ, nghiên cứu của
Roman và Munuera (2005) đã thực hiện khảo sát 280 người bán hàng trong ngành
BHNT và tín dụng nhằm nghiên cứu về USB. Gần đây, các tác giả Seriki và cộng
sự (2020) cũng thực hiện khảo sát 400 người bán hàng trong ngành bảo hiểm và bất
động sản để nghiên cứu về các dạng hành vi phi đạo đức của người bán hàng đối
với doanh nghiệp và khách hàng. Lấy mẫu thuận tiện cũng là cách lấy mẫu được
sử dụng nhiều nhất trong những nghiên cứu này (McClaren, 2015). Đơn cử như
trong nghiên cứu của Cupach và Carson (2002), các tác giả đã khảo sát người bán
hàng trong ngành bảo hiểm, và lấy mẫu thuận tiện với mẫu 336 người.
Bởi những ý nghĩa bổ sung cho nhau, phương pháp định tính và định lượng
thường được khuyến khích sử dụng kết hợp trong trong các nghiên cứu thuộc lĩnh
vực marketing (Robert và cộng sự, 2011). Nghiên cứu của Roman và Munuera
(2005) là một trong số ít các nghiên cứu về USB đã áp dụng cả hai phương pháp
này (Ameer & Halinen, 2019). Theo đó, các tác giả Roman và Munuera (2005) đã
thực hiện nghiên cứu định tính bằng cách phỏng vấn những người bán hàng nhằm
hiểu biết hơn về các khái niệm trong bối cảnh ngành bảo hiểm và ngành tín dụng tại
Thụy Điển. Bên cạnh đó, các tác giả cũng thực hiện nghiên cứu định lượng bằng
cách khảo sát những người bán hàng (Roman & Munuera, 2005).
Phỏng theo các nghiên cứu trước, luận án này áp dụng phương pháp định
tính bằng cách phỏng vấn, và ba nhóm đối tượng được mời phỏng vấn bao gồm
(1) những những người bán BHNT, (2) giảng viên (người nghiên cứu), và (3)
khách hàng đã mua BHNT, nhằm giúp hiểu rõ hơn các khái niệm trong bối cảnh
ngành BHNT tại Việt Nam. Đồng thời, các giảng viên cũng có thể góp ý để
giúp luận án hoàn thiện thang đo và điều chỉnh từ ngữ nhằm giúp các phát biểu
trong bản khảo sát rõ nghĩa hơn.
84
Bên cạnh đó, phương pháp định lượng cũng được thực hiện bằng việc khảo
sát người tư vấn bán BHNT đang làm việc cho các hãng BHNT tại Việt Nam. Dữ
liệu thu thập được sẽ là cơ sở để đánh giá thang đo và kiểm định các giả thuyết.
Với ba bước nghiên cứu như trên, phần tiếp theo của chương này sẽ trình
bày các mục gồm tìm thang đo và hình thành thang đo nháp, phỏng vấn và phân
tích nội dung định tính, hình thành bản khảo sát (sơ bộ), nghiên cứu sơ bộ để
đánh giá thang đo, hình thành bản khảo sát chính thức và chọn đối tượng khảo
sát và thực hiện khảo sát để thu thập dữ liệu phục vụ nghiên cứu chính thức. Kết
quả của nghiên cứu chính thức sẽ được trình bày trong chương 4.
3.3 Tìm thang đo và hình thành thang đo nháp
Các thang đo cho các khái niệm được tìm kiếm từ các nghiên cứu trước và lựa
chọn sao cho thang đo phù hợp với nghiên cứu. Tổng cộng có 7 khái niệm, với 7
cấu trúc thang đo.
Tất cả các thang đo này là thang đo đơn hướng và là thang đo phản ánh. Các
thang đo được dịch sang tiếng Việt, và được hỏi lại người tham gia phỏng vấn để
đảm bảo những từ ngữ được dịch lại có thể rõ nghĩa và phù hợp với ngành BHNT
tại Việt Nam. Các biến quan sát của thang đo và lý do lựa chọn thang đo được trình
bày ở phần bên dưới.
3.3.1 Thang đo USB
Có nhiều thang đo đo lường hành vi phi đạo đức nói chung, như thang đo của
Barsky (2011), thang đo của Roman và Ruiz (2005), và thang đo của Roman và
Munuera (2005). Tuy nhiên, thang đo của Barsky (2011) đo lường các dạng hành vi
phi đạo đức nói chung, mà không tập trung vào USB. Trong khi đó, thang đo của
Roman và Ruiz (2005) mặc dù tập trung vào USB của người bán hàng, nhưng các
mục hỏi trong thang đo này nhằm khảo sát khách hàng về hành vi bán hàng của
người bán hàng.
Ở một nghiên cứu khác, các học giả Roman và Munuera (2005) đã thực hiện
phỏng vấn những người bán hàng để phát triển một thang đo Likert với 3 phát biểu.
Ngoài việc phỏng vấn, các tác giả cũng thực hiện khảo sát người bán hàng và đề
85
nghị họ tự đánh giá về hành vi của mình, và kết quả cho thấy thang đo đạt độ tin cậy
cao (Roman và Munuera, 2005). Do luận án dự định khảo sát người bán hàng trong
ngành BHNT, để họ tự đánh giá về hành vi bán hàng của họ, nên thang đo của
Roman và Munuera (2005) được lựa chọn.
3.3.2 Thang đo mâu thuẫn vai trò
Thang đo của Rod và cộng sự (2008) được sử dụng để đo lường những cảm
nhận của cá nhân về mâu thuẫn vai trò trong công việc của người bán hàng. Đây là
thang đo được các tác giả Rod và cộng sự (2008) áp dụng trong nghiên cứu về mâu
thuẫn vai trò trong công việc của những người nhân viên dịch vụ khách hàng, với
nhiệm vụ tương tác, giao tiếp thường xuyên với khách hàng. Do tính phù hợp của
mẫu thu thập cũng là những người bán hàng, những người chịu trách nhiệm tư vấn,
tương tác thường xuyên với khách hàng, nên thang đo này được lựa chọn.
3.3.3 Thang đo sức ép bán hàng
Một số thang đo có thể được cân nhắc để đo lường sức ép bán hàng, ví dụ như
thang đo của Babin và cộng sự (2000), thang đo của Yi và cộng sự (2012). Trong
đó, thang đo của Babin và cộng sự (2000) dùng để đánh giá những cảm nhận của cá
nhân về những phương thức bán hàng trong tổ chức. Đây là thang đo được Babin và
cộng sự (2000) phát triển nhằm đo lường môi trường đạo đức của tổ chức gắn liền
với đặc thù của lĩnh vực kinh doanh và marketing.
Trong khi đó, thang đo của Yi và cộng sự (2012) được áp dụng để đo lường
những cảm nhận của cá nhân về sức ép bán hàng trong tổ chức của họ. Thang đo
này đã được áp dụng để đo lường sức ép bán hàng trong công việc của nhân viên tư
vấn bán hàng qua điện thoại ngành BHNT trong chính nghiên cứu của Yi và cộng
sự (2012). Do tính phù hợp của đề tài là USB trong ngành BHNT, luận án này quyết
định sử dụng thang đo của Yi và cộng sự (2012) để đo lường sức ép bán hàng. Như
đã trình bày, đây là một thang đo đơn hướng và là thang đo phản ánh, với 3 mục hỏi
được trình bày như bên dưới.
3.3.4 Thang đo tính thách thức của mục tiêu
Do luận án tập trung vào mục tiêu trong công việc bán hàng nên thang đo 3 mục
86
hỏi của Fang và cộng sự (2004) được sử dụng. Thang đo này vốn được phát triển
bởi Fang và cộng sự (2004) để đo lường những cảm nhận của người bán hàng về
tính thách thức của mục tiêu kết quả cuối cùng trong công việc bán hàng (ví dụ như
doanh số, thị phần) khi nghiên cứu về hành vi bán hàng linh hoạt, và sự nỗ lực của
người bán hàng, và cho thấy độ tin cậy cao (Fang và cộng sự, 2004). Do luận án
muốn tập trung vào mục tiêu kết quả (như doanh số) trong công việc tư vấn bán
BHNT, và luận án cũng khảo sát người bán hàng, nên thang đo này được chọn.
3.3.5 Thang đo sự lo âu
Một số thang đo có thể được cân nhắc để đo lường sự lo âu, ví dụ như thang đo
của Schmalbach và cộng sự (2020), hoặc của McCarthy và cộng sự (2016). Trong
đó, thang đo của Schmalbach và cộng sự (2000) dùng để đánh giá những lo âu của
cá nhân trong công việc với 14 mục hỏi. Tuy nhiên, để phát triển thang đo này, các
tác giả Schmalbach và cộng sự (2000) đã thu thập mẫu là những bệnh nhân, và do
thang đo này cũng chỉ mới được phát triển, nên chưa được kiểm định trong các
nghiên cứu khác. Trong khi đó, thang đo của McCarthy và cộng sự (2016) đã được
kiểm định trong các nghiên cứu và cho thấy độ tin cậy cao. Cụ thể, McCarthy và
cộng sự (2016) đã sử dụng thang đo này để đánh giá sự lo âu của những người nhân
viên làm việc tại văn phòng cảnh sát và cho thấy thang đo phù hợp.
Trong một nghiên cứu khác, Chen và cộng sự (2017) đã dùng thang đo này để
đánh giá những lo âu của người lao động khi nghiên cứu về hành vi phi đạo đức của
họ. Thông qua việc khảo sát 439 người lao động, thang đo này đã khẳng định độ tin
cậy cao với Cronbach’s alpha đạt 0,87 (Chen và cộng sự, 2017). Thêm vào đó,
thang đo này có 8 phát biểu, sẽ ít gây mệt mỏi cho đáp viên. Chính vì vậy, luận án
này lựa chọn thang đo của McCarthy và cộng sự (2016) để đánh giá sự lo âu trong
công việc của người tư vấn bán BHNT.
3.3.6 Thang đo sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
Có một số thang đo đo lường sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, như thang đo của
Tangney và cộng sự (2004) và gần đây là thang đo của Lindner và cộng sự (2019).
Tuy nhiên, thang đo của Tangney và cộng sự (2004) có nhiều phát biểu (13 phát
87
biểu), và điều này có thể khiến cho bảng khảo sát quá dài, gây mệt mỏi cho đáp
viên. Trong khi đó, Lindner và cộng sự (2019) đã phát triển một thang đo rút gọn (5
mục hỏi) và đã sử dụng thang đo này để phân tích những thay đổi trong nguồn lực
tự kiểm và nỗ lực tham dự bài kiểm tra của 1840 người học tại Đức, kết quả cũng
cho thấy thang đo phù hợp để đo lường sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm của cá nhân.
Trong luận án này, nhằm tránh việc đáp viên cảm thấy mệt mỏi vì bản khảo sát quá
dài, thang đo của Lindner và cộng sự (2019) được sử dụng.
3.3.7 Thang đo sự bào chữa
Luận án sử dụng thang đo sự bào chữa được phát triển bởi Barsky (2011).
Trong nghiên cứu của Barsky (2011), thang đo này đã được phát triển với 4
phát biểu nhằm đo lường hành vi phi đạo đức của sinh viên ngành kinh doanh
(Barsky, 2011). Thang đo này cũng đã được sử dụng trong nghiên cứu của
Niven và Healy (2015) về sự bào chữa và hành vi phi đạo đức trong kinh
doanh. Do tính phù hợp của đề tài là hành vi bán hàng, và đối tượng khảo sát
sẽ là những người bán bảo hiểm, nên thang đo này được lựa chọn. Đây là thang
đo Likert, với 4 phát biểu được trình bày như bảng phía dưới. Từ những thang
đo này, bản thang đo nháp được hình thành, và được tổng hợp lại như sau:
Bảng 3.1: Bảng tổng hợp các thang đo nháp
Khái niệm Nguồn Các phát biểu
USB Roman USB1. Nếu tôi không chắc chắn rằng sản phẩm của mình
và có phù hợp với khách hàng không, tôi vẫn cố gắng tạo
Munuera sức ép để họ mua sản phẩm.
(2005) USB2. Tôi có thể nói dối về sự cạnh tranh để làm cho sản
phẩm của mình hấp dẫn với khách hàng.
USB3.Tôi có thể nói dối một chút về các tính năng của
sản phẩm dịch vụ bảo hiểm để bán được hàng.
Mâu thuẫn Rod và RCO1. Đôi khi tôi phải lách một số quy định để thực
vai trò cộng sự hiện các công việc nhiệm vụ của mình.
(2008) RCO2. Tôi thường phải làm những việc mà người này
88
Khái niệm Nguồn Các phát biểu
muốn, người kia không muốn.
RCO3. Tôi cảm thấy mình phải làm hài lòng quá nhiều
người khác nhau.
Sức ép bán Yi và SPR1. Công ty tạo ra những sức ép bán hàng ngay cả khi
hàng cộng sự các sản phẩm bảo hiểm không hoàn toàn phù hợp với
(2012) khách hàng.
SPR2. Công ty luôn tìm cách tạo ra áp lực thúc đẩy nhân
viên phải bán được hàng.
SPR3. Chúng tôi được đào tạo rằng không cần tìm hiểu
khách hàng cần sản phẩm gì, mà chỉ cần cố gắng thuyết
phục khách hàng mua sản phẩm.
Tính thách Fang và GDI1. Các mục tiêu kinh doanh của tôi rất khó để đạt
thức của cộng sự được.
mục tiêu (2004) GDI2. Không quá khó để có thể đạt được các mục tiêu
kinh doanh (-).
GDI3. Nhìn chung, các mục tiêu kinh doanh của tôi rất
thách thức.
Sự lo âu McCarthy ANJ1. Tôi bị choáng ngợp bởi những suy nghĩ làm việc
và cộng kém hiệu quả.
sự (2016) ANJ2. Tôi lo lắng rằng hiệu suất công việc của tôi sẽ
thấp hơn đồng nghiệp.
ANJ3. Tôi cảm thấy lo lắng và sợ hãi vì không thể gặp
mục tiêu hoạt động.
ANJ4. Tôi rất lo lắng nếu không nhận được những đánh
giá tích cực về kết quả công việc.
ANJ5. Tôi thường lo lắng rằng mình không thể hoàn
thành nhiệm vụ trong thời gian cho phép.
ANJ6. Tôi lo lắng về việc liệu người khác có nhìn nhận
89
Khái niệm Nguồn Các phát biểu
tôi là nhân viên thích hợp cho công việc hay không.
ANJ7. Tôi lo lắng rằng tôi sẽ không thể quản lý thành
công các yêu cầu công việc.
ANJ8. Ngay cả khi tôi cố gắng hết sức có thể, tôi vẫn lo
lắng về việc liệu hiệu suất công việc của tôi có đủ tốt hay
không.
Sự suy kiệt Lindner EGD1. Tôi thấy kiệt sức.
nguồn lực và cộng EGD2. Tôi cảm thấy bình tĩnh và lý trí (-).
tự kiểm sự (2019) EGD3. Tôi cảm thấy nhạy bén và tập trung (-).
EGD4. Tôi cảm thấy như sức mạnh ý chí của tôi không
còn nữa.
EGD5. Tôi cảm thấy lười biếng.
Sự bào Barsky MJU1. Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự thật để giúp
chữa (2011) công ty của bạn không gặp khó khăn.
MJU2. Nếu điều đó giúp bạn thực hiện công việc của
mình, thì việc bạn lừa dối khách hàng cũng không sao.
MJU3. Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự thật để bảo vệ
công ty của mình.
MJU4. Nếu một nhân viên cần phải phóng đại sự thật để
thực hiện công việc của họ, họ không thể bị đổ lỗi là đã
nói dối.
Nguồn: tác giả tổng hợp
3.4 Phỏng vấn
3.4.1 Mẫu phỏng vấn
Việc chọn mẫu phỏng vấn để thu thập dữ liệu định tính là rất quan trọng,
và tùy thuộc vào đề tài nghiên cứu mà có thể mẫu phỏng vấn sẽ rất khác nhau.
Riêng đối với các nghiên cứu về hành vi người lao động, việc phỏng vấn những
người đang tham gia vào công việc là một cách có thể giúp người nghiên cứu
90
thu thập được những thông tin đáng giá (Roman & Munuera, 2005; Guenzi và
cộng sự, 2015). Theo đó, nghiên cứu của Guenzi và cộng sự (2015) đã thực hiện
phỏng vấn người bán hàng để tìm hiểu những quan điểm của họ về hành vi vì tổ
chức (organizational citizenship behavior). Liên quan đến đề tài phi đạo đức,
các tác giả Roman và Munuera (2005) đã thực hiện nghiên cứu định tính bằng
cách phỏng vấn những người bán hàng nhằm hiểu biết hơn về các khái niệm
nghiên cứu trong bối cảnh ngành bảo hiểm và ngành tín dụng tại Thụy Điển.
Trong khi đó, nghiên cứu của Roman và Ruiz (2005) lại phỏng vấn khách hàng
để tìm hiểu về USB.
Phỏng theo nghiên cứu của Roman và Munuera (2005), trong luận án này,
lấy mẫu thuận tiện được thực hiện. Với đối tượng nghiên cứu là USB của người
bán hàng, việc phỏng vấn những người đã và đang bán hàng là rất cần thiết, bởi
lẽ, họ sẽ là người hiểu rõ nhất về công việc bán hàng của mình. Liên quan đến
các áp lực công việc, những người tư vấn bán bảo hiểm là những người hiểu rõ
nhất về những mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu
trong công việc bán bảo hiểm. Họ cũng là người trải nghiệm rõ nhất về những
căng thẳng trong công việc, nhờ đó, họ có thể cung cấp những cách hiểu của họ
về những khái niệm trong luận án. Theo đó, luận án tìm kiếm những người tư
vấn bán các sản phẩm BHNT bằng cách truy cập vào các trang mạng xã hội
(facebook) để biết thông tin sơ bộ của họ (như sản phẩm BHNT họ đang bán, số
năm kinh nghiệm hoặc thời gian họ đã công tác tại hãng BHNT, email hoặc số
điện thoại của họ). Những người có thâm niên trên 1 năm tư vấn bán BHNT
được cho là những người phù hợp, vì họ có hiểu biết về những chính sách quản
lý của hãng BHNT, và đã trải nghiệm hoạt động bán hàng, do đó, họ có thể có
những chia sẻ rõ ràng. Những người phù hợp này sẽ được gửi thư, gọi điện,
hoặc gửi tin nhắn để giới thiệu về mục đích nghiên cứu và được mời tham gia
phỏng vấn. Mặc dù luận án đã gửi lời mời phỏng vấn đến 8 người, nhưng chỉ có
5 người đồng ý trả lời phỏng vấn.
Ngoài những người có kinh nghiệm thực tế, việc phỏng vấn những người
91
có kiến thức chuyên môn hoặc có nghiên cứu về những nội dung liên quan (luận
án xác định những người này thường là giảng viên hoặc nhà nghiên cứu) sẽ giúp
luận án có cái nhìn khách quan và khái quát hóa được vấn đề về mặt học thuật,
nhờ đó giúp làm rõ các khái niệm. Theo đó, luận án thực hiện tìm kiếm người
phù hợp bằng cách truy cập các trang internet, tìm kiếm các bài báo với từ khóa
“chuyên gia”, “BHNT”, “bảo hiểm”, “áp lực công việc” và “đạo đức”, qua đó,
luận án có thể thu được thông tin sơ bộ, như họ tên, nơi công tác, lĩnh vực
nghiên cứu, thâm niên, thông tin liên lạc của những người này. Dựa vào những
thông tin sơ bộ này, những người có thâm niên trên 1 năm sẽ được lập danh
sách, và nghiên cứu sinh sẽ gửi thư cho những người trong danh sách này để
giới thiệu về nghiên cứu và mời họ tham gia phỏng vấn. Mặc dù luận án đã gửi
lời mời phỏng vấn đến 6 người, nhưng chỉ có 4 người đồng ý tham gia.
Ngoài ra, việc phỏng vấn những người mua BHNT cũng có thể giúp luận
án thu nhận được quan điểm, cách hiểu của người khách hàng về USB trong
ngành BHNT. Dựa trên sự giới thiệu của các đồng nghiệp, luận án cũng có thêm
thông tin liên lạc của một số khách hàng đã từng mua BHNT. Dựa vào đó,
nghiên cứu sinh gửi thư hoặc gọi điện để giới thiệu với họ về nghiên cứu và mời
họ tham gia phỏng vấn. Mặc dù có nhiều khách hàng đã từng mua BHNT, tuy
nhiên, một số người không chia sẻ, hoặc một số người chia sẻ rằng trước khi mua
BHNT, họ đã tìm hiểu thông tin sản phẩm, và đề nghị người tư vấn BHNT không tư
vấn gì thêm ngoài sản phẩm họ muốn, do đó, họ chưa trải nghiệm về USB. Chính vì
vậy, mặc dù có 5 người được mời tham gia phỏng vấn, chỉ có 3 người đã trải
nghiệm về hành vi tư vấn bán BHNT.
Như vậy, qua nhiều lần mời phỏng vấn, có 12 người chấp nhận tham gia
phỏng vấn, gồm 4 giảng viên có kiến thức chuyên môn hoặc có nghiên cứu về
những vấn đề liên quan đến nội dung luận án, 5 người bán hàng là những người tư
vấn bán các sản phẩm BHNT của các hãng BHNT tại Việt Nam, và 3 người khách
hàng đã mua sản phẩm BHNT. Xét về cơ cấu độ tuổi, có 3 người tham gia phỏng
vấn có độ tuổi trong khoảng 41 tuổi trở lên (đạt tỷ lệ 25,00%), tất cả những người
92
còn lại có độ tuổi trong khoảng 31-40 tuổi (đạt tỷ lệ 75,00 %). Xét về cơ cấu giới
tính, có 5 người tham gia phỏng vấn là nữ (đạt tỷ lệ 41,67%), những người còn lại
là nam (đạt tỷ lệ 58,33%).
Bảng 3.2: Danh sách người được phỏng vấn
Mã hóa người Mô tả về người được phỏng vấn được phỏng vấn
CG1 Tham gia giảng dạy về bảo hiểm
Học viện Bảo hiểm và quản trị rủi ro tài chính (IFRM)
CG2 Tham gia giảng dạy về bảo hiểm và tài chính ngân hàng.
CG3 Tham gia giảng dạy về bảo hiểm.
CG4 Tham gia giảng dạy về bảo hiểm, tài chính.
Tham gia tư vấn chương trình kinh tế tài chính bảo hiểm,
đã tham gia chương trình tư vấn của Đài phát thanh Việt
Nam (VOV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV)
Thành viên ban biên tập Thời báo Nữ Doanh Nhân
CG5 Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của hãng
AIA
CG6 Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của hãng
Manulife
CG7 Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của hãng
Manulife
CG8 Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của hãng
AIA
CG9 Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của hãng
AIA
CG10 Khách hàng đã mua BHNT của hãng Prudential
CG11 Khách hàng đã mua BHNT của hãng Manulife
CG12 Khách hàng đã mua BHNT của hãng AIA
Nguồn: tác giả tổng hợp
93
3.4.2 Nội dung phỏng vấn
Những người tham gia phỏng vấn sẽ được thiết lập lịch hẹn và người nghiên
cứu sẽ chuẩn bị các thiết bị hỗ trợ, như điện thoại để ghi âm, bút, giấy để ghi chú,
và bản câu hỏi. Các cuộc phỏng vấn trực tiếp được thực hiện bằng cách quay phim,
ghi âm, hoặc ghi chú bằng giấy (trong điều kiện người tham gia phỏng vấn không
chấp nhận cho quay phim và ghi âm vì những lý do cá nhân). Địa điểm phỏng vấn
là tại cơ quan của người tham gia phỏng vấn và tại các quán cà phê. Thời gian
phỏng vấn trung bình từ 30 đến 60 phút.
Phỏng vấn qua thư điện tử, hoặc điện thoại cũng được thực hiện trong
trường hợp người tham gia không có thời gian tham gia phỏng vấn quá lâu, và
họ muốn được trả lời như vậy. Tuy nhiên, phỏng vấn trực tiếp là cách được sử
dụng nhiều nhất (10 người), và phương pháp này cũng cho thấy người tham gia
có khuynh hướng tập trung trả lời vào câu hỏi. Ngoài ra cũng có 1 người tham
gia phỏng vấn qua thư điện tử, và 1 người tham gia phỏng vấn qua điện thoại.
Các buổi phỏng vấn được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 6/2019 đến
tháng 3/2020.
Liên quan đến nội dung phỏng vấn, phỏng vấn bán cấu trúc được thực
hiện đối với những người đang thực hiện công việc tư vấn bán các sản phẩm
BHNT. Cuộc phỏng vấn được bắt đầu bằng những câu hỏi mở nhằm tạo sự
thoải mái cho người được phỏng vấn, ví dụ như: Về công việc của mình, ông/ bà
đang cảm nhận như thế nào về công việc này? Sau đó là những câu hỏi như: Ông/
bà có thể chia sẻ để mọi người hiểu rõ hơn về công việc và tính chất ngành
nghề của mình không? Ngoài ra, đối với các giảng viên (người nghiên cứu),
phỏng vấn bán cấu trúc được thực hiện, bằng cách dựa theo danh mục các câu hỏi
(đã được thiết kế sẵn) liên quan đến USB và các khái niệm. Trong khi đó, với
những người khách hàng đã mua các sản phẩm BHNT, phỏng vấn bán cấu trúc
được thực hiện, bằng cách dựa theo danh mục các câu hỏi (đã được thiết kế sẵn)
nhằm thu thập cách hiểu của họ về USB.
Với việc phỏng vấn nhiều nhóm đối tượng như vậy, luận án có thể thu nhận
94
được nhiều góc nhìn khác nhau về USB trong ngành BHNT tại Việt Nam. Nhờ
đó, kết quả phỏng vấn có thể giúp hiểu rõ hơn các khái niệm trong bối cảnh ngành
BHNT tại Việt Nam.
3.4.3 Kết quả phỏng vấn
Những ghi nhận từ các cuộc phỏng vấn cho thấy những quan điểm, nhận định
của người tham gia phỏng vấn về USB trong ngành BHNT gần như phù hợp với
định nghĩa về USB đã được nêu ra ở chương 2. Điều quan trọng hơn, qua các cuộc
phỏng vấn, các yếu tố mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục
tiêu, sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa được phát hiện có liên
quan đến USB (Tham khảo thêm phụ lục 2, 3, 4, 5, 6, 7). Phần dưới đây trình bày
những kết quả thu được với từng câu hỏi và phần trả lời từ những người tham gia
phỏng vấn, với ba nhóm là những người tư vấn bán BHNT, những giảng viên
(người nghiên cứu) và những khách hàng đã từng mua bảo BHNT:
3.4.3.1 Kết quả phỏng vấn người tư vấn bán BHNT
Câu hỏi 1: Về công việc của mình, ông bà đang cảm nhận như thế nào về
công việc này?
Câu hỏi này là câu hỏi mở đầu, nhằm để tìm hiểu những căng thẳng của người
bán hàng trong công việc của họ. Phần lớn các đáp viên (60,00%) đều cho rằng
công việc này áp lực. Ví dụ, một người bán hàng đã trình bày rằng Thực sự rất áp
lực. Một người bán hàng khác cũng chia sẻ cảm giác thất vọng và chán nản với
công việc. Trong khi đó, một người khác (20,00%) đã chia sẻ thêm rằng họ lo lắng
về việc có thể không đạt các chỉ tiêu công việc, với phần trả lời như sau: Thực sự
công việc bán bảo hiểm rất áp lực, lúc nào cũng phải lo lắng sợ mình không đạt
mấy cái chỉ tiêu công việc, rồi lo sợ mình bị sa thải vì không đạt chỉ tiêu, làm thua
kém đồng nghiệp.
Câu hỏi 2. Mong ông/ bà có thể chia sẻ để mọi người hiểu hơn về tính
chất công việc và ngành nghề của mình không?
Câu hỏi này nhằm hỏi sâu hơn về những áp lực công việc mà người tư vấn
bán bảo hiểm phải đối mặt. Với câu hỏi này, tất cả những người tham gia phỏng vấn
95
cho rằng một trong những áp lực công việc là hoàn thành các mục tiêu doanh số bán
hàng. Ví dụ, một người tư vấn bán bảo hiểm (37 tuổi) đã trả lời rằng Bản thân tôi và
đồng nghiệp luôn phải chịu áp lực để hoàn thành chỉ tiêu. Một người khác đã chia
sẻ rõ hơn về nội dung này rằng họ bị áp lực bởi các hãng bảo hiểm tăng các chỉ tiêu
doanh số: Mình đều thấy các công ty giao doanh số cao dần. Ngoài ra, một người
khác cũng chia sẻ rằng công việc của họ có những mâu thuẫn trong công việc, cụ
thể với phần trả lời như sau: Nhiều khi họ bị giao nhiều công việc mâu thuẫn nhau,
không biết rõ mình là nhân viên tư vấn bảo hiểm hay là người bán bảo hiểm nữa.
Câu hỏi 3. Ông/ bà nhìn nhận như thế nào về các dạng hành vi bán hàng
như kêu gọi khách hàng mua bảo hiểm mà không cần biết sản phẩm đó có thực
sự cần thiết với khách hàng không, không nói hết thông tin với khách hàng,
không tư vấn giải thích hết từ ngữ trong hợp đồng (không giải thích rõ hợp
đồng, dẫn đến những hiểu nhầm của khách hàng).
Câu hỏi này nhằm làm rõ những quan điểm của người tư vấn bán hàng về các
hành vi bán hàng. Với câu hỏi này, một người đã trả lời rằng người bán hàng có thể
dụ dỗ khách hàng, và việc làm này có thể bị hãng BHNT cắt giấy hành nghề nếu bị
phát hiện, với phần trả lời như sau: Có, chắc chắn. Theo luật bảo hiểm của Việt
Nam, và của công ty luôn, là họ cấm, hoặc nếu phát hiện ra là bị cắt giấy hành
nghề luôn. Trong khi đó, một người khác cho rằng việc không tư vấn đầy đủ cho
khách hàng có thể do người bán hàng có nghiệp vụ yếu kém. Ngoài ra, một người
khác cũng đồng tình rằng việc không nói hết thông tin với khách hàng là một USB,
với phần trả lời như sau: Một dạng bán hàng phi đạo đức trong ngành BHNT là họ
không cung cấp đầy đủ thông tin mà khách hàng cần biết.
Bảng 3.3: Kết quả phỏng vấn người tư vấn bán BHNT
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
1.Về công việc của Hụt hẫng 1/5 Nhiều nhân viên lúc vào Sự suy
mình, ông bà đang cảm thì tinh thần đang lên ngút kiệt
nhận như thế nào về ngàn, nhưng sau đó họ sẽ nguồn
96
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
công việc này? đối diện với sự thật hụt lực tự
hẫng. kiểm
Thất vọng 1/5 Nhiều lúc mình cảm thấy Sự suy
và chán nản rất thất vọng và chán nản. kiệt
nguồn
lực tự
kiểm
Áp lực 3/5 Thực sự rất áp lực. Sự lo âu
Lo lắng 1/5 … lúc nào cũng phải lo Sự lo âu
lắng sợ mình không đạt
mấy cái chỉ tiêu công việc,
rồi lo sợ mình bị sa thải vì
không đạt chỉ tiêu, làm
thua kém đồng nghiệp.
2.Mong ông/ bà có thể mục tiêu 5/5 Mình đều thấy các công ty Tính
chia sẻ để mọi người (doanh số giao doanh số cao dần. thách
hiểu hơn về tính chất bán hàng) thức của
công việc và ngành mục tiêu
nghề của mình không? Công việc 1/5 Nhiều khi họ bị giao nhiều Mâu
mâu thuẫn công việc mâu thuẫn nhau, thuẫn
không biết rõ mình là nhân vai trò
viên tư vấn bảo hiểm hay
là người bán bảo hiểm nữa
mức độ 1/5 …số khác không bán được Sức ép
sàng lọc hàng hay không theo nổi bán
97
Tần Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề
suất
sẽ bị văng ra. Ngành này hàng
có mức độ sàng lọc rất
cao.
3.Ông/ bà nhìn nhận Dụ dỗ 1/5 Có, chắc chắn. Theo luật
bảo hiểm của Việt Nam, như thế nào về các
và của công ty luôn, là họ dạng hành vi bán hàng
cấm, hoặc nếu phát hiện ra như:
là bị cắt giấy hành nghề - Kêu gọi khách hàng
luôn. mua bảo hiểm mà
không cần biết sản không cung 1/5 Một dạng bán hàng phi USB
phẩm đó có thực sự cấp đầy đủ đạo đức trong ngành
cần thiết với khách thông tin BHNT là họ không cung
hàng không. cấp đầy đủ thông tin mà
-Không nói hết thông khách hàng cần biết
tin với khách hàng.
-Không tư vấn giải
thích hết từ ngữ trong
hợp đồng (không giải
thích rõ hợp đồng, dẫn
đến những hiểu nhầm
của khách hàng).
Nguồn: tác giả tổng hợp
3.4.3.2 Kết quả phỏng vấn giảng viên (người nghiên cứu)
Câu hỏi 1: Mong Ông/ Bà có thể chia sẻ cách hiểu của mình về USB?
Câu hỏi này nhằm để thu thập quan điểm của những giảng viên (nhà nghiên
cứu) về USB, bởi những nhà giảng viên (người nghiên cứu) sẽ có cái nhìn khác với
người tư vấn bán bảo hiểm về hành vi này. Với câu hỏi này, phần lớn những người
98
được phỏng vấn (75,00%) đều cho rằng USB là hành vi không nói hết thông tin cho
khách hàng về sản phẩm. Ví dụ, một người đã trình bày như sau: Đối với khách
hàng, người bán bảo hiểm có thể thực hiện hành vi phi đạo đức như không nói hết
thông tin cho khách hàng về sản phẩm bảo hiểm. Luật cũng quy định rằng hành vi
này là vi phạm pháp luật.
Một người khác cũng đồng quan điểm về việc người bán BHNT có thể không
cung cấp thông tin, cụ thể là giải thích rõ hợp đồng, cụ thể như sau: Đối với các
thuật ngữ trong hợp đồng, họ cũng không giải thích rõ ràng cho khách hàng. Người
này cũng chia sẻ thêm rằng người tư vấn bán BHNT chỉ dựa vào mức chiết khấu
cao của sản phẩm để tư vấn cho khách hàng nhằm giúp người tư vấn hưởng được
mức chiết khấu này, cụ thể như sau Người bán bảo hiểm thường tư vấn theo cách
dựa trên mức hoa hồng của gói bảo hiểm để mời gọi khách hàng mua hàng. Do
người bán bảo hiểm sẽ được chiết khấu theo doanh số bán bảo hiểm, nên họ thường
tư vấn cho khách hàng những gói sản phẩm bảo hiểm có giá trị cao, để người bán
bảo hiểm được phần tiền chiết khấu cao. Chỉ đến khi nào không bán được các gói
sản phẩm giá trị cao, họ mới giới thiệu tư vấn những gói sản phẩm cơ bản của bảo
hiểm.
Ngoài ra, cũng có một người (25,00%) gợi ý thêm USB là hành vi dụ dỗ khách
hàng mua sản phẩm hoặc nói xấu đối thủ cạnh tranh: Một điển hình là các hành vi
như cứ cố gắng dụ dỗ khách hàng mua sản phẩm để đạt doanh số hiện tại, hoặc
như nói xấu đối thủ cạnh tranh để làm cho sản phẩm của mình rất đẹp đối với
khách hàng.
Câu hỏi 2. Theo Ông/ Bà, những yếu tố nào có thể thúc đẩy hành vi này?
Câu hỏi này nhằm thu thập những yếu tố ảnh hưởng đến USB. Với câu hỏi
này, đa phần những người được phỏng vấn (50,00%) cho rằng sức ép bán hàng là
yếu tố thúc đẩy USB, và các hãng có thể tạo sức ép bán hàng bằng các chính sách sa
thải nếu người bán hàng không đạt mục tiêu bán hàng. Ví dụ, một người đã chia sẻ
như sau: Nhân viên bán bảo hiểm hay bán sản phẩm tài chính, hay các sản phẩm
hàng hóa nào cũng vậy, họ phải đạt mục tiêu doanh số. Nếu không đạt thì họ bị đưa
99
vào danh sách không đạt doanh số mục tiêu, nhiều tháng mà không đạt thì có thể bị
sa thải.
Trong khi đó, một người tham gia phỏng vấn (25,00%) cho rằng lỗi từ hãng
BHNT khi các chương trình đào tạo bán hàng quá nhấn mạnh nhiệm vụ bán hàng:
Nhiều khi cũng từ lỗi do các công ty bảo hiểm. Họ chỉ đào tạo người bán bảo hiểm
có vài buổi, mà mấy buổi này chỉ tập trung nhiều vào đào tạo cách bán hàng, nên
người bán bảo hiểm cứ cố gắng bán hàng thôi. Bên cạnh đó, một người khác (25%)
lại cho rằng do các vai trò của người tư vấn bán BHNT không được xác định rõ
ràng: Đôi khi họ phải thực hiện nhiều vai trò nhân viên bán hàng và tư vấn viên
không rõ ràng.
Câu hỏi 3. Liệu có khả năng một người thực hiện hành vi đó mà họ chỉ
nghĩ rằng kinh doanh là phải vậy, nhiệm vụ của họ chỉ đơn giản là phải bán
hàng?
Câu hỏi này nhằm giúp luận án thu nhận các quan điểm của các giảng viên
(người nghiên cứu) về sự bào chữa của người bán hàng, liệu rằng người bán hàng
có nghĩ rằng hành vi của họ chỉ đơn giản là hành vi để hoàn thành công việc kinh
doanh hay không. Có hai người đã chia sẻ về vấn đề này (hai người còn lại không
bày tỏ quan điểm), và cả hai người đều cho rằng do áp lực công việc nên người bán
hàng chỉ tập trung bán hàng và họ gần như không quan tâm đến các khía cạnh đạo
đức, nên họ có thể thực hiện USB nhưng bản thân họ cũng không biết rằng họ đang
thực hiện USB. Ví dụ, một người đã chia sẻ như sau: … ít khi nào họ nghĩ rằng có
đúng là hành vi của họ là giá trị và ý nghĩa cao cả như vậy hay không.
Bảng 3.4: Kết quả phỏng vấn giảng viên (người nghiên cứu)
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
1. Mong Ông/ Không nói hết 3/4 …người bán bảo hiểm có USB
Bà có thể chia thông tin thể thực hiện hành vi phi
sẻ cách hiểu của đạo đức như không nói
mình về USB. hết thông tin cho khách
100
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
hàng về sản phẩm bảo
hiểm…
Dụ dỗ khách 1/4 Một điển hình là các hành USB
hàng vi như cứ cố gắng dụ dỗ
khách hàng mua sản
phẩm để đạt doanh số
hiện tại…
Nói xấu đối 1/4 … hoặc như nói xấu đối USB
thủ thủ cạnh tranh để làm cho
sản phẩm của mình rất
đẹp đối với khách hàng.
2.Theo Ông/ Theo đuổi 2/4 Nhân viên bán bảo Sức ép bán
Bà, những yếu mục tiêu hiểm hay bán sản phẩm hàng
tố nào có thể doanh số bán tài chính, hay các sản
thúc đẩy hành hàng phẩm hàng hóa nào cũng
vi này? vậy, họ phải đạt mục tiêu
doanh số. Nếu không đạt
thì họ bị đưa vào danh
sách không đạt doanh số
mục tiêu, nhiều tháng mà
không đạt thì có thể bị sa
thải.
Đào tạo chỉ 1/4 Họ chỉ đào tạo người bán Sức ép bán
tập trung vào bảo hiểm có vài buổi, mà hàng
bán hàng mấy buổi này chỉ tập
trung nhiều vào đào tạo
cách bán hàng, nên người
101
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
bán bảo hiểm cứ cố gắng
bán hàng thôi.
Vai trò không 1/4 Đôi khi họ phải thực hiện Mâu thuẫn
rõ ràng nhiều vai trò nhân viên vai trò
bán hàng và tư vấn viên
không rõ ràng.
3. Liệu có khả Có 2/2 ….ít khi nào họ nghĩ rằng Sự bào
có đúng là hành vi của họ chữa năng một người
là giá trị và ý nghĩa cao thực hiện hành
cả như vậy hay không vi đó mà họ chỉ
nghĩ rằng kinh
doanh là phải
vậy, nhiệm vụ
của họ chỉ đơn
giản là phải bán
hàng?
Nguồn: tác giả tổng hợp
3.4.3.3 Kết quả phỏng vấn khách hàng
Câu hỏi 1: Ông/ bà đã từng mua một sản phẩm dịch vụ bảo hiểm của
hãng BHNT nào chưa? Trải nghiệm của Ông/ bà sau khi mua như thế nào?
Đây là câu hỏi mở đầu, nhằm khai thác thêm góc nhìn của khách hàng về quá
trình tư vấn bán hàng, để luận án có thể thu thập được những hành vi bán hàng nào
mà người bán hàng hay sử dụng. Bởi khách hàng có thể trải nghiệm rõ ràng nhất về
hành vi này, nên họ có thể đưa ra ý kiến khác với người tư vấn bán hàng và những
giảng viên (người nghiên cứu). Với câu hỏi này, mỗi người đã có những chia sẻ
khác nhau, theo đó, một người tham gia phỏng vấn cho rằng họ cảm giác người tư
vấn bán hàng đã không tư vấn đầy đủ cho họ, và có thể nguyên nhân là do người tư
102
vấn cũng chưa hiểu kỹ hợp đồng. Cụ thể, người này chia sẻ rằng: Khi mua thì họ có
tư vấn, nhưng có vẻ người tư vấn cũng không nắm rõ hết các điều khoản trong hợp
đồng. Bên cạnh đó, người này cũng chia sẻ thêm rằng họ nhận thấy người tư vấn
bán hàng có xu hướng làm sản phẩm hấp dẫn, cụ thể người này chia sẻ như sau: Lúc
họ tư vấn cho mình, thì mình thấy rất hay, nhưng hiện giờ thì tôi thấy có nhiều gói
bảo hiểm của những hãng khác tốt hơn. Ngoài ra, một người khác cho rằng họ cảm
giác người tư vấn đang cố thuyết phục họ mua bảo hiểm, cụ thể, người này phát
biểu rằng: … tôi cảm giác người bán hàng thì họ phải cố gắng thuyết phục mình để
mua hàng thôi.
Câu hỏi 2. Mong Ông/ Bà có thể chia sẻ cách hiểu của mình về USB trong
ngành BHNT?
Câu hỏi này nhằm hỏi sâu hơn về quan điểm của khách hàng về USB. Với câu
hỏi này, một người (33,33%) được phỏng vấn có chia sẻ rằng USB là việc người tư
vấn bán hàng không nói đúng những thông tin cần thiết. Theo đó, người này đã chia
sẻ như sau: Người bán bảo hiểm có thể nói rằng sản phẩm bảo hiểm của công ty rất
tốt, tôi sẽ nhận được hỗ trợ khi cần thiết, nhưng có thể thông tin của họ không đúng
sự thật. Bên cạnh đó, một người khác cho rằng USB là việc người tư vấn đã cố gắng
thuyết phục họ mua bảo hiểm bằng nhiều cách dù rằng họ đã không muốn mua. Cụ
thể, người này chia sẻ rằng: … mặc dù tôi đã nói là tôi mua bảo hiểm rồi, nhưng mà
nhân viên của ngân hàng cứ nói về bảo hiểm, rồi họ tự cho rằng bảo hiểm của tôi
chỉ mới bảo hiểm sức khỏe.
Ngoài ra, một người khác (33,33%) lại có quan điểm cho rằng USB là việc
người tư vấn bán hàng không nói hết những thông tin cần thiết (mà khách hàng cần
phải biết) trong, và điều này khiến họ nghĩ rằng họ bị thiệt hại khi xảy ra sự cố.
Theo đó, người này đã chia sẻ như sau: …hợp đồng ghi là giải quyết trong 90 ngày,
sau 90 ngày sẽ trả lãi theo lãi suất ngân hàng. Nhưng sau này tôi có việc phải dùng
đến bảo hiểm, tôi mới phát hiện rằng hợp đồng không ghi thời gian tối đa sau 90
ngày thì bao nhiêu ngày sẽ bị phạt hợp đồng dân sự. Người bình thường đâu phải ai
cũng nắm rõ các kẽ hở này.
103
Bảng 3.5: Kết quả phỏng vấn khách hàng
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
1. Ông/ bà đã người tư vấn 1/3 … Khi mua thì họ có tư
từng mua một không nắm rõ vấn, nhưng có vẻ người tư
sản phẩm dịch vẫn tư vấn vấn cũng không nắm rõ
vụ bảo hiểm hết các điều khoản trong
của hãng hợp đồng.
BHNT nào Nói quá về 1/3 Lúc họ tư vấn cho mình,
chưa? Trải sản phẩm để thì mình thấy rất hay,
nghiệm của làm sản phẩm nhưng hiện giờ thì tôi
Ông/ bà sau hấp dẫn thấy có nhiều gói bảo
khi mua như hiểm của những hãng
thế nào? khác tốt hơn
Người bán 1/3 … tôi cảm giác người bán
hàng cố gắng hàng thì họ phải cố gắng
thuyết phục thuyết phục mình để mua
khách hàng hàng thôi.…
mua bảo hiểm
Chưa hiểu kỹ 1/3 …Nhưng đến khi có bệnh,
hợp đồng tôi mới thấy rằng mình
chưa tìm hiểu kỹ
2.Mong Ông/ Thông tin 1/3 Người bán bảo hiểm có USB
Bà có thể chia không đúng thể nói rằng sản phẩm
sẻ cách hiểu của sự thật bảo hiểm của công ty rất
mình về USB tốt, tôi sẽ nhận được hỗ
trong ngành trợ khi cần thiết, nhưng
BHNT? có thể thông tin của họ
không đúng sự thật.
104
Câu hỏi Trả lời Trích dẫn minh họa Chủ đề Tần
suất
Thuyết phục 1/3 …mặc dù tôi đã nói là tôi USB
khách hàng mua bảo hiểm rồi, nhưng
mua hàng dù mà nhân viên của ngân
khách hàng hàng cứ nói về bảo hiểm,
không cần rồi họ tự cho rằng bảo
hiểm của tôi chỉ mới bảo
hiểm sức khỏe…
Không thông 1/3 …hợp đồng không ghi USB
tin đầy đủ cho thời gian tối đa sau 90
khách hàng ngày thì bao nhiêu ngày
sẽ bị phạt hợp đồng dân
sự…
Nguồn: tác giả tổng hợp
3.5 Phân tích nội dung định tính
Phân tích nội dung định tính là một phương pháp diễn giải nội dung của
văn bản dữ liệu thông qua việc xác định và mã hóa các danh mục, nhằm cung
cấp kiến thức và hiểu biết về vấn đề nghiên cứu (Hsieh & Shannon, 2005, trang
1278). Phân tích nội dung định tính được áp dụng nhiều trong các nghiên cứu xã
hội, bởi nó có thể giúp giải thích ý nghĩa từ những dữ liệu (Hsieh & Shannon,
2005). Phân tích nội dung định tính đòi hỏi phải tập trung vào các nội dung dữ
liệu văn bản, bao gồm lời nói, văn bản in, hoặc dữ liệu điện tử (Hsieh &
Shannon, 2005).
3.5.1 Các cách tiếp cận
Theo các học giả Hsieh & Shannon, (2005), có 3 cách tiếp cận trong phân
tích nội dung định tính, bao gồm (1) thông thường (conventional), (2) tóm tắt
(summative), và (3) chỉ dẫn (directed), với sự khác biệt cơ bản như sau:
Tiếp cận bằng cách thông thường: được dùng để mô tả hiện tượng, rất
105
phù hợp trong những trường hợp lý thuyết nền hoặc tài liệu nghiên cứu bị hạn
chế.
Tiếp cận bằng cách tóm tắt được bắt đầu bằng việc xác định và định
lượng một số từ hoặc nội dung trong văn bản. Theo đó, cách tiếp cận này bao
gồm việc đếm số lần xuất hiện của các từ và tìm kiếm những ý nghĩa tiềm ẩn
dưới những từ ngữ, nội dung này. Phương pháp này đòi hỏi kinh nghiệm của
người nghiên cứu.
Tiếp cận bằng cách chỉ dẫn được áp dụng trong các nghiên cứu đã có lý
thuyết nền. Cách tiếp cận này có thể giúp người nghiên cứu tìm kiếm thêm
những mô tả mới, khẳng định hay mở rộng lý thuyết, giúp xác nhận mối liên hệ
giữa các biến sẵn có.
Do trong luận án này, lý thuyết nền đã được xác định, người nghiên cứu
muốn thực hiện phỏng vấn nhằm kiểm tra lại những khái niệm định nghĩa được
đưa ra có phù hợp với những quan điểm và cách hiểu của những người tham gia
không, đồng thời nhằm hiểu rõ hơn các khái niệm này trong trường hợp ngành
BHNT tại Việt Nam, vì vậy, phân tích dữ liệu bằng cách tiếp cận chỉ dẫn được
sử dụng (Hsieh & Shannon, 2005). Cách tiếp cận này được bắt đầu bằng cách xác
định các khái niệm hoặc các biến như các danh mục đã được mã hóa từ ban đầu.
Từng cấu trúc khái niệm sẽ được định nghĩa dựa trên các tài liệu lý thuyết trước
đây. Bước tiếp theo là thực hiện mã hóa tất cả các đoạn được tô sáng bằng cách
sử dụng các mã được xác định trước. Việc làm này giúp người nghiên cứu cô
đọng các nhóm mã hóa (Hsieh & Shannon, 2005).
3.5.2 Chia nhỏ văn bản thành các đơn vị ý nghĩa và mã hóa
Dựa vào gợi ý của Erlingssona và Brysiewicz (2017), thay vì sử dụng các phần
mềm, có thể thực hiện làm sáng các nội dung và các đoạn văn bản có nội dung mô
tả được ý nghĩa của những cấu trúc khái niệm đã được mã hóa. Ban đầu, các đoạn
văn bản được chia nhỏ ra thành các đơn vị ý nghĩa và đơn vị ý nghĩa cô đọng, sau
đó, nhóm các đơn vị ý nghĩa này vào các nhóm mã hóa, thể loại (hoặc khái niệm) và
chủ đề đã được định sẵn (Erlingssona & Brysiewicz, 2017).
106
Bảng 3.6: Đơn vị ý nghĩa và đơn vị ý nghĩa cô đọng
Đơn vị ý nghĩa Đơn vị ý nghĩa cô đọng
Họ thường tư vấn cho khách hàng những gói sản Muốn bán sản phẩm giá
phẩm bảo hiểm có giá trị cao, để người bán bảo trị cao mà không cần quan
hiểm được phần tiền chiết khấu cao. Chỉ đến khi tâm sản phẩm có thực sự
nào không bán được các gói sản phẩm giá trị cao, cần thiết với khách hàng
họ mới giới thiệu tư vấn những gói sản phẩm cơ không
bản của bảo hiểm
Người bán bảo hiểm có thể thực hiện hành vi phi Không nói hết thông tin
đạo đức như không nói hết thông tin cho khách về sản phẩm bảo hiểm
hàng về sản phẩm bảo hiểm. Luật cũng quy định
rằng hành vi này là vi phạm pháp luật
Nếu trong tương lai hành vi đó gây nên những Dụ dỗ khách hàng mua
thiệt hại cho doanh nghiệp, cho khách hàng, thì sản phẩm để đạt doanh số
hành vi đó có thể là hành vi phi đạo đức. Một điển hiện tại và nói xấu đối thủ
hình là các hành vi như cứ cố gắng dụ dỗ khách cạnh tranh để làm cho sản
hàng mua sản phẩm để đạt doanh số hiện tại, hoặc phẩm của mình rất đẹp đối
như hành vi như nói xấu đối thủ cạnh tranh để làm với khách hàng
cho sản phẩm của mình rất đẹp đối với khách
hàng.
Không nêu cho khách hàng những thông tin mà Không nói hết thông tin
khách hàng cần biết, ví dụ như những kẽ hở của mà khách hàng cần biết
hợp đồng
Hợp đồng không ghi thời gian tối đa sau 90 ngày Không giải thích nội dung
thì bao nhiêu ngày sẽ bị phạt hợp đồng dân sự hợp đồng rõ ràng
Khách hàng sẽ dễ lầm tưởng rằng sản phẩm bảo Cố gắng nói tốt về sản
hiểm của công ty này, công ty nọ rất tốt phẩm
Các tổ chức chủ yếu chỉ quan tâm doanh số, nhân Các tổ chức chỉ quan tâm
107
Đơn vị ý nghĩa Đơn vị ý nghĩa cô đọng
viên nào bán được nhiều thì người đó giỏi doanh số bán hàng
Họ chỉ đào tạo người bán bảo hiểm có vài buổi, Tập trung vào đào tạo bán
mà mấy buổi này chỉ tập trung nhiều vào đào tạo hàng
cách bán hàng
Các chính sách siết chặt lại làm cho các cấp quản Sức ép phải bán được
lý, đại lý phải chạy doanh số hàng
Doanh nghiệp thường đưa ra những viễn cảnh làm Đưa ra viễn cảnh làm giàu
giàu để khuyến khích nhân viên bán bảo hiểm để khuyến khích bán bảo
hiểm
Các công ty cứ khuyến khích nhân viên bán Tập trung đào tạo bán
hàng…. đào tạo nhân viên nhưng chỉ là tập trung hàng
đào tạo bán hàng
Doanh số là một trong những tiêu chí quan trọng Chỉ tiêu doanh số cao
để đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên kinh
doanh bảo hiểm, nên đứng ở góc độ quản lý, các
hãng bảo hiểm đương nhiên thường đặt ra mục tiêu
doanh số rất cao
Các công ty giao doanh số cao dần Chỉ tiêu doanh số cao
Các tổ chức thường đặt ra các mục tiêu doanh số Chỉ tiêu doanh số cao
bán bảo hiểm rất cao, để nhân viên chạy theo các
mục tiêu doanh số
Số khác không bán được hàng hay không theo nổi Mức độ sàng lọc rất cao
sẽ bị văng ra….mức độ sàng lọc rất cao
Không biết rõ mình là nhân viên tư vấn bảo hiểm Mâu thuẫn giữa vai trò
hay là người bán bảo hiểm người tư vấn hay là người
bán hàng
Phải thực hiện nhiều vai trò nhân viên bán hàng và Không rõ vai trò ý nghĩa
108
Đơn vị ý nghĩa Đơn vị ý nghĩa cô đọng
tư vấn viên không rõ ràng công việc
Có thể sẽ căng thẳng và áp lực Căng thẳng và áp lực
Lo lắng mình không đạt doanh số Lo lắng không đạt doanh
số
Lúc nào cũng phải lo lắng sợ mình không đạt mấy Lo lắng không hoàn thành
cái chỉ tiêu công việc công việc
Lo lắng bị đánh giá là bán hàng dở Lo lắng bị đánh giá dở
thua kém đồng nghiệp Lo sợ thua đồng nghiệp
Lúc vào thì tinh thần đang lên ngút ngàn, nhưng Tinh thần giảm sút, hụt
sau đó họ sẽ đối diện với sự thật hụt hẫng hẫng
Họ sẽ thường hô hào rằng tổ chức của họ là tốt, Hành vi mang lại giá trị
công việc của họ thành công, họ đang mang lại giá cho khách hàng
trị cho khách hàng.
Cũng giống những ngành kinh doanh khác, đa cấp Cũng giống những ngành
thì nơi nào cũng đa cấp kinh doanh khác
Nguồn: tác giả tổng hợp
Dựa vào các đơn vị ý nghĩa cô đọng ở bảng trên, các đơn vị ý nghĩa này sẽ
được nhóm vào các nhóm mã hóa, thể loại và chủ đề đã được định sẵn.
Bảng 3.7: Bảng mã hóa
Đơn vị ý nghĩa cô đọng Mã hóa Thể loại Chủ đề
Các tổ chức chỉ quan tâm Quan tâm việc bán
doanh số bán hàng hàng
Tập trung vào đào tạo bán hàng Quan tâm việc bán Sức ép bán Áp lực hàng hàng
Sức ép phải bán được hàng Phải bán được hàng
Đưa ra viễn cảnh làm giàu để Quan tâm việc bán
109
Đơn vị ý nghĩa cô đọng Mã hóa Thể loại Chủ đề
khuyến khích bán bảo hiểm hàng
Tập trung đào tạo bán hàng Quan tâm việc bán
hàng
Mức độ sàng lọc rất cao Rất khó đạt mục tiêu Tính thách
thức của Chỉ tiêu doanh số cao Mục tiêu thách thức
mục tiêu
Mâu thuẫn giữa vai trò người Mâu thuẫn vai trò
tư vấn hay là người bán hàng Mâu thuẫn
vai trò Không rõ vai trò ý nghĩa công Không rõ vai trò ý
việc nghĩa công việc
Căng thẳng và áp lực Căng thẳng
Lo lắng không đạt doanh số Lo lắng không đạt
Lo lắng không hoàn thành Lo lắng không hoàn
công việc thành Sự lo âu Lo lắng bị đánh giá dở lo lắng bị đánh giá Căng kém thẳng Lo sợ thua đồng nghiệp Lo sợ thua đồng
nghiệp
Tinh thần giảm sút, hụt hẫng Không muốn làm gì Sự suy kiệt
nữa nguồn lực tự
kiểm
Hành vi mang lại giá trị cho Hành vi có ý nghĩa Cách khách hàng Sự bào chữa đối phó Cũng giống những ngành kinh Công việc bán hàng là bảo tồn doanh khác phải như vậy nguồn Muốn bán sản phẩm giá trị cao Không cần biết sản lực USB mà không cần quan tâm sản phẩm có phù hợp với
110
Đơn vị ý nghĩa cô đọng Mã hóa Thể loại Chủ đề
phẩm có thực sự cần thiết với khách hàng không
khách hàng không
Không nói hết thông tin về sản Không nói hết thông
phẩm bảo hiểm tin
Dụ dỗ khách hàng mua sản Làm cho sản phẩm
phẩm để đạt doanh số hiện tại dịch vụ hấp dẫn
và nói xấu đối thủ cạnh tranh
để làm cho sản phẩm của mình
rất đẹp đối với khách hàng
Không giải thích nội dung hợp Không giải thích rõ
đồng rõ ràng
Cố gắng nói tốt về sản phẩm Làm cho sản phẩm
dịch vụ hấp dẫn
Nguồn: tác giả tổng hợp
3.6 Thảo luận kết quả nghiên cứu định tính
Nhằm để hiểu rõ hơn về những khái niệm trong bối cảnh ngành BHNT tại Việt
Nam, luận án đã thực hiện nghiên cứu định tính bằng cách phỏng vấn những người
tư vấn bán BHNT, giảng viên (người nghiên cứu) trong ngành bảo hiểm và những
người khách hàng đã mua BHNT và phân tích nội dung định tính.
Việc phỏng vấn đã giúp luận án thu thập được những quan điểm và cách hiểu
của những người tham gia về USB. Không chỉ có thế, việc phỏng vấn còn giúp luận
án ghi nhận được những câu chuyện bán hàng và những trải nghiệm thực tế của
người tư vấn bán BHNT trong công việc bán hàng, và những trải nghiệm của người
khách hàng về tình huống mua BHNT. Bên cạnh đó, kết quả phân tích nội dung
định tính cũng cho thấy các khái niệm gần như phù hợp với cách hiểu của những
người tham gia phỏng vấn, cụ thể như sau:
111
USB
Những người bán hàng và những người khác hàng đều nhìn nhận USB (trong
ngành BHNT) như là những hành vi không nói hết các thông tin của sản phẩm mà
khách hàng cần phải biết, hành vi nói dối về các tính năng sản phẩm, hoặc là hành
vi dụ dỗ nhằm làm cho sản phẩm dịch vụ hấp dẫn. Khái niệm USB (như đã trình
bày ở trên) cũng phù hợp với những nhìn nhận này.
Mâu thuẫn vai trò
Theo những người bán hàng, mâu thuẫn vai trò được phản ánh qua việc họ
cảm thấy không rõ vai trò ý nghĩa công việc, hoặc họ cảm thấy mâu thuẫn giữa vai
trò người tư vấn hay người bán hàng. Những phản ánh này cũng cho thấy khái niệm
về mâu thuẫn vai trò (như đã trình bày ở trên) là phù hợp.
Sức ép bán hàng
Theo những giảng viên được mời phỏng vấn, sức ép bán hàng có thể đến từ
việc các tổ chức quá nhấn mạnh vào nhiệm vụ bán hàng trong các chương trình đào
tạo. Ngoài ra, những chia sẻ của người bán hàng đã góp phần mô tả về sức ép bán
hàng trong công việc tư vấn bán bảo hiểm, rằng các tổ chức của họ thường thúc ép
họ phải bán được hàng, và thường chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng là họ có bán
được hàng hay không. Những mô tả này cũng phù hợp với khái niệm về sức ép bán
hàng (như đã trình bày ở trên).
Tính thách thức của mục tiêu
Người bán hàng đã mô tả về tính thách thức của mục tiêu như là việc họ rất
khó đạt được mục tiêu bán hàng. Bên cạnh đó, một số giảng viên cũng đồng ý cho
rằng những mục tiêu bán hàng (như doanh số bán hàng) có thể là nguyên nhân của
USB. Những mô tả này cũng cho thấy khái niệm về tính thách thức của mục tiêu
(như đã trình bày trong luận án) là phù hợp.
Sự lo âu
Theo những mô tả của người bán hàng, họ đã trải nghiệm sự lo âu trong công
việc bán hàng, như căng thẳng, lo lắng không đạt doanh số và không hoàn thành
mục tiêu, lo lắng bị đánh giá kém và lo sợ thua đồng nghiệp. Những mô tả này cũng
112
cho thấy khái niệm về sự lo âu (như đã trình bày trong luận án) là phù hợp.
Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
Người bán hàng đã mô tả rằng họ thường trải nghiệm việc bị giảm sút tinh
thần, hụt hẫng và không muốn làm gì nữa. Những mô tả này cũng cho thấy khái
niệm về tính thách thức của mục tiêu (như đã trình bày trong luận án) là phù hợp.
Sự bào chữa
Qua những chia sẻ của người bán hàng, có thể thấy rằng họ thường bào chữa
cho USB của mình với những bào chữa như hành vi của họ là hành vi có ý nghĩa,
mang lại giá trị cho khách hàng, và công việc bán hàng là phải như vậy. Những bào
chữa này cũng cho thấy người bán hàng đã nhận thức rằng hành vi bán hàng của họ
(dù đó là USB) vẫn là hành vi có ý nghĩa và không có gì sai trái. Điều này cũng cho
thấy khái niệm về sự bào chữa (như đã trình bày trong luận án) là phù hợp.
Như vậy, thông qua việc phỏng vấn và phân tích nội dung định tính, luận án đã
thu thập được những chia sẻ của người tư vấn bán BHNT về những áp lực công việc
và những trải nghiệm của họ trong công việc, nhờ đó giúp mô tả rõ hơn những áp
lực công việc, (gồm mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục
tiêu) hiện đang diễn ra trong thực tế, qua đó, góp phần giải thích về tác động của
những áp lực công việc này đối với những căng thẳng (sự lo âu và sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm) và những cách đối phó để bảo tồn nguồn lực của người bán hàng (gồm
sự bào chữa và USB).
3.7 Điều chỉnh thang đo và hình thành bản khảo sát sơ bộ
Dựa vào những phân tích ở trên, luận án thiết kế bản khảo sát sơ bộ. Bản khảo
sát này được gửi đến những người tham gia phỏng vấn một lần nữa, để họ góp ý
về các phát biểu, ví dụ như các phát biểu có rõ nghĩa không, có sai lỗi gì không.
Qua đó, một số phát biểu được điều chỉnh lại từ ngữ để giúp đáp viên dễ hiểu ý
nghĩa của câu hỏi hơn, cụ thể như sau:
Thang đo USB
Phát biểu USB1 (Nếu tôi không chắc chắn rằng sản phẩm của mình có phù
hợp với khách hàng không, tôi vẫn cố gắng tạo sức ép để họ mua sản phẩm) được
113
diễn giải lại thành: Đôi khi tôi không chắc chắn sản phẩm bảo hiểm của công ty tôi
phù hợp với khách hàng, tôi vẫn cố gắng thuyết phục họ mua bảo hiểm.
Phát biểu USB2 (Tôi có thể nói dối về sự cạnh tranh để làm cho sản phẩm
của mình hấp dẫn với khách hàng) được diễn giải lại thành: Tôi thường cung cấp
thông tin để khách hàng thấy sản phẩm công ty tôi hấp dẫn hơn công ty khác.
Phát biểu USB3 (Tôi có thể nói dối một chút về các tính năng của sản phẩm
dịch vụ bảo hiểm để bán được hàng) được diễn giải lại thành: Tôi thường cố gắng
nói tốt về các tính năng của sản phẩm bảo hiểm với khách hàng.
Thang đo mâu thuẫn vai trò
Trong thang đo này, phát biểu RCO2 (Tôi thường phải làm những việc mà
người này muốn, người kia không muốn) chưa diễn giải rõ nội dung của phát biểu,
do đó, phát biểu này được viết lại thành: Tôi thường phải làm những việc có mâu
thuẫn với nhau (doanh nghiệp muốn thế này nhưng khách hàng muốn thế khác).
Thang đo sức ép bán hàng
Trong thang đo này, phát biểu SPR3 (Chúng tôi được đào tạo rằng không cần
tìm hiểu khách hàng cần sản phẩm gì, mà chỉ cần cố gắng thuyết phục khách hàng
mua sản phẩm) sẽ khiến người bán hàng ngại trả lời. Do đó, phát biểu này được
diễn giải lại: Chúng tôi được đào tạo làm sao để thuyết phục khách hàng, chứ không
được đào tạo nhiều vào việc làm sao để tìm biết nhu cầu thực sự của khách hàng.
Thang đo tính thách thức của mục tiêu
Phát biểu GDI1 (Các mục tiêu kinh doanh của tôi rất khó để đạt được) chưa
làm rõ mục tiêu kinh doanh là những mục tiêu gì, do đó, có thể khiến người tham
gia khảo sát cảm thấy khó hiểu. Vì vậy, phát biểu này được diễn giải lại thành: Các
mục tiêu kinh doanh của tôi (chỉ tiêu doanh số, thị phần) rất khó để đạt được.
Thang đo sự lo âu
Phát biểu ANJ1 (Tôi bị choáng ngợp bởi những suy nghĩ làm việc kém hiệu
quả) khá dài, nên được diễn giải lại thành: Tôi thường lo sợ mình làm việc tệ.
Phát biểu ANJ2 (Tôi lo lắng rằng hiệu suất công việc của tôi sẽ thấp hơn đồng
nghiệp) có thuật ngữ hiệu suất công việc khó hiểu, nên được diễn giải lại thành: Tôi
114
hay lo sợ kết quả công việc của mình thấp hơn các đồng nghiệp.
Phát biểu ANJ3 (Tôi cảm thấy lo lắng và sợ hãi vì không thể đạt được các mục
tiêu công việc) có thuật ngữ hiệu suất công việc khó hiểu, nên được diễn giải lại
thành: Tôi rất căng thẳng nếu không đạt được các mục tiêu công việc.
Phát biểu ANJ6 (Tôi lo lắng về việc liệu người khác có nhìn nhận tôi là nhân
viên thích hợp cho công việc hay không) khá dài, nên được diễn giải lại thành: Tôi
thường xuyên bận tâm việc người khác đánh giá mình làm việc như thế nào.
Phát biểu ANJ7 (Tôi lo lắng rằng tôi sẽ không thể quản lý thành công các yêu
cầu công việc) chưa rõ nghĩa, nên được diễn giải lại thành: Tôi lo lắng về việc tôi
không thể đáp ứng tốt các yêu cầu công việc.
Phát biểu ANJ8 (Ngay cả khi tôi cố gắng hết sức có thể, tôi vẫn lo lắng về việc
liệu hiệu suất công việc của tôi có đủ tốt hay không) có thuật ngữ hiệu suất công
việc khó hiểu, nên được diễn giải lại thành: Ngay cả khi tôi đã cố gắng hết sức, tôi
vẫn lo sợ rằng kết quả làm việc của mình chưa tốt.
Thang đo sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
Phát biểu EGD2 (Tôi cảm thấy bình tĩnh và lý trí) được diễn giải lại cho rõ
nghĩa hơn: Tôi cảm thấy mình vẫn bình tĩnh và lý trí.
Phát biểu EGD3 (Tôi cảm thấy nhạy bén và tập trung) được diễn giải lại cho
rõ nghĩa hơn: Tôi cảm thấy mình vẫn suy nghĩ sắc sảo và tập trung.
Phát biểu EGD4 (Tôi cảm thấy như sức mạnh ý chí của tôi không còn nữa)
khá trừu tượng, do đó, thang đo được diễn giải lại thành: Năng lượng của tôi gần
như đã cạn kiệt.
Phát biểu EGD5 (Tôi cảm thấy lười biếng) có từ lười biếng sẽ khiến đáp viên
ngại trả lời, do đó, thang đo được diễn giải lại thành: Tôi đang cảm thấy mình
không muốn làm gì nữa.
Thang đo sự bào chữa
Phát biểu MJU1 (Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự thật để giúp công ty của
bạn không gặp khó khăn) khá dài, do đó, thang đo cần được diễn giải ngắn gọn lại
và điều chỉnh từ ngữ sao cho nhấn mạnh vào công việc bán hàng. Do đó, thang đo
115
được điều chỉnh như sau: Việc nói quá (phóng đại) trong kinh doanh là bình thường.
Phát biểu MJU2 (Nếu điều đó giúp bạn thực hiện công việc của mình, thì việc
bạn lừa dối khách hàng cũng không sao) sẽ có thể dẫn đến việc đáp viên ngại trả lời.
Hơn nữa, việc không nói hết thông tin cho khách hàng (tức là hành vi không tư vấn
đầy đủ thông tin về sản phẩm BHNT) cũng được nhìn nhận là USB, và người tư vấn
bán BHNT có thể bào chữa cho hành vi này. Vì vậy, phát biểu này được diễn giải
lại như sau: Không thể nói hết các thông tin sản phẩm cho khách hàng biết được.
Phát biểu MJU3 (Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự thật để bảo vệ công ty của
mình) có thể gây e ngại cho người đáp viên, nên thang đo được điều chỉnh lại như
sau: Việc nói quá (phóng đại) trong kinh doanh là bình thường.
Phát biểu MJU4 (Nếu một nhân viên cần phải phóng đại sự thật để thực hiện
công việc của họ, họ không thể bị đổ lỗi là đã nói dối) có từ đổ lỗi có thể gây e ngại
cho đáp viên, nên thang đo được điều chỉnh lại như sau: Nói dối khách hàng một
chút chỉ là để giúp chúng ta bán được hàng, công việc kinh doanh là phải như vậy.
Với những góp ý như trên, các phát biểu đã được điều chỉnh lại như bảng phía
dưới.
Bảng 3.8: Thang đo điều chỉnh
Mã Thang đo gốc Thang đo đã điều chỉnh
USB (Roman và Munuera, 2005)
USB1 Nếu tôi không chắc chắn rằng sản Đôi khi tôi không chắc chắn sản
phẩm của mình có phù hợp với phẩm bảo hiểm của công ty tôi phù
khách hàng không, tôi vẫn cố hợp với khách hàng, tôi vẫn cố gắng
gắng tạo sức ép để họ mua sản thuyết phục họ mua bảo hiểm.
phẩm.
USB2 Tôi có thể nói dối về sự cạnh Tôi thường cung cấp thông tin để
tranh để làm cho sản phẩm của khách hàng thấy sản phẩm công ty
mình hấp dẫn với khách hàng. tôi hấp dẫn hơn công ty khác.
USB3 Tôi có thể nói dối một chút về các Tôi thường cố gắng nói tốt về các
tính năng của sản phẩm dịch vụ tính năng của sản phẩm bảo hiểm với
116
Mã Thang đo gốc Thang đo đã điều chỉnh
bảo hiểm để bán được hàng. khách hàng
Mâu thuẫn vai trò (Rod và cộng sự, 2008)
RCO1 Đôi khi tôi phải lách một số quy Đôi khi tôi phải lách một số quy định
định để thực hiện các công việc để thực hiện các công việc nhiệm vụ
nhiệm vụ của mình. của mình.
RCO2 Tôi thường phải làm những việc Tôi thường phải làm những việc có
mà người này muốn, người kia mâu thuẫn với nhau (doanh nghiệp
không muốn. muốn thế này nhưng khách hàng
muốn thế khác)
RCO3 Tôi cảm thấy mình phải làm hài Tôi cảm thấy mình phải làm hài lòng
lòng quá nhiều người khác nhau. quá nhiều người khác nhau.
Sức ép bán hàng (Yi và cộng sự, 2012)
SPR1 Công ty tạo ra những sức ép bán Công ty tạo ra những sức ép bán
hàng ngay cả khi các sản phẩm hàng ngay cả khi các sản phẩm bảo
bảo hiểm không hoàn toàn phù hiểm không hoàn toàn phù hợp với
hợp với khách hàng. khách hàng.
SPR2 Công ty luôn tìm cách tạo ra áp Công ty luôn tìm cách tạo ra áp lực
lực thúc đẩy nhân viên phải bán thúc đẩy nhân viên phải bán được
được hàng. hàng.
SPR3 Chúng tôi được đào tạo rằng Chúng tôi được đào tạo làm sao để
không cần tìm hiểu khách hàng thuyết phục khách hàng, chứ không
cần sản phẩm gì, mà chỉ cần cố được đào tạo nhiều vào việc làm sao
gắng thuyết phục khách hàng mua để tìm biết nhu cầu thực sự của
sản phẩm. khách hàng.
Tính thách thức của mục tiêu (Fang và cộng sự, 2004)
GDI1 Các mục tiêu kinh doanh của tôi Các mục tiêu kinh doanh của tôi (chỉ
rất khó để đạt được. tiêu doanh số, thị phần) rất khó để
đạt được
117
Mã Thang đo gốc Thang đo đã điều chỉnh
GDI2 Không quá khó để có thể đạt được Không quá khó để có thể đạt được
các mục tiêu kinh doanh (-). các mục tiêu kinh doanh (-).
GDI3 Nhìn chung, các mục tiêu kinh Nhìn chung, các mục tiêu kinh doanh
doanh của tôi rất thách thức. của tôi rất thách thức.
Sự lo âu (McCarthy và cộng sự, 2016)
ANJ1 Tôi bị choáng ngợp bởi những suy Tôi thường lo sợ mình làm việc tệ.
nghĩ làm việc kém hiệu quả
ANJ2 Tôi lo lắng rằng hiệu suất công Tôi hay lo sợ kết quả công việc của
việc của tôi sẽ thấp hơn đồng mình thấp hơn các đồng nghiệp.
nghiệp.
ANJ3 Tôi cảm thấy lo lắng và sợ hãi vì Tôi rất căng thẳng nếu không đạt
không thể gặp mục tiêu hoạt động. được các mục tiêu công việc.
ANJ4 Tôi rất lo lắng nếu không nhận Tôi rất lo lắng nếu không nhận được
được những đánh giá tích cực về những đánh giá tích cực về kết quả
kết quả công việc. công việc.
ANJ5 Tôi thường lo lắng rằng mình Tôi thường lo lắng rằng mình không
không thể hoàn thành nhiệm vụ thể hoàn thành nhiệm vụ trong thời
trong thời gian cho phép. gian cho phép.
ANJ6 Tôi lo lắng về việc liệu người Tôi thường xuyên bận tâm việc
khác có nhìn nhận tôi là nhân viên người khác đánh giá mình làm việc
thích hợp cho công việc hay như thế nào.
không.
ANJ7 Tôi lo lắng rằng tôi sẽ không thể Tôi lo lắng về việc tôi không thể đáp
quản lý thành công các yêu cầu ứng tốt các yêu cầu công việc.
công việc
ANJ8 Ngay cả khi tôi cố gắng hết sức có Ngay cả khi tôi đã cố gắng hết sức,
thể, tôi vẫn lo lắng về việc liệu tôi vẫn lo sợ rằng kết quả làm việc
hiệu suất công việc của tôi có đủ của mình chưa tốt.
118
Mã Thang đo gốc Thang đo đã điều chỉnh
tốt hay không.
Sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (Lindner và cộng sự, 2019)
EGD1 Tôi thấy kiệt sức Tôi thấy kiệt sức.
EGD2 Tôi cảm thấy bình tĩnh và lý trí (-) Tôi cảm thấy mình vẫn bình tĩnh và
lý trí (-).
EGD3 Tôi cảm thấy nhạy bén và tập Tôi cảm thấy mình vẫn suy nghĩ sắc
trung (-) sảo và tập trung (-).
EGD4 Tôi cảm thấy như sức mạnh ý chí Năng lượng của tôi gần như đã cạn
của tôi không còn nữa kiệt.
EGD5 Tôi cảm thấy lười biếng Tôi đang cảm thấy mình không
muốn làm gì nữa
Sự bào chữa (Barsky, 2011)
MJU1 Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự Việc nói quá (phóng đại) trong kinh
thật để giúp công ty của bạn doanh là bình thường.
không gặp khó khăn.
MJU2 Nếu điều đó giúp bạn thực hiện Không thể nói hết các thông tin sản
công việc của mình, thì việc bạn phẩm cho khách hàng biết được.
lừa dối khách hàng cũng không
sao.
MJU3 Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự Phóng đại sự thật một chút vì hình
thật để bảo vệ công ty của mình. ảnh của công ty cũng được, không có
gì nghiêm trọng.
MJU4 Nếu một nhân viên cần phải Nói dối khách hàng một chút chỉ là
phóng đại sự thật để thực hiện để giúp chúng ta bán được hàng,
công việc của họ, họ không thể bị công việc kinh doanh là phải như
đổ lỗi là đã nói dối. vậy.
Nguồn: tác giả tổng hợp
Từ bảng thang đo điều chỉnh, bản khảo sát được hình thành. Nội dung bản câu
119
hỏi khảo sát sơ bộ bao gồm những phần chính sau:
Phần giới thiệu: trình bày về mục đích khảo sát và nội dung nghiên cứu, qua
đó, bày tỏ sự mong muốn các đáp viên trả lời khảo sát.
Phần câu hỏi gạn lọc: Phần này có hai câu hỏi gạn lọc nhằm đảm bảo các đáp
viên là những người bán bảo hiểm, tương tác với khách hàng, và chịu trách nhiệm
về doanh số bán hàng của mình. Theo đó, đáp viên được đề nghị trả lời có hoặc
không cho hai phát biểu sau:
(1) Công việc của bạn phải thường xuyên tư vấn cho khách hàng về sản phẩm
bảo hiểm.
(2) Bạn phải chịu trách nhiệm về doanh số bán hàng của chính bạn.
Nếp đáp viên trả lời có thì tiếp tục xem đến các câu trả lời của đáp viên ở phần
nội dung. Bên cạnh đó, phần này cũng bao gồm câu hỏi thông tin cá nhân để đáp
viên cho thêm thông tin liên hệ cá nhân. Tuy nhiên, để đảm bảo các đáp viên có thể
trả lời chân thật các câu hỏi ở phần nội dung, các đáp viên không bắt buộc phải
cung cấp thông tin cá nhân của mình.
Phần nội dung: các đáp viên được đề nghị trả lời bản câu hỏi khảo sát bằng
cách thể hiện quan điểm cá nhân với mỗi phát biểu được đánh giá trên thang đo
Likert 7 điểm, với quy ước (1) hoàn toàn không đồng ý, đến (7) hoàn toàn đồng ý.
Từ bản khảo sát sơ bộ này, luận án tiến hành thực hiện bước 2 (nghiên cứu sơ
bộ) nhằm đánh giá thang đo sơ bộ (lần 1).
3.8 Nghiên cứu sơ bộ
3.8.1 Xác định mẫu
Mẫu ở nghiên cứu sơ bộ là những người tư vấn bán các sản phẩm BHNT của
các hãng BHNT tại Việt Nam. Việc xác định cỡ mẫu phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
như số lượng biến quan sát. Tuy nhiên, ưu điểm của mô hình PLS-SEM là không
đòi hỏi cỡ mẫu lớn. Hơn nữa, do đây là nghiên cứu với mục đích chỉ nhằm đánh giá
thang đo, cỡ mẫu không nhất thiết phải quá lớn.
3.8.2 Phương pháp lấy mẫu
Về cơ bản có hai loại phương pháp lấy mẫu: ngẫu nhiên, và phi ngẫu nhiên.
120
Lấy mẫu ngẫu nhiên là hình thức lấy mẫu xác suất, nhờ đó, có thể chọn ra mẫu có
tính đại diện cho tổng thể. Tuy nhiên, phương pháp này sẽ rất khó áp dụng nếu
không xác định được danh sách cụ thể của tổng thể, tốn kém chi phí, và thời gian.
Trong khi đó, lấy mẫu phi ngẫu nhiên là hình thức chọn mẫu phi xác suất. Mặc dù
việc chọn mẫu phụ thuộc hoàn toàn vào kinh nghiệm của người nghiên cứu, nhưng
phương pháp này ít tốn kém chi phí, thời gian, và phù hợp cho những nghiên cứu
không biết rõ tổng thể nghiên cứu. Một số phương pháp lấy mẫu phi xác suất là lấy
mẫu có mục đích, lấy mẫu thuận tiện hoặc lấy mẫu hạn ngạch.
Do đây là nghiên cứu sơ bộ, hơn nữa, do những giới hạn về số liệu thống kê
người bán hàng trong ngành BHNT tại Việt Nam, lấy mẫu phi ngẫu nhiên được lựa
chọn, với phương pháp lấy mẫu là lấy mẫu thuận tiện. Theo đó, việc lấy mẫu dựa
trên tính thuận tiện hoặc khả năng tiếp cận đối tượng. Phương pháp này có thể tiết
kiệm chi phí, và tạo sự thuận tiện cho người nghiên cứu, bởi việc tiếp cận những
người bán bảo hiểm không hề dễ dàng.
3.8.3 Đánh giá thang đo sơ bộ (lần 1)
Bằng cách chọn lọc những ứng viên là những người bán bảo hiểm thuộc
18 hãng BHNT, có 65 người được mời khảo sát bằng giấy. Tuy nhiên, chỉ có 51
người chấp nhận tham gia khảo sát, trong đó, một số dữ liệu bị loại bỏ do thiếu
các mục trả lời. Kết quả thu được 47 phiếu trả lời hoàn chỉnh. Với mục đích
kiểm tra sơ bộ sự phù hợp của các thang đo, và do tính nhạy cảm của đạo đức,
nên các đáp viên không cần phải cung cấp thông tin cá nhân như điện thoại, địa
chỉ thư điện tử (email), hãng bảo hiểm. Kết quả đánh giá các thang đo (bảng 3.6)
được trình bày chi tiết như sau:
Thang đo mâu thuẫn vai trò (RCO) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,744, cao
hơn mức tối thiểu 0,7. Bên cạnh đó, AVE của thang đo là 0,624, lớn hơn mức quy
định là 0,5. Khi xem xét các biến quan sát, chỉ có RCO3 (0,633) có OL nhỏ hơn 0,7,
tuy nhiên, tất cả các OL đều lớn lơn mức tối thiểu 0,4. Như vậy, thang đo đã thỏa
các điều kiện về độ tin cậy và giá trị hội tụ.
Thang đo sức ép bán hàng (SPR) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,728, cao
121
hơn mức tối thiểu 0,7. Bên cạnh đó, AVE của thang đo là 0,640, lớn hơn mức quy
định là 0,5. Khi xem xét các giá trị OL, có thể thấy rằng các OL đều thỏa điều kiện
là lớn hơn mức chuẩn 0,7. Như vậy, thang đo đã thỏa các điều kiện.
Thang đo tính thách thức của mục tiêu (GDI) có Cronbach’s alpha đạt mức
0,745, cao hơn mức tối thiểu 0,7. Bên cạnh đó, AVE của thang đo là 0,640, lớn hơn
mức quy định là 0,5. Khi xem xét các biến quan sát trong thang đo, tất cả các biến
quan sát đều có OL thỏa điều kiện lớn lơn mức chuẩn 0,7. Như vậy, thang đo đã
thỏa các điều kiện.
Thang đo sự lo âu (ANJ) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,868, cao hơn mức
tối thiểu 0,7, và AVE của thang đo là 0,506, thỏa điều kiện mức tối thiểu 0,500.
Trong các biến quan sát, chỉ có ANJ1 (0,691), ANJ3 (0,692), ANJ4 (0,670), ANJ5
(0,603) có giá trị OL thấp hơn mức kỳ vọng 0,7, tuy nhiên, tất cả những giá trị này
đều vượt trên mức tối thiểu 0,4. Bên cạnh đó, việc phân tích dữ liệu với mẫu nhỏ
cũng có thể ảnh hưởng nhiều đến những kết quả tính toán. Chính vì vậy, các biến
quan sát được tiếp tục được giữ lại để cân nhắc và tính toán lại.
Thang đo sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (EGD) có Cronbach’s alpha đạt mức
0,806, cao hơn mức tối thiểu 0,7. Bên cạnh đó, AVE của thang đo là 0,560, lớn hơn
mức quy định là 0,5. Khi xem xét các biến quan sát trong thang đo, chỉ có EGD4
(0,678) có OL thấp hơn mức chuẩn 0,7, tuy nhiên, tất cả các OL đều thỏa điều kiện
lớn lơn mức tối thiểu 0,4. Như vậy, thang đo đã thỏa các điều kiện.
Thang đo sự bào chữa (MJU) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,762, cao hơn
mức tối thiểu 0,7. Bên cạnh đó, AVE của thang đo là 0,556, lớn hơn mức quy định
là 0,5. Khi xem xét các biến quan sát trong thang đo, chỉ có MJU1 (0,509) có OL
thấp hơn mức chuẩn 0,7, tuy nhiên, tất cả các OL đều lớn lơn mức 0,4. Như vậy,
thang đo đã thỏa các điều kiện.
Thang đo USB có Cronbach’s alpha đạt mức 0,720, cao hơn mức tối thiểu
0,7. Bên cạnh đó, AVE của thang đo là 0,565, lớn hơn mức quy định là 0,5. Khi
xem xét các biến quan sát trong thang đo, chỉ có USB3 (0,509) có OL thấp hơn mức
chuẩn 0,7, tuy nhiên, tất cả các OL đều lớn lơn mức chuẩn 0,7. Như vậy, thang đo
122
đã thỏa các điều kiện.
Bảng 3.9: Kết quả đánh giá thang đo sơ bộ (lần 1)
Thang đo
Biến quan sát
OL
AVE
RCO1 RCO2 RCO3 SPR1 SPR2 SPR3 GDI1 GDI2 GDI3 ANJ1 ANJ2 ANJ3 ANJ4 ANJ5 ANJ6 ANJ7 ANJ8 EGD1 EGD2 EGD3 EGD4 EGD5 MJU1 MJU2 MJU3 MJU4 USB1 USB2 USB3
0,790 0,921 0,633 0,824 0,760 0,814 0,750 0,917 0,719 0,691 0,763 0,692 0,670 0,603 0,757 0,756 0,742 0,707 0,756 0,800 0,678 0,793 0,509 0,783 0,807 0,835 0,789 0,902 0,509
RCO SPR GDI ANJ EGD MJU USB
Cronbach's alpha 0,744 0,728 0,745 0,868 0,806 0,762 0,720
0,624 0,640 0,640 0,506 0,560 0,556 0,565
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
Sau khi đánh giá từng cấu trúc thang đo, việc tiếp theo là kiểm tra giá trị
HTMT. Theo kết quả ở bảng 3.7, tất cả các trị trong bảng HTMT đều không vượt
trên 0,85 (Hair và cộng sự, 2014). Như vậy, các thang đo đã thỏa điều kiện về giá trị
phân biệt.
123
EGD
GDI
MJU
RCO
SPR
USB
ANJ
EGD
0,217
GDI
0,293
0,442
MJU
0,415
0,365
0,222
RCO
0,504
0,381
0,239
0,311
SPR
0,237
0,351
0,123
0,247
0,216
USB
0,359
0,203
0,382
0,174
0,176
0,246
ANJ
Bảng 3.10: Bảng giá trị HTMT của các thang đo sơ bộ (lần 1)
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
Tóm lại, mặc dù một số biến quan sát có OL không đạt trên 0,7, tuy nhiên, do
AVE không bị vi phạm, và Cronbach’s alpha đạt trên mức 0,7, đồng thời bảng giá
trị HTMT không có giá trị nào vi phạm mức trần 0,85, do đó, có thể khẳng định độ
tin cậy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thang đo. Bên cạnh đó, do nghiên
cứu sơ bộ có cỡ mẫu nhỏ, nên để có thể cân nhắc, tính toán và đưa ra quyết định
chính xác hơn, tất cả cấu trúc thang đo được tiếp tục giữ lại trong bản khảo sát
chính thức để phục vụ cho nghiên cứu chính thức.
3.9 Nghiên cứu chính thức
3.9.1 Bản khảo sát chính thức
Kế thừa bản khảo sát ở nghiên cứu sơ bộ, trong nghiên cứu chính thức, nội
dung bản khảo sát cũng bao gồm ba phần:
Phần giới thiệu: trình bày về mục đích khảo sát và nội dung nghiên cứu.
Phần câu hỏi gạn lọc: phần này có hai câu hỏi gạn lọc nhằm xác định lại xem
liệu các đáp viên có phải là những người bán BHNT hay không. Ngoài ra, các đáp
viên cũng được đề nghị cung cấp một số thông tin như họ thuộc nhóm tuổi nào, và
hãng BHNT. Bản câu hỏi cũng có hỏi thông tin cá nhân như điện thoại hoặc email,
tuy nhiên, cá nhân có thể cung cấp hoặc không cung cấp thông tin.
Phần nội dung: các đáp viên được đề nghị trả lời bản câu hỏi khảo sát bằng
cách thể hiện quan điểm cá nhân với mỗi phát biểu được đánh giá trên thang đo
Likert 7 điểm, với quy ước (1) hoàn toàn không đồng ý, đến (7) hoàn toàn đồng ý.
124
3.9.2 Cách thức chọn đối tượng khảo sát và tiếp cận
Để có thể cải thiện tính đại diện của mẫu, luận án thực hiện lấy mẫu hạn
ngạch (quota) và lấy mẫu thuận tiện. Trong khi lấy mẫu thuận tiện được xem là
phương pháp phổ biến trong các nghiên cứu về đạo đức của người bán hàng
(McClaren, 2015), thì lấy mẫu hạn ngạch được nhìn nhận là phương pháp có thể
cải thiện tính đại diện của mẫu trong những trường hợp việc tiếp cận mẫu bị hạn
chế (Górny & Napierała, 2015; Rubin và cộng sự, 2005; Sarstedt và cộng sự,
2017). Trong ngành BHNT, hiện chưa có thống kê chính thức nào về các đặc
điểm nhân khẩu của người tư vấn bán BHNT, chính vì vậy, việc tiếp cận mẫu
rất khó khó khăn. Do đó, luận án dựa trên thị phần của hãng BHNT có vốn hoàn
toàn trong nước để lấy mẫu.
Với 18 hãng bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam, chỉ có Bảo Việt là
hãng BHNT duy nhất có vốn đầu tư hoàn toàn trong nước với thị phần khoảng
23,87%. Dựa trên con số này, tác giả chọn mẫu là người tư vấn bán các sản
phẩm BHNT của Bảo Việt sao cho chiếm khoảng 23% tổng mẫu, còn lại sẽ là
người tư vấn bán các sản phẩm BHNT của các hãng bảo hiểm khác.
Với phương pháp này, tác giả đã hỏi những người đồng nghiệp, để tìm kiếm
những người tư vấn bán các sản phẩm BHNT tại Việt Nam. Ngoài ra, tác giả cũng
tìm kiếm những người này bằng cách truy cập vào các trang website và trang mạng
xã hội của những hội BHNT. Ngoài một số trang mạng cộng đồng chung như trang
Hội chuyên viên tư vấn BHNT, cũng có những trang riêng dành cho những người tư
vấn bán BHNT của một hãng nào đó, như trang Bảo hiểm Manulife Việt Nam. Do
đó, tác giả lần lượt dựa vào tên của hãng BHNT để tìm kiếm người phù hợp, sao cho
trong tổng số người tham gia khảo sát, số người tư vấn bán BHNT của Bảo Việt đạt
tỷ lệ khoảng 25% tổng mẫu. Những trang này có các danh sách những người tư vấn
bán BHNT, và rất nhiều bình luận, tin đăng của các thành viên, nhờ đó, tác giả có
thể truy cập vào trang cá nhân của những thành viên trong các hội này. Dựa vào
thông tin công khai của các thành viên này (gồm những thông tin như tên hãng
BHNT, nghề nghiệp của họ), tác giả phỏng đoán họ có phải là người tư vấn bán
125
BHNT hay không. Thông thường, những người tư vấn bán BHNT sẽ giới thiệu trên
trang cá nhân của họ rằng công việc của họ là tư vấn tài chính, và họ cũng thường
giới thiệu hãng BHNT mà họ đang làm việc, cùng với những thông tin khác (có thể
có) như thâm niên, quá trình công tác của họ, các gói BHNT họ đang bán, chi nhánh
hay địa điểm mà họ công tác. Ngoài ra, dựa vào chức năng gợi ý kết bạn trên trang
facebook, theo đó, chức năng này sẽ liệt kê Những người bạn có thể biết dựa trên
đặc điểm những người mà nghiên cứu sinh mong muốn kết nối. Từ đó, tác giả có
thể chọn những người phù hợp từ danh sách này để gửi lời chào và mời họ tham gia
khảo sát.
Mạng xã hội dần trở thành một kênh trao đổi thông tin của con người trong xã
hội hiện đại, bao gồm cả những thông tin chính thức và phi chính thức. Đáng chú ý,
facebook đã hỗ trợ rất nhiều trong việc trao đổi thông tin và giao dịch kinh doanh
thương mại (Ferrell & Ferrell, 2012). Riêng tại Việt Nam, facebook là trang mạng
xã hội mà người bán bảo hiểm sử dụng nhiều nhất trong công việc tư vấn bán bảo
hiểm (Buzzmetrics, 2016). Đồng thời, facebook cũng là trang mạng xã hội mà
người bán bảo hiểm sử dụng nhiều nhất để tạo ra các cuộc thảo luận (Buzzmetrics,
2016). Dựa vào đặc điểm hành vi này của người tư vấn bán bảo hiểm, việc tìm kiếm
đối tượng khảo sát là người tư vấn bán BHNT và tiếp cận họ bằng mạng xã hội
facebook có thể là một cách tiếp cận phù hợp.
Sau khi xác định được những người phù hợp để tham gia khảo sát, tác giả kết
bạn với họ (thông qua facebook), mời họ tham gia khảo sát bằng nhiều cách như gọi
điện thoại, gặp mặt trực tiếp, hoặc gửi lời chào qua hộp thư tin nhắn cá nhân (trên
facebook), hoặc gửi thư điện tử (email). Việc gửi lời chào cũng nhằm giới thiệu về
nghiên cứu và xác định lại xem liệu người được mời tham gia khảo sát có phải là
người bán BHNT hay không. Ngoài ra, tác giả cũng đăng bản khảo sát của mình lên
trang facebook của chính mình, và các trang mạng xã hội của những hội tư vấn
BHNT, và mời những người đang làm công việc tư vấn BHNT tham gia trả lời bản
khảo sát, đồng thời ngỏ ý nhờ những người bạn đang làm việc trong ngành bảo
hiểm hoặc liên quan ngành bảo hiểm chia sẻ bản khảo sát này. Ngoài ra, hàng tuần,
126
người nghiên cứu thực hiện chức năng chia sẻ (một chức năng trên trang facebook)
để bản khảo sát của mình được hiện lên trên trang facebook của những người trong
danh mục bạn bè (trên trang này cũng có ghi chú về người tham gia khảo sát phải là
người tư vấn bán BHNT) để những người này có thể nhớ đến việc khảo sát, và họ
có thể trả lời khi họ có thời gian.
Khảo sát giấy và khảo sát qua internet (khảo sát bằng công cụ Google drive)
được thực hiện, vì đây là những cách khảo sát đã từng được áp dụng hiệu quả trong
các nghiên cứu (Roman & Munuera, 2005; Munoz & Mallin, 2019). Để tránh việc
một người có thể vừa tham gia khảo sát giấy và khảo sát qua internet, trên khảo sát
internet, phiếu khảo sát có bổ sung phát biểu: Nếu Ông/Bà đã thực hiện khảo sát
này rồi, thì xin hãy bỏ qua bản khảo sát này. Với cả hai cách này, người nghiên cứu
đều gửi phần quà tri ân. Tuy nhiên, một số cá nhân đã không nhận quà, mà chỉ ủng
hộ nghiên cứu.
Để đảm bảo chắc chắn đối tượng được khảo sát là người tư vấn bán BHNT,
trong bản khảo sát cũng có 2 câu hỏi gạn lọc nhằm lọc lại những đối tượng phù hợp.
Hai câu hỏi gạn lọc là:
(1) Công việc của bạn phải thường xuyên tư vấn cho khách hàng về sản phẩm
bảo hiểm.
(2) Bạn phải chịu trách nhiệm về doanh số bán hàng của chính bạn.
Đáp viên được đề nghị trả lời có hoặc không cho mỗi câu hỏi gạn lọc. Những
đáp viên trả lời có ở 2 câu hỏi trên thì có thể xem là những người phù hợp, và có thể
xem xét tiếp phần trả lời trong các mục hỏi.
Trong những phương pháp nêu trên, khảo sát qua internet giúp tiếp cận được
nhiều đối tượng khảo sát hơn, tiết kiệm chi phí và thời gian. Trong khi đó, việc khảo
sát giấy tốn kém chi phí hơn, thêm vào đó, do người được khảo sát nghi ngại việc trả
lời qua giấy sẽ có thể ảnh hưởng đến công việc của họ, nên có thể họ cung cấp thông
tin phản hồi với tính trung thực thấp hơn.
Dù vậy, phương pháp khảo sát giấy đạt tỷ lệ trả lời cao hơn, và nó có thể tạo
điều kiện giúp người nghiên cứu trao đổi với người được khảo sát và giải thích rõ ràng
127
về những phát biểu trong bản khảo sát. Tổng cộng, có 113 người được mời tham
gia khảo sát giấy (trong đó có những đáp viên đang tư vấn bán BHNT của Dai-
ichi Life, AIA, Bảo Việt, và Manulife), nhưng chỉ có 75 phản hồi trả lời đầy đủ
các mục hỏi (đạt tỷ lệ phản hồi là 66,37%).
Những thuận lợi trong việc khảo sát bằng giấy:
- Những người được khảo sát đều là những người bán bảo hiểm và có tương
tác với khách hàng.
- Quà tặng cũng là một yếu tố khuyến khích nhiều người tham gia khảo sát.
- Nghiên cứu sinh có cơ hội tiếp cận, giao tiếp, và trao đổi với những người
tham gia khảo sát về ngành BHNT.
Những khó khăn trong việc khảo sát bằng giấy:
- Những người bán bảo hiểm không phải lúc nào cũng làm việc ở các văn phòng
công ty, chính vì vậy, cơ hội để gặp họ ở văn phòng công ty là rất khó khăn.
- Nhiều người có khuynh hướng thành kiến, không ủng hộ nghiên cứu, hoặc lo
sợ, nên từ chối không tham gia khảo sát.
Trong khi đó, với việc khảo sát qua internet, có 957 người được gửi bản
khảo sát, tuy nhiên, chỉ có 343 phản hồi (đạt tỷ lệ phản hồi là 35,84%). Trong số
này, chỉ có 327 phản hồi hoàn chỉnh. Các phản hồi không đầy đủ, ví dụ như một
vài mục hỏi không có thông tin trả lời, hoặc thiếu thông tin về công ty bảo
hiểm, đều bị loại bỏ.
Những thuận lợi trong việc khảo sát qua internet:
-Tiết kiệm chi phí đi lại cho nghiên cứu sinh.
- Việc trả lời khảo sát qua công cụ Google drive cũng giúp người được khảo
sát linh hoạt thời gian trả lời.
- Tiếp cận được nhiều người bán BHNT ở nhiều hãng BHNT (ví dụ như hãng
AIA, Manulife, Dai-ichi Life, Cathay, Bảo Việt, Prudential, Chubb, Hanwha), nhờ
đó, mẫu sẽ không bị giới hạn chỉ tập trung ở một vài hãng bảo hiểm nhất định.
128
- Tiếp cận được nhiều người bán BHNT ở nhiều địa phương khác nhau (ví dụ
như Hà Nội, Thanh Hóa, và một số tỉnh thành khác), nhờ đó, mẫu sẽ đa dạng hơn,
và không bị giới hạn ở một số địa phương.
Những khó khăn trong việc khảo sát qua internet:
- Việc trả lời khảo sát tùy thuộc vào thời gian và sự tự nguyện của đáp viên,
nên thời gian hoàn thành bản khảo sát kéo dài khá lâu.
- Số lượng câu hỏi trong phiếu khảo sát khá nhiều, nên nhiều người không trả
lời tất cả các mục hỏi.
Với những dữ liệu thu thập được, luận án tiến hành phân tích và kiểm định các
giả thuyết. Kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết trong chương 4.
129
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Thông qua việc tìm hiểu về những phương pháp được sử dụng trong các
nghiên cứu về hành vi phi đạo đức, luận án đã lập luận cho việc lựa chọn và sử
dụng phương pháp, cũng như các cách thức thực hiện các bước nghiên cứu. Với
mong muốn có thể hiểu rõ hơn các khái niệm trong ngành BHNT tại Việt Nam và
có được những kết quả lượng hóa, phỏng vấn và khảo sát những người tư vấn bán
các sản phẩm BHNT của các hãng BHNT tại Việt Nam là hai phương pháp được
vận dụng trong luận án này.
Theo đó, luận án đã thực hiện phỏng vấn với 12 người, gồm 5 người tư vấn
bán BHNT (có kinh nghiệm bán hàng trong ngành BHNT từ 1 năm trở lên), 4 giảng
viên có kiến thức chuyên môn về các nội dung trong nghiên cứu và 3 người khách
hàng đã từng mua BHNT. Việc phỏng vấn không chỉ giúp luận án thu nhận được
những quan điểm và cách hiểu khác nhau về USB, mà còn ghi nhận được những câu
chuyện bán hàng đang diễn ra trong thực tế của người tư vấn bán BHNT. Luận án
cũng thực hiện phân tích nội dung định tính, với kết quả cho thấy các khái niệm
mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu, sự lo âu, sự
suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa, và USB trong luận án này có thể phù
hợp với cách hiểu của những người được phỏng vấn.
Ngoài ra, chương này cũng đã trình bày về nghiên cứu sơ bộ với mục đích
đánh giá sơ bộ những thang đo. Kết quả cho thấy mặc dù một số biến quan sát chưa
đạt, nhưng các thang đo và biến quan sát đều được giữ lại trong bản khảo sát chính
thức. Theo đó, khảo sát giấy và internet được thực hiện, với 2 câu hỏi gạn lọc để lọc
lại những đáp viên phù hợp. Phần mềm SmartPLS được sử dụng để phân tích những
dữ liệu thu được. Kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày chi tiết ở chương sau.
130
CHƯƠNG 4- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Phần này diễn giải về việc thực hiện nghiên cứu chính thức với mẫu là
người tư vấn bán các sản phẩm BHNT của các hãng BHNT tại Việt Nam. Mặc dù
có nhiều giả thuyết, việc sử dụng SmartPLS với kỹ thuật bootstrapping có thể
giúp luận án kiểm định đồng thời các giả thuyết này. Chính vì vậy, cũng như ở
phần trước, việc đánh giá các cấu trúc thang đo, kiểm định giả thuyết, và đánh
giá mô hình sẽ được thực hiện với phần mềm SmartPLS.
4.1 Đặc điểm mẫu thu thập
Như đã đề cập ở trên, với 75 phản hồi giấy và 327 phản hồi qua internet,
mẫu thu thập đạt 402 phản hồi đầy đủ. Theo Hair và cộng sự (2014), một trong
những ưu điểm của PLS-SEM là có thể kiểm định mô hình với cỡ mẫu nhỏ. Theo
đó, dựa vào cấu trúc thang đo nào có số biến quan sát nhiều nhất, thì cỡ mẫu sẽ gấp
10 lần số biến quan sát đó (Hair và cộng sự, 2014). Thang đo sự lo âu có số biến
quan sát nhiều nhất, với 8 biến quan sát, như vậy, mẫu tối thiểu là 80. Liên quan đến
chủ đề USB, nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012) đã thực hiện khảo sát những
người tư vấn BHNT qua điện thoại, với cỡ mẫu là 204, trong khi đó, nghiên cứu của
Tseng (2019) khi khảo sát người tư vấn bán BHNT, cỡ mẫu cũng dừng lại ở con số
289. Trong một nghiên cứu khác của Roman và Munuera (2005), khi mở rộng đối
tượng khảo sát là người bán hàng trong ngành bảo hiểm và tín dụng, cỡ mẫu cũng
dừng ở con số 280. Nghiên cứu gần đây của Seriki và cộng sự 2020, khi mở rộng
nghiên cứu các dạng hành vi phi đạo đức của người bán hàng và mở rộng đối tượng
khảo sát là người bán hàng trong ngành bảo hiểm và bất động sản, cỡ mẫu cũng
dừng lại ở con số 400. Với những lập luận này, nghiên cứu chính thức có cỡ mẫu
402 là phù hợp.
Phần thống kê đặc điểm mẫu được trình bày ở bảng dưới đây. Theo đó, về
độ tuổi, phần lớn các đáp viên là những người trẻ tuổi, với nhóm tuổi (31-40) có
230 người (chiếm 57,21%), theo sau là nhóm tuổi (20-30) có 111 người (chiếm
27,61%), còn lại là nhóm tuổi từ 41 tuổi trở lên (chiếm 15,18%). Bên cạnh đó,
mẫu thu được cũng bao gồm những người bán bảo hiểm ở nhiều hãng BHNT
131
khác nhau. Trong đó, số lượng người tư vấn bán BHNT của hãng bảo hiểm có
vốn hoàn toàn trong nước (Bảo Việt) là 101 người, chiếm 25,12% tổng mẫu. Tỷ
lệ này được xem là phù hợp với thị phần của Bảo Việt trên thị trường BHNT tại
Việt Nam.
Bảng 4.1: Đặc điểm mẫu thu thập
Đặc điểm Tuổi 20-30 31-40 Từ 41 tuổi trở lên Tổng Hãng bảo hiểm Bảo Việt Khác Tổng Tần suất 111 230 61 402 101 301 402 Tỷ lệ (%) 27,61 57,21 15,18 100,00 25,12 74,88 100,00
Nguồn: tác giả tổng hợp
4.2 Đánh giá thang đo chính thức (lần 2)
Mô hình PLS-SEM và phần mềm martPLS được sử dụng. Các cấu trúc thang
đo phản ánh sẽ được tính toán dựa trên thang đo Likert 7 điểm. Tất cả các thang đo
trong luận án đều là thang đo phản ánh và là thang đo đơn hướng. Vì vậy, dựa
vào gợi ý của Hair và cộng sự (2014), việc đánh giá thang đo dựa vào một số
tiêu chí cơ bản như:
-Độ tin cậy của thang đo: thỏa điều kiện khi Cronbach’s alpha trên mức 0,7.
-Giá trị hội tụ: đánh giá qua AVE và OL. Các thang đo cần phải có AVE
lớn hơn hoặc bằng 0,5, và các biến quan sát phải có mức tải lớn hơn mức 0,4.
Nếu biến quan sát có OL nhỏ hơn 0,4, thì cần phải loại bỏ ra khỏi thang đo.
-Giá trị phân biệt: Các thang đo được chấp nhận khi các giá trị trong bảng
HTMT không vượt quá mức trần 0,85.
Kết quả đánh giá các thang đo (lần 2) ở bảng 4.2 cho thấy thang đo mâu
thuẫn vai trò (RCO) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,789, cao hơn mức chuẩn 0,7,
và AVE đạt 0,702, lớn hơn mức chuẩn 0,5 (Hair và cộng sự, 2014). Các biến quan
132
sát đều có OL lớn hơn mức 0,7, do đó, thang đo đạt độ tin cậy, và các biến quan sát
đều được giữ lại.
Bảng 4.2: Kết quả đánh giá thang đo chính thức (lần 2)
Biến quan sát
Thang đo RCO
Cronbach's alpha 0,789
AVE 0,702
RCO1 RCO2 RCO3
SPR1 SPR2 SPR3
GDI1 GDI2 GDI3
ANJ1 ANJ2 ANJ3 ANJ4 ANJ5 ANJ6 ANJ7 ANJ8
EGD1 EGD2 EGD3 EGD4 EGD5
0,732 0,761 0,857 0,790 0,701
0,649 0,674 0,500 0,539 0,527
SPR GDI ANJ EGD MJU
MJU1 MJU2 MJU3 MJU4
0,810
0,725
USB
USB1 USB2 USB3
OL 0,862 0,835 0,816 0,818 0,778 0,821 0,835 0,846 0,760 0,744 0,749 0,682 0,763 0,649 0,705 0,705 0,648 0,822 0,819 0,807 0,726 0,413 0,722 0,724 0,704 0,753 0,894 0,807 0,850
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
133
Thang đo sức ép bán hàng (SPR) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,732, cao
hơn mức chuẩn 0,7. Thêm vào đó, AVE đạt 0,649, lớn hơn mức chuẩn 0,5 (Hair và
cộng sự, 2014). Bên cạnh đó, OL của các biến quan sát đều lớn hơn mức 0,7, do đó,
có thể khẳng định thang đo đã thỏa các điều kiện cần thiết, và không có biến quan
sát nào bị vi phạm. Do đó, các biến quan sát đều được giữ lại.
Thang đo tính thách thức của mục tiêu (GDI) có Cronbach’s alpha đạt mức
0,761, cao hơn mức chuẩn 0,7, và AVE đạt 0,674, lớn hơn mức chuẩn 0,5 (Hair và
cộng sự, 2014). Các giá trị OL của các biến quan sát đều lớn hơn mức 0,7, do đó,
thang đo đã thỏa các điều kiện cần thiết, và các biến quan sát đều được giữ lại.
Thang đo sự lo âu (ANJ) có Cronbach’s alpha đạt mức 0,857, cao hơn mức
chuẩn 0,7, và AVE của thang đo đạt 0,500, đạt mức tối thiểu được khuyến nghị là
0,5. Mặc dù OL của ANJ3 (0,682), và ANJ5 (0,649), và ANJ8 (0,648) nhỏ hơn 0,7,
nhưng vẫn lớn hơn mức tối thiểu 0,4, hơn nữa AVE vẫn thỏa điều kiện. Do đó,
thang đo đã thỏa các điều kiện cần thiết, và các biến quan sát được giữ lại.
Thang đo sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (EGD) có Cronbach’s alpha đạt mức
0,790, cao hơn mức chuẩn 0,7, và AVE là 0,539, lớn hơn 0,5. Riêng OL của biến
quan sát EGD5 chỉ đạt 0,413, nhưng vẫn lớn hơn 0,4. Do đó, thang đo đã thỏa các
điều kiện cần thiết, và các biến quan sát đều được giữ lại.
Thang đo sự bào chữa (MJU) cho thấy Cronbach’s alpha đạt mức 0,701, cao
hơn mức chuẩn 0,7, và AVE đạt 0,527, cao hơn mức chuẩn 0,5 (Hair và cộng sự,
2014). Trong khi đó, các giá trị OL của các biến quan sát đều lớn hơn mức 0,7, do
đó, thang đo đã thỏa các điều kiện cần thiết, và các biến quan sát được giữ lại.
Thang đo USB cho thấy Cronbach’s alpha đạt mức 0,810, cao hơn mức chuẩn
0,7, và AVE đạt 0,725, cao hơn mức chuẩn 0,5 (Hair và cộng sự, 2014). Các biến
quan sát đều có OL lớn hơn mức 0,7. Do đó, thang đo đã thỏa các điều kiện cần
thiết, và các biến quan sát đều được giữ lại.
Kết quả giá trị HTMT (bảng 4.3) cho thấy tất cả các giá trị ở bảng dưới đều
nhỏ hơn mức khuyến cáo 0,85 (Hair và cộng sự, 2014). Như vậy, có thể khẳng
định giá trị phân biệt của các thang đo.
134
AGE ANJ
EGD FIRM GDI MJU RCO REP
SPR USB
AGE
ANJ
0,074
EGD
0,037 0,330
FIRM 0,174 0,090 0,175
GDI
0,062 0,428 0,210
0,035
MJU
0,083 0,485 0,436
0,070 0,408
RCO
0,055 0,336 0,195
0,226 0,269 0,428
REP
0,144 0,099 0,241
0,046 0,042 0,147 0,060
SPR
0,037 0,272 0,393
0,203 0,082 0,341 0,076 0,047
USB
0,050 0,336 0,429
0,108 0,145 0,526 0,090 0,498 0,456
Bảng 4.3: Bảng giá trị HTMT chính thức (lần 2)
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
4.3 Kiểm định giả thuyết
Như đã trình bày ở trên, luận án thực hiện kiểm định các biến trung gian dựa
trên gợi ý của Zhao và cộng sự (2010). Kỹ thuật Bootstrapping với cỡ mẫu lặp lại là
5000 quan sát, với ý nghĩa thống kê ở mức 5% được thực hiện để kiểm định giả
thuyết. (Hair và cộng sự, 2014).
Bảng 4.4 trình bày về kết quả đánh giá mô hình và kiểm định giả thuyết. Dựa
trên gợi ý của Carlson và O’Cass (2010) rằng giá trị R2 trên mức 0,1 là có thể chấp
nhận được mô hình, trong luận án này, các giá trị R2 và R2 điều chỉnh đều lớn hơn
0,1, do đó, mô hình được đề xuất có thể chấp nhận được. Dựa vào gợi ý của Hair
và cộng sự (2014), giá trị f2 dựa trên giá trị (0,02), (0,15), và (0,35) là yếu, trung
RCOEGD(0,013) là không ảnh hưởng, còn lại là
bình, và mạnh, kết quả cho thấy f2
trung bình.
Kỹ thuật sử dụng lại mẫu (blindfolding), với bước nhảy (omission distance) là
5, được sử dụng để tính giá trị Q2. Dựa vào đề xuất của Hair và cộng sự (2014), giá
trị bước nhảy là một số từ 5 đến 10, sao cho tỷ lệ (số mẫu quan sát/ bước nhảy)
không được là số nguyên. Do cỡ mẫu quan sát là 402, bước nhảy 5 là phù hợp. Kết
(theo giá trị Construct Crossvalidated Redundancy) đều
quả cho thấy các giá trị Q2
lớn hơn 0, do đó, mô hình cấu trúc thỏa điều kiện chất lượng tốt.
135
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định mô hình tổng thể
Các ảnh hưởng
Giả thuyết
Hệ số gốc Hệ số trung bình Sai số chuẩn
P value
Kết quả
H1a
Ảnh hưởng trực tiếp RCO->USB
-0,075
-0,075
0,038
0,053
không ủng hộ
H1b
SPR->USB
0,202
0,202
0,044
0,000
ủng hộ
H1c
GDI->USB
-0,008
-0,008
0,041
0,847
không ủng hộ
H2a
RCO->ANJ
0,209
0,212
0,045
0,000
ủng hộ
H2b
SPR->ANJ
0,231
0,233
0,043
0,000
ủng hộ
H2c
GDI->ANJ
0,323
0,325
0,045
0,000
ủng hộ
H3a
RCO->EGD
0,107
0,108
0,049
0,030
ủng hộ
H3b
SPR-> EGD
0,333
0,336
0,040
0,000
ủng hộ
H3c
GDI->EGD
0,161
0,163
0,043
0,000
ủng hộ
H4a
ANJ->USB
0,113
0,113
0,045
0,012
ủng hộ
H4b
ANJ->MJU
0,176
0,176
0,053
0,001
ủng hộ
H4c
MJU->USB
0,271
0,272
0,063
0,000
ủng hộ
H5a
EGD->USB
0,204
0,206
0,058
0,000
ủng hộ
H5b
EGD->MJU
0,201
0,203
0,047
0,000
ủng hộ
H8a
RCO->MJU
0,205
0,205
0,038
0,000
ủng hộ
H8b
SPR->MJU
0,150
0,150
0,042
0,000
ủng hộ
H8c
GDI->MJU
0,167
0,168
0,037
0,000
ủng hộ
H4
Ảnh hưởng gián tiếp cụ thể ANJ -> MJU -> USB
0,048
0,049
0,021
0,021
ủng hộ
H5
EGD->MJU->USB
0,054
0,055
0,017
0,002
ủng hộ
H6a
RCO->ANJ->USB
0,024
0,024
0,011
0,026
ủng hộ
H6b
SPR->ANJ->USB
0,026
0,027
0,012
0,033
ủng hộ
H6c
GDI->ANJ->USB
0,036
0,037
0,016
0,023
ủng hộ
H7a
RCO->EGD->USB
0,022
0,022
0,012
0,072
không ủng hộ
H7b
SPR->EGD->USB
0,068
0,069
0,020
0,001
ủng hộ
H7c
GDI->EGD->USB
0,033
0,034
0,014
0,017
ủng hộ
H9a
RCO->MJU->USB
0,056
0,056
0,017
0,001
ủng hộ
H9b
SPR->MJU->USB
0,041
0,041
0,015
0,007
ủng hộ
H9c
GDI->MJU->USB
0,045
0,045
0,014
0,001
ủng hộ
H10a
RCO->ANJ->MJU->USB
0,010
0,010
0,005
0,047
ủng hộ
H10b
SPR->ANJ->MJU->USB
0,011
0,011
0,005
0,035
ủng hộ
H10c
GDI->ANJ->MJU->USB
0,015
0,016
0,007
0,036
ủng hộ
H11a
RCO->EGD->MJU->USB
0,006
0,006
0,003
0,085
không ủng hộ
H11b
SPR->EGD->MJU->USB
0,018
0,018
0,007
0,006
ủng hộ
H11c
GDI->EGD->MJU->USB
0,009
0,009
0,004
0,018
ủng hộ
R2ANJ=0,224 f2
R2USB=0,290 f2
R2EGD=0,152 R2MJU=0,293 GDI->ANJ=0,128
SPR->MJU=0,027
R2 độ lớn tác động (f2)
f2
f2
RCO->ANJ=0,054 f2 RCO->EGD=0,013 f2
SPR->ANJ=0,069 f2 SPR->EGD=0,130 f2
GDI->EGD=0,029
ANJI->MJU=0,033 f2 EGD->MJU=0,047 f2
RCO->MJU=0,054 f2 GDI->MJU=0,033 f2
MJU->USB=0,073
Q2ANJ=0,107 Q2EGD=0,073 Q2MJU=0,146
Q2USB=0,186
Q2
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả
136
4.3.1 Các ảnh hưởng trực tiếp
Giả thuyết H1a, H1b, H1c đề cập đến ảnh hưởng trực tiếp của mâu thuẫn vai
trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu đối với USB. Kết quả ở bảng
4.4 cho thấy chỉ có ảnh hưởng trực tiếp giữa sức ép bán hàng và USB (SPRUSB)
(ß= 0,202; p value = 0,000) thỏa mức ý nghĩa, do đó, giả thuyết H1b được ủng hộ.
Trong khi đó, ảnh hưởng của mâu thuẫn vai trò đối với USB (RCOUSB) (ß= -
0,075; p value = 0,053) và ảnh hưởng của tính thách thức của mục tiêu đối với USB
(GDIUSB) (ß= -0,008; p value = 0,847) không thỏa mức ý nghĩa, do đó, giả
thuyết H1a và H1c không được ủng hộ. Kết quả này mặc dù không đúng như dự
đoán và không thống nhất với kết quả của Chiu và cộng sự (2015). Điều này cũng
cho thấy ở những bối cảnh nghiên cứu khác nhau, kết quả nghiên cứu có thể khác
nhau. Từ kết quả này, có thể suy diễn rằng mâu thuẫn vai trò, tính thách thức của
mục tiêu đã không ảnh hưởng trực tiếp đến USB mà sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến
USB thông qua nhiều trung gian khác.
Giả thuyết H2a, H2b, H2c đề cập đến ảnh hưởng tích cực của mâu thuẫn vai
trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu đối với sự lo âu. Kết quả cho
thấy ảnh hưởng của mâu thuẫn vai trò đối với sự lo âu (RCOANJ) (ß= 0,209; p
value = 0,000), ảnh hưởng của sức ép bán hàng đối với sự lo âu (SPRANJ) (ß=
0,231; p value = 0,000), và ảnh hưởng của tính thách thức của mục tiêu đối với sự
lo âu (GDIANJ) (ß= 0,323; p value = 0,000) đều thỏa mức ý nghĩa và hệ số
đường dẫn lớn hơn 0, phản ánh rằng mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính
thách thức của mục tiêu đều có ảnh hưởng tích cực đến sự lo âu. Những kết quả này
cho thấy giả thuyết H2a, H2b, H2c được ủng hộ.
Trong đó, tính thách thức của mục tiêu là yếu tố có tác động mạnh nhất (ß=
0,323), tiếp đến là sức ép bán hàng (ß= 0,231), và mâu thuẫn vai trò (ß= 0,209).
Điều này phản ánh rằng tính thách thức của mục tiêu sẽ tác động mạnh mẽ nhất đến
sự lo âu trong công việc. Kết quả này thống nhất với các nghiên cứu trước (Han và
cộng sự, 2014; Rodriguez-Escudero và cộng sự, 2010; Mawritz và cộng sự, 2013;
Mérida-López và cộng sự, 2017) khi cho thấy mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng,
137
và tính thách thức của mục tiêu là những tác nhân dẫn đến sự lo âu.
Tương tự, giả thuyết H3a, H3b, H3c đề cập đến ảnh hưởng tích cực của mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu đối với sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm. Theo đó, kết quả về ảnh hưởng của mâu thuẫn vai trò đến sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm (RCOEGD) (ß= 0,107; p value = 0,030), ảnh hưởng của
sức ép bán hàng đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm (SPREGD) (ß= 0,333; p value
= 0,000), và ảnh hưởng của tính thách thức của mục tiêu đến sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm (GDIEGD) (ß= 0,161; p value = 0,000) đều thỏa mức ý nghĩa. Bên cạnh
đó, các hệ số đường dẫn lớn hơn 0, phản ánh rằng mâu thuẫn vai trò, sức ép bán
hàng, và tính thách thức của mục tiêu đều làm tăng sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Như vậy, giả thuyết H3a, H3b, H3c được ủng hộ.
Trong đó, sức ép bán hàng có ảnh hưởng mạnh nhất đến sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm (ß= 0,333), tiếp theo là tính thách thức của mục tiêu (ß= 0,161), và mâu
thuẫn vai trò (ß= 0,107). Điều này phản ánh rằng những sức ép bán hàng là yếu tố
tác động mạnh mẽ nhất đến sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Kết quả này cũng thống
nhất với lập luận của các học giả trước đó (Alarcon, 2011; Welsh & Ordonez, 2014;
Barling & Frone, 2016) khi cho rằng những mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và
tính thách thức của mục tiêu có thể là nguyên nhân khiến cá nhân cạn kiệt các
nguồn lực của mình.
Trong khi đó, giả thuyết H4a, H4b, H4c đề cập đến quan hệ giữa sự lo âu, sự
bào chữa và USB. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của sự lo âu đến USB (ANJUSB)
(ß= 0,113; p value = 0,012), ảnh hưởng của sự lo âu đến sự bào chữa (ANJMJU)
(ß= 0,176; p value = 0,001), và ảnh hưởng của sự bào chữa đến USB (MJUUSB)
(ß= 0,271; p value = 0,000) đều thỏa mức ý nghĩa. Trong đó, sự lo âu có ảnh hưởng
đến sự bào chữa (ß= 0,176) mạnh hơn so với USB (ß= 0,113), điều này cho thấy khi
lo âu, cá nhân sẽ có xu hướng bào chữa nhiều hơn là thực hiện hành vi phi đạo đức.
Các hệ số đường dẫn lớn hơn 0, phản ánh rằng sự lo âu làm tăng sự bào chữa và
USB, và sự bào chữa làm tăng USB. Như vậy, giả thuyết H4a, H4b, và H4c được
ủng hộ. Kết quả này cũng thống nhất với lập luận của các học giả trước đó
138
(Kouchaki & Desai, 2015; Fida và cộng sự, 2015; Zhang và cộng sự, 2020) khi cho
rằng sự lo âu có thể thúc đẩy cá nhân bào chữa cho hành vi của mình. Bên cạnh đó,
kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu trước đó của Barsky (2011) khi cho thấy
sự bào chữa sẽ làm tăng hành vi phi đạo đức.
Giả thuyết H5a (EGDUSB) và H5b (EGDMJU) đề cập đến những nối kết
giữa sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa và USB. Kết quả cho thấy ảnh
hưởng của sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm đến sự bào chữa (p value = 0,000) và ảnh
hưởng của sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm đến USB (p value = 0,000) đều thỏa mức
ý nghĩa. Do đó, giả thuyết H5a, H5b được ủng hộ. Trong đó, sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm ảnh hưởng đến sự bào chữa (ß= 0,201) yếu hơn so với USB (ß= 0,204),
phản ánh rằng những cá nhân bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm sẽ có xu hướng thực
hiện USB hơn là xu hướng bào chữa cho hành vi của mình. Kết quả này cũng thống
nhất với lập luận của các học giả Gino và cộng sự (2011) và Wang và cộng sự
(2017) khi cho rằng những người bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm sẽ có xu hướng thực
hiện hành vi phi đạo đức và bào chữa cho hành vi của mình.
Giả thuyết H8a, H8b, và H8c đề cập đến những nối kết giữa mâu thuẫn vai trò,
sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu và sự bào chữa. Kết quả cho thấy ảnh
hưởng RCOMJU (ß= 0,205; p value = 0,000), ảnh hưởng SPRMJU (ß= 0,150;
p value = 0,000), và ảnh hưởng GDIMJU (ß= 0,167; p value = 0,000) đều thỏa
mức ý nghĩa và các hệ số đường dẫn đều lớn hơn 0. Do đó, giả thuyết H8a, H8b,
H8c được ủng hộ.
Trong đó, mâu thuẫn vai trò là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất (ß= 0,205), tiếp
đến là tính thách thức của mục tiêu (ß= 0,167), sau đó là sức ép bán hàng (ß=
0,150). Điều này phản ánh rằng mâu thuẫn vai trò là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất
đến sự bào chữa. Kết quả này cũng phù hợp với những lập luận trước đó của Seriki
và cộng sự (2020) khi cho rằng những áp lực có thể thúc đẩy cá nhân chối bỏ đạo
đức, và trong luận án này, sự bào chữa là một trong những cách chối bỏ đạo đức của
cá nhân dưới những ảnh hưởng của các áp lực công việc như mâu thuẫn vai trò, sức
ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu.
139
4.3.2 Các ảnh hưởng gián tiếp
Như đã đề cập ở trên, thay vì thực hiện kiểm định Sobel với 4 bước, Zhao và
cộng sự (2010) đã đề xuất có thể thực hiện kiểm định bằng một bước là phân tích
ảnh hưởng gián tiếp. Với lợi thế của SmartPLS là có thể giúp kiểm định đồng thời
cả ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, vì vậy, luận án thực hiện kiểm định các biến
trung gian dựa trên gợi ý của Zhao và cộng sự (2010).
Đối với giả thuyết H4, ảnh hưởng ANJMJU USB (ß = 0,048; p value =
0.021) thỏa mức ý nghĩa. Trong khi trước đó, giả thuyết H4a về ảnh hưởng trực tiếp
ANJUSB (ß = 0,113; p value = 0,012) cũng được ủng hộ. Dựa trên gợi ý của
Zhao và cộng sự (2010), có thể thấy rằng sự lo âu có ảnh hưởng trực tiếp với USB
và có ảnh hưởng gián tiếp đến USB thông qua trung gian sự bào chữa. Bên cạnh đó,
hệ số của các ảnh hưởng này cùng lớn hơn 0, tức là cùng chiều. Những kết quả này
phản ánh rằng sự bào chữa đã trung gian một phần và bổ sung vào sự ảnh hưởng
của sự lo âu đối với USB. Kết quả này không chỉ đồng nhất với nghiên cứu của Fida
và cộng sự (2015) khi cho rằng sự bào chữa là trung gian nối kết sự lo âu và hành vi
phi đạo đức, mà còn góp phần cung cấp minh chứng cho những ảnh hưởng của sự lo
âu đối với sự bào chữa và hành vi phi đạo đức của cá nhân.
Đối với giả thuyết H5, ảnh hưởng EGDMJUUSB (ß= 0,054; p-value =
0,002) thỏa mức ý nghĩa. Trong khi trước đó, với giả thuyết H5a, kết quả về ảnh
hưởng trực tiếp EGDUSB (ß = 0,204; p-value = 0,000) cũng được ủng hộ. Do hệ
số của các ảnh hưởng này cùng lớn hơn 0, tức là cùng chiều, do đó, kết quả này
phản ánh rằng sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có ảnh hưởng trực tiếp với USB, và sự
bào chữa đã đóng vai trò trung gian một phần và bổ sung vào sự ảnh hưởng của sự
suy kiệt nguồn lực tự kiểm đối với USB.
Giả thuyết H6a, H6b, H6c đề cập đến vai trò trung gian của sự lo âu. Kết quả
cho thấy ảnh hưởng RCOANJUSB (ß= 0,024; p value = 0,026),
SPRANJUSB (ß= 0,026; p value = 0,033), GDIANJUSB (ß= 0,036; p
value = 0,023) có hệ số đường dẫn lớn hơn 0 và thỏa mức ý nghĩa. Do đó, giả thuyết
H6a, H6b, H6c được ủng hộ. Kết quả này cũng thống nhất với những khám phá của
140
Fida và cộng sự (2015) khi cho thấy những áp lực công việc có thể làm tăng sự lo
âu, từ đó thúc đẩy các hành vi phi đạo đức. Trước đó, giả thuyết H1a về ảnh hưởng
RCOUSB và giả thuyết H1c về ảnh hưởng GDIUSB không được ủng hộ, điều
này phản ánh rằng mâu thuẫn vai trò và tính thách thức của mục tiêu không có ảnh
hưởng trực tiếp mà chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến USB. Trong khi đó, ảnh hưởng
SPRUSB (H1b) được ủng hộ, và các hệ số đường dẫn của các ảnh hưởng đều
cùng chiều, phản ánh rằng sự lo âu đã trung gian một phần và bổ sung vào sự ảnh
hưởng của sức ép bán hàng đối với USB.
Giả thuyết H7a, H7b, H7c đề cập đến vai trò trung gian của sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm trong nối kết giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức
của mục tiêu và USB. Kết quả cho thấy ảnh hưởng RCOEGDUSB (ß= 0,022; p
value = 0,072), không thỏa mức ý nghĩa, trong khi đó, các ảnh hưởng
SPREGDUSB (ß= 0,068; p value = 0,001) và GDIEGDUSB (ß= 0,033; p
value = 0,017) đều có hệ số đường dẫn lớn hơn 0 và thỏa mức ý nghĩa. Do đó, giả
thuyết H7a không được ủng hộ, nhưng H7b và H7c được ủng hộ. Kết quả này mặc
dù không như kỳ vọng mà giả thuyết đưa ra, tuy nhiên, nó cũng góp phần khám phá
được rằng mâu thuẫn vai trò đã gián tiếp ảnh hưởng đến USB nhờ vào trung gian sự
lo âu, chứ không nhờ vào trung gian sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm. Trong khi đó,
ảnh hưởng SPRUSB (ß= 0,202) và SPREGDUSB (ß= 0,068) là cùng chiều,
phản ánh rằng sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm đã trung gian một phần và bổ sung vào
sự ảnh hưởng của sức ép bán hàng đối với USB. Riêng đối với những nối kết giữa
GDI và USB, mặc dù giả thuyết H1c (GDIUSB) không được ủng hộ, nhưng giả
thuyết H7c (GDIEGDUSB) (ß= 0,033) được ủng hộ, phản ánh rằng sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm là trung gian nối kết tính thách thức của mục tiêu và USB.
Để kiểm định vai trò chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
và sự bào chữa trong quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách
thức của mục tiêu và USB, cần xem xét kết quả phân tích về các ảnh hưởng gián
tiếp cụ thể giữa ANJ, EGD, MJU, RCO, SPR, GDI, và USB.
Giả thuyết H9a đề cập đến vai trò trung gian của sự bào chữa trong nối kết
141
giữa mâu thuẫn vai trò và USB. Kết quả cho thấy ảnh hưởng RCOMJUUSB
(ß= 0,056; p value = 0,001) có hệ số đường dẫn lớn hơn 0 và thỏa mức ý nghĩa. Do
đó, giả thuyết H9a được ủng hộ. Phân tích sâu hơn về chuỗi trung gian ANJ, EGD
và MJU, kết quả cho thấy ảnh hưởng RCOANJMJUUSB (H10a) (ß= 0,009;
p value = 0,042) và RCOEGDMJUUSB (H11a) (ß= 0,010; p value =0,047)
đều thỏa mức ý nghĩa, do đó, giả thuyết H10a và H11a được ủng hộ. Trước đó, ảnh
hưởng RCOUSB (H1a) (p value = 0,053) đã không được ủng hộ. Kết quả này
phản ánh mâu thuẫn vai trò không có ảnh hưởng trực tiếp mà chỉ có ảnh hưởng gián
tiếp đến USB hoàn toàn nhờ vào chuỗi trung gian của sự lo âu, sự bào chữa, và sự
suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Giả thuyết H9b, H10b, H11b đề cập đến vai trò trung gian của sự bào chữa và
sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm trong những nối kết giữa sức ép bán hàng và USB.
Kết quả cho thấy ảnh hưởng SPRMJUUSB (H9b) (ß= 0,041; p value = 0,007),
SPRANJMJUUSB (H10b) (ß= 0,011; p value =0,035), và
SPREGDMJUUSB (H11b) (ß= 0,016; p value =0,008) có hệ số đường dẫn
lớn hơn 0 và thỏa mức ý nghĩa. Do đó, các giả thuyết được ủng hộ. Trước đó, ảnh
hưởng SPRUSB (H1b) (ß= 0,202; p value = 0,000) cũng được ủng hộ. Do các hệ
số đường dẫn đều cùng dấu, do đó, kết quả này đã phản ánh rằng sự lo âu, sự suy
kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa đã đóng vai trò trung gian một phần và bổ
sung vào sự ảnh hưởng của sức ép bán hàng đối với USB.
Giả thuyết H9c, H10c, H11c đề cập đến vai trò trung gian của sự bào chữa
trong nối kết giữa tính thách thức của mục tiêu và USB. Kết quả cho thấy ảnh
hưởng GDIMJUUSB (H9c) (ß= 0,045; p value = 0,001), ảnh hưởng
GDIANJMJUUSB (H10c) (ß= 0,015; p value = 0,036) , và ảnh hưởng
GDIEGDMJUUSB (H11c) (ß= 0,009; p value = 0,018) có hệ số đường dẫn
lớn hơn 0 và thỏa mức ý nghĩa. Do đó, giả thuyết H9c, H10c, và H11c được ủng hộ.
Tuy nhiên, ảnh hưởng GDIUSB (H1c) đã không được ủng hộ. Kết quả này phản
ánh rằng tính thách thức của mục tiêu không ảnh hưởng trực tiếp đến USB mà chỉ
ảnh hưởng gián tiếp đến USB nhờ vào các trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực
142
tự kiểm, và sự bào chữa.
4.4 Thảo luận kết quả nghiên cứu
Như mục tiêu đã đưa ra, luận án đã phân tích được những ảnh hưởng trực
tiếp và gián tiếp của các áp lực công việc (mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và
tính thách thức của mục tiêu) đối với USB thông qua chuỗi trung gian sự lo âu, sự
suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa. Nhờ đó, luận án đã lấp vào những
khoảng trống (như đã nêu ở chương 1) khi vận dụng các thuyết COR, JD-R và SCT
để lý giải những ảnh hưởng của mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách
thức của mục tiêu đối với USB và làm rõ vai trò trung gian một phần và bổ sung
của sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa trong những ảnh hưởng
nói trên, trong bối cảnh ngành BHNT tại Việt Nam.
Khác với các nghiên cứu trước, kết quả của luận án khẳng định mâu thuẫn
vai trò không ảnh hưởng trực tiếp đến USB, mà hoàn toàn gián tiếp ảnh hưởng đến
USB nhờ vào trung gian sự lo âu và sự bào chữa, chứ không nhờ vào EGD. Kết quả
này được bàn luận lại với người tham gia phỏng vấn (CG3). Người này cũng gợi ý
rằng khi đối mặt với những mâu thuẫn vai trò, cá nhân có thể có những cách đối phó
khác mà các nghiên cứu trước đã từng phân tích, cụ thể như sự kém hài lòng với
công việc và hành vi rời bỏ doanh nghiệp (Richard và cộng sự, 2004; Jaramillo và
cộng sự, 2011), và mâu thuẫn vai trò sẽ chỉ ảnh hưởng đến USB nếu mâu thuẫn vai
trò khiến cá nhân cảm thấy lo âu, và bào chữa cho USB của mình.
Trong khi đó, ảnh hưởng trực tiếp của sức ép bán hàng đối với USB có thể
được xem là khám phá của luận án. Mặc dù hai yếu tố này đã được đề cập trong
nghiên cứu của Yi và cộng sự (2012), tuy nhiên, nghiên cứu của Yi và cộng sự
(2012) đã cho rằng thái độ đạo đức là trung gian nối kết sức ép bán hàng và USB,
và các tác giả chỉ phân tích những ảnh hưởng trực tiếp của sức ép bán hàng đối với
thái độ đạo đức và ảnh hưởng trực tiếp của thái độ đạo đức đối với USB, do đó,
những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của sức ép bán hàng đối với USB vẫn chưa
được làm rõ. Bên cạnh đó, luận án này cũng phát hiện được rằng sức ép bán hàng đã
ảnh hưởng gián tiếp với USB nhờ vào chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn
143
lực tự kiểm, và sự bào chữa (H10b và H11b). Những kết quả này đã góp phần giải
Luận án đã phát hiện được rằng tính thách thức của mục tiêu không ảnh
thích rõ hơn về những tác động của sức ép bán hàng đối với USB.
hưởng trực tiếp đến USB (H1c) mà đã ảnh hưởng gián tiếp đến USB hoàn toàn nhờ
vào các trung gian là sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa (H10c
và H11c). Lý giải cho kết quả này, người tham gia phỏng vấn đồng tình quan điểm
cho rằng tính thách thức của mục tiêu có thể thúc đẩy nhiều hành vi khác nhau, như
hành vi bán hàng linh hoạt, hoặc sự nỗ lực (Fang và cộng sự, 2004), và tính thách
thức của mục tiêu chỉ ảnh hưởng đến USB nếu tính thách thức của mục tiêu khiến
cá nhân cảm thấy lo âu, suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và bào chữa cho hành vi của
mình.
Liên quan đến những nối kết giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính
144
thách thức của mục tiêu đối với sự lo âu (H2a, H2b, H2c) và sự suy kiệt nguồn lực
tự kiểm (H3a, H3b, H3c), kết quả luận án thống nhất với các nghiên cứu trước (Han
và cộng sự, 2014; Mérida-López và cộng sự, 2017; Jones & Cale, 1997; Mawritz và
cộng sự, 2013; Alarcon, 2011; Barling & Frone, 2016; Welsh & Ordonez, 2014) khi
khẳng định mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu làm
tăng sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm.
Kết quả luận án đã ủng hộ những nối kết trực tiếp giữa sự lo âu, sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm, sự bào chữa và USB, và cho thấy sự thống nhất với các nghiên
cứu trước đó (Kouchaki & Desai, 2015; Paciello và cộng sự, 2013; Zhang và cộng
sự, 2020; Barsky, 2011; Fida và cộng sự, 2015; Seriki và cộng sự, 2020), khi phát
hiện sự lo âu có thể thúc đẩy cá nhân chối bỏ đạo đức và thực hiện các hành vi phi
đạo đức. Tương tự, kết quả luận án cũng thống nhất với nghiên cứu của Lee và cộng
sự (2016) khi phát hiện được rằng những người bị suy kiệt nguồn lực tự kiểm có xu
hướng bào chữa và thực hiện hành vi phi đạo đức nhiều hơn. Kết quả này đã góp
phần phúc đáp cho những nghi vấn của các học giả Huberts và cộng sự (2014) về
những nối kết giữa sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm đối và sự bào chữa. Ngoài ra,
những phát hiện của luận án về vai trò trung gian của sự bào chữa trong quan hệ
giữa sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và USB (H4, H5) đã góp phần khẳng
định cho những báo cáo của Gino và cộng sự (2011), Kouchaki và Desai (2015),
Zhang và cộng sự (2020), Paciello và cộng sự (2013), Lee và cộng sự (2016), và
Wang và cộng sự (2017) về những nối kết giữa sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự
kiểm và hành vi phi đạo đức.
145
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
Với mong muốn phân tích quan hệ giữa mâu thuẫn vai trò, sức ép bán
hàng, tính thách thức của mục tiêu, sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, sự
bào chữa, và USB, nghiên cứu chính thức với mẫu nghiên cứu 402 người bán
BHNT tại Việt Nam đã được thực hiện. Cùng với sự hỗ trợ của phần mềm
SmartPLS, các cấu trúc thang đo đã được đánh giá lại, đồng thời, các giả thuyết
đã được kiểm định.
Kết quả cho thấy chỉ có sức ép bán hàng có ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp đến USB thông qua chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự
kiểm và sự bào chữa. Trong khi đó, mâu thuẫn vai trò và tính thách thức của
mục tiêu đã không ảnh hưởng trực tiếp đối với USB. Cụ thể hơn, mâu thuẫn vai
trò đã ảnh hưởng gián tiếp đến USB hoàn toàn nhờ vào trung gian sự lo âu và sự
bào chữa. Trong khi đó, tính thách thức của mục tiêu đã ảnh hưởng gián tiếp
đến USB nhờ vào chuỗi trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự
bào chữa. Từ những kết quả trên, phần dưới đây sẽ trình bày những hàm ý quản
trị, nêu ra những hạn chế của nghiên cứu, và gợi ý những hướng nghiên cứu
tương lai.
146
CHƯƠNG 5- KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
5.1 Kết luận
Dựa vào mô hình được đề xuất, với các giả thuyết được phát triển, luận án đã
thực hiện các nghiên cứu định tính và định lượng nhằm đánh giá các thang đo, và
kiểm định giả thuyết. Theo đó, mô hình đã kết nối các yếu tố gồm mâu thuẫn vai
trò, sức ép bán hàng, tính thách thức của mục tiêu, và sự lo âu, sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm, và sự bào chữa với USB. Luận án đã thực hiện cả nghiên cứu định tính
và nghiên cứu định lượng để hiểu thêm về các khái niệm và kiểm định các giả
thuyết về quan hệ giữa các khái niệm. Như kỳ vọng, kết quả đã khẳng định mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu, sự lo âu, sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa đã cùng tham gia tác động đến USB.
Theo đó, nghiên cứu định tính với việc phỏng vấn và phân tích nội dung định
tính đã cho thấy những cách hiểu của những người tham gia phỏng vấn phù hợp với
các khái niệm được trình bày trong luận án, qua đó góp phần làm rõ hơn những khái
niệm trong bối cảnh ngành BHNT tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu định tính là cơ
sở để luận án tiến hành các nghiên cứu sơ bộ nhằm đánh giá thang đo, và sau đó
thực hiện nghiên cứu chính thức nhằm kiểm định giả thuyết.
Kết quả kiểm định các giả thuyết trong nghiên cứu định lượng cho thấy trong
khi sức ép bán hàng ảnh hưởng trực tiếp lẫn gián tiếp đến USB, thì mâu thuẫn vai
trò và tính thách thức của mục tiêu chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến USB. Bên cạnh
đó, luận án cũng phát hiện được rằng mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, tính thách
thức của mục tiêu có ảnh hưởng tích cực đến USB nhờ vào chuỗi trung gian sự lo
âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và sự bào chữa. Khi mâu thuẫn vai trò, sức ép
bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu càng cao, người bán hàng sẽ càng lo âu
và suy kiệt nguồn lực tự kiểm bản thân. Sự lo âu và sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm
làm tăng sự bào chữa và USB, đồng thời, sự bào chữa cũng làm tăng USB. Kết quả
này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây khi cho rằng mâu thuẫn vai trò, sức
ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu có thể là tác nhân làm tăng những căng
thẳng của người bán hàng (Richard và cộng sự, 2004; Jaramillo và cộng sự, 2011)
147
và dẫn đến hành vi phi đạo đức (Wang và cộng sự, 2017; Yi và cộng sự, 2012; Chiu
và cộng sự, 2015).
5.2 Đóng góp của luận án
Thông qua việc tổng hợp thuyết COR, thuyết JD-R, và thuyết SCT để nghiên
cứu về sự ảnh hưởng của các áp lực công việc (mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng,
tính thách thức của mục tiêu) đối với USB, luận án đã hoàn thành các mục tiêu
nghiên cứu, qua đó khẳng định những đóng góp sau:
Thứ nhất, luận án khám phá chuỗi trung gian (serial mediation model) sự lo
âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và sự bào chữa trong việc nối kết các áp lực công
việc và USB, qua đó, góp phần làm rõ hơn những diễn biến tâm lý của cá nhân. Kết
quả của luận án đã làm rõ những áp lực công việc có thể dẫn đến những căng thẳng
(gồm sự lo âu và sự bào chữa), từ đó, ảnh hưởng đến nhận thức của cá nhân (sự bào
chữa), và từ đó, dẫn đến USB. Với khám phá này, luận án cũng đã góp phần phúc
đáp cho những kêu gọi của các học giả Seriki và cộng sự (2020) trong việc tìm kiếm
thêm những trung gian ẩn sau các hành vi phi đạo đức. Bên cạnh đó, việc vận dụng
các thuyết COR, JD-R và SCT không chỉ giúp luận án phúc đáp cho lời kêu gọi của
các học giả Ameer và Halinen (2019) và McClaren (2015) trong việc vận dụng
những lý thuyết khác để tìm hiểu về các hành vi phi đạo đức trong bán hàng, mà
còn giúp luận án khai thác một góc nhìn về USB như là hành vi nhằm bảo tồn và tối
thiểu hóa các nguồn lực của cá nhân, mà còn giúp luận án. Khác với các nghiên
cứu trước cho rằng người bán hàng thực hiện USB khi họ đã cân nhắc các vấn
đề đạo đức (Abratt & Penman, 2002; Cupach & Carson, 2002; Tseng, 2019),
tức là họ đã dành các nguồn lực của mình để nhận thức và phân tích các vấn đề
đạo đức (Hunt & Vitell, 1986), luận án này gợi mở góc nhìn khác về USB, theo
đó, để bảo tồn các nguồn lực của mình, người bán hàng đã không tiêu hao các
nguồn lực để phân tích các vấn đề đạo đức, do đó, họ đã không nhận thấy
những khía cạnh phi đạo đức (có thể có), và vì vậy, họ đã thực hiện USB chỉ
nhằm đế đối phó với những áp lực và những căng thẳng trong công việc.
Thứ hai, luận án làm rõ vai trò trung gian một phần và bổ sung của sự bào
148
chữa trong việc nối kết sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm và USB, nhờ đó,
giúp lý giải rõ hơn bằng cách nào mà sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm có thể
ảnh hưởng đến USB. Kết quả này đã góp phần cung cấp minh chứng ủng hộ cho lập
luận của Zhang và cộng sự (2020) rằng những căng thẳng (ví dụ như sự lo âu) có
thể ảnh hưởng đến nhận thức (ví dụ như sự bào chữa) của cá nhân, từ đó, thúc đẩy
cá nhân thực hiện hành vi phi đạo đức.
Thứ ba, bằng việc áp dụng phỏng vấn, phân tích nội dung định tính, và khảo
sát 402 người tư vấn bán BHNT, luận án đã góp phần phản ánh được những áp lực
công việc mà người tư vấn bán BHNT đang phải đối mặt trong thực tế, cũng như
thu nhận được những cách hiểu về USB, nhờ đó, giúp hiểu hơn các khái niệm với
bối cảnh ngành BHNT của Việt Nam.
Cuối cùng, luận án đã tìm hiểu về USB trong bối cảnh ngành BHNT, một
ngành dịch vụ với sản phẩm vô hình đang đối mặt với nhiều thách thức đạo đức
trong bán hàng. Kết quả của luận án cũng là tài liệu để các nhà quản trị và các nhà
nghiên cứu có thể tham khảo và tìm hiểu về USB.
5.3 Hàm ý quản trị
Nghiên cứu thực sự đã đưa ra những thách thức cho các tổ chức doanh nghiệp
nói chung, và cho các hãng BHNT nói riêng. Bởi lẽ, trong công việc bán hàng, mâu
thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu là những áp lực công
việc mà người bán hàng thường đối mặt. Điều đáng lưu ý là, nghiên cứu đã chỉ ra
rằng những áp lực công việc nói trên đã dẫn đến sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự
kiểm, từ đó, thúc đẩy cá nhân bào chữa, khi sự bào chữa càng tăng, thì xu hướng cá
nhân thực hiện USB càng tăng.
Kết quả của luận án (tham khảo thêm ở phụ lục 14.3) cho thấy ở thang đo sự
lo âu, các giá trị trung bình của các biến đều vượt trên mức 4,485 (ANJ6), phản ánh
rằng người bán hàng đang cảm nhận sự lo âu rất lớn trong công việc. Đặc biệt, giá
trị trung bình của biến ANJ8 (Ngay cả khi tôi đã cố gắng hết sức, tôi vẫn lo sợ rằng
kết quả làm việc của mình chưa tốt) (4,694) là cao nhất, phản ánh rằng người bán
hàng rất lo lắng về kết quả làm việc của họ. Bên cạnh đó, ở thang đo sự suy kiệt
149
nguồn lực tự kiểm, giá trị trung bình của biến EGD4 (3,774) là khá cao, phản ánh
rằng người bán hàng đang cảm nhận sự cạn kiệt năng lượng trong công việc. Chính
vì vậy, việc giảm mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục
tiêu được kỳ vọng có thể giúp giảm đi sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, nhờ
đó, giảm đi sự bào chữa và USB của người bán hàng. Với những kết quả trong luận
án, một số hàm ý quản trị được đề xuất như sau:
5.3.1. Các hãng bảo hiểm cần giảm mâu thuẫn vai trò trong công việc
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mâu thuẫn vai trò làm tăng sự lo âu, sự suy kiệt
nguồn lực tự kiểm, từ đó làm tăng sự bào chữa và USB. Kết quả này cũng phù hợp
với nghiên cứu trước đó của Jaramillo và cộng sự (2011), khi nghiên cứu chỉ ra rằng
mâu thuẫn vai trò có thể làm tăng những mâu thuẫn nội tâm của người bán hàng, từ
đó, gia tăng sự cạn kiệt cảm xúc của họ. Tương tự, một nghiên cứu trước đó của
Richard và cộng sự (2004) cũng cho thấy mâu thuẫn vai trò có thể làm tăng những
căng thẳng ở người bán hàng.
Trong thang đo mâu thuẫn vai trò, biến RCO3 (Tôi cảm thấy mình phải làm
hài lòng quá nhiều người khác nhau) có giá trị trung bình là 3,037, cao nhất so với
các biến RCO1 (2,995) và RCO2 (3,205), phản ánh rằng người bán hàng đang cảm
nhận mâu thuẫn vai trò rất lớn bởi việc họ phải cố gắng cân bằng lợi ích và nhu cầu
của các bên liên quan (như khách hàng, hay chủ doanh nghiệp), và điều này có thể
khiến họ lo lắng rằng họ có thể không làm tốt được công việc của mình. Chính vì
vậy, việc giảm mâu thuẫn vai trò là rất cần thiết.
Dựa vào các biến quan sát trong thang đo này, có thể thấy rằng mâu thuẫn vai
trò được hình thành từ việc người bán hàng phải lách các quy định để thực hiện
công việc (Rod và cộng sự, 2008), hoặc họ phải cố gắng làm hài lòng nhiều người
khác nhau, trong khi đó, có thể người này muốn thế này nhưng người kia lại muốn
thế khác (Rod và cộng sự, 2008). Do đó, để có thể giảm những cảm nhận của người
bán hàng về mâu thuẫn vai trò trong công việc, các hãng bảo hiểm cũng cần có
những hỗ trợ, chia sẻ thông tin, ghi nhận và hỗ trợ người bán hàng nhằm nắm bắt
kịp thời những khó khăn của người bán hàng, để từ đó có những hỗ trợ cần thiết
150
khác cho người bán hàng nhằm giúp họ hoàn thành công việc. Cụ thể như các hãng
bảo hiểm nên tổ chức thường xuyên các cuộc họp với người bán hàng để nắm bắt
vấn đề của người bán hàng và đưa ra những chính sách kịp thời. Một nghiên cứu
trước đó của Miao và Evans (2013) cũng cho thấy việc tổ chức chú trọng vào sự hỗ
trợ người bán hàng có thể làm giảm những mâu thuẫn vai trò của người bán hàng.
Do đó, những quy định phù hợp và những chính sách hỗ trợ người bán hàng được
kỳ vọng có thể giúp người bán hàng tránh được những cảm nhận rằng họ đang phải
lách các quy định để hoàn thành công việc.
5.3.2. Các hãng bảo hiểm cần cân nhắc tạo ra sức ép bán hàng phù hợp
Luận án đã chỉ ra rằng sức ép bán hàng làm tăng sự lo âu, sự suy kiệt nguồn
lực tự kiểm, từ đó làm tăng sự bào chữa và USB. Kết quả này cũng thống nhất với
nghiên cứu trước đó của Yi và cộng sự (2012) khi phát hiện được rằng sức ép bán
hàng có thể tác động làm giảm thái độ đạo đức của người bán hàng, thái độ đạo đức
càng giảm thì xu hướng thực hiện USB càng tăng.
Trong thang đo sức ép bán hàng, giá trị trung bình của SPR2 (Công ty luôn
tìm cách tạo ra áp lực buộc nhân viên phải bán được hàng) là 4,525, cao hơn so với
các biến SPR1 (4,361) và SPR3 (4,507), điều này phản ánh rằng người bán hàng
đang cảm nhận sức ép bán hàng rất lớn từ việc các hãng BHNT gây áp lực buộc họ
phải bán được hàng. Chính vì vậy, các hãng bảo hiểm cần cân nhắc khi vận dụng
các chính sách quản trị nhằm tạo ra những áp lực buộc người bán hàng phải bán
được hàng. Với những chương trình đào tạo, bên cạnh việc đào tạo các kỹ thuật bán
hàng, các tổ chức cũng cần nhấn mạnh với người bán hàng về việc tư vấn đầy đủ
cho khách hàng, nhấn mạnh những cảnh báo về các dạng hành vi bán hàng có thể
dẫn đến những bất lợi cho khách hàng, và những hình thức xử phạt của hãng bảo
hiểm với các dạng hành vi này, để người bán hàng có thể nhận biết được những
thách thức đạo đức mà họ có thể đối mặt. Bên cạnh đó, tương tự như những gợi ý
của Roman và Ruiz (2005), Yi và cộng sự (2012), từ kết quả của luận án này, các
hãng bảo hiểm cũng cần cân nhắc thiết kế những chương trình đào tạo bán hàng,
trong đó nhấn mạnh các nội dung đạo đức và huấn luyện thêm những hành vi đạo
151
đức phù hợp cho các tình huống bán hàng.
Một nghiên cứu của Tseng và cộng sự (2016) khi nghiên cứu về những ảnh
hưởng của định hướng bán hàng (của các tổ chức) và hoa hồng đối với ý định (của
người bán BHNT) trong việc tư vấn các sản phẩm BHNT không phù hợp cho khách
hàng cũng đã phát hiện được rằng định hướng bán hàng (của các tổ chức) thì người
bán hàng sẽ có thể bào chữa cho USB của mình, và họ sẽ nhìn nhận việc tư vấn các
sản phẩm BHNT không phù hợp với khách hàng cũng không có gì sai trái. Chính vì
vậy, những chương trình đào tạo nhấn mạnh nhiệm vụ phục vụ và tìm hiểu nhu cầu
khách hàng (thay vì chỉ tập trung nhấn mạnh nhiệm vụ bán hàng) cũng được kỳ
vọng có thể góp phần giảm được sự bào chữa và USB của người bán hàng.
5.3.3. Các hãng bảo hiểm cần cân nhắc thiết lập các mục tiêu
Luận án phát hiện được rằng tính thách thức của mục tiêu là một tác nhân
thúc đẩy USB, thông qua các trung gian sự lo âu, sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, và
sự bào chữa. Đồng nhất với các nhiên cứu trước (Barsky, 2008; Welsh & Ordonez,
2014), kết quả của luận án đã đưa ra thách thức lớn cho các nhà quản trị, bởi doanh
nghiệp đều muốn gia tăng doanh số, và thiết lập mục tiêu doanh số cao cho nhân
viên là cách mà các doanh nghiệp thường áp dụng. Trong trường hợp của người bán
hàng, đối với các mục tiêu như doanh số bán hàng, các hãng bảo hiểm có thể xem
xét đưa ra nhiều mức độ doanh số với nhiều cấp độ hoàn thành khác nhau, để người
bán hàng không cảm thấy lo lắng nếu không đạt được các mục tiêu quá khó, nhờ đó,
sự bào chữa và USB của người bán hàng có thể sẽ suy giảm.
Theo như luận án này, những mục tiêu chú trọng vào kết quả cuối cùng (như
doanh số bán hàng) chính là tác nhân dẫn đến USB. Chính vì vậy, thay vì chỉ chú
trọng vào kết quả cuối cùng là doanh số bán hàng, các hãng bảo hiểm có thể đặt ra
mục tiêu học tập nhằm phát triển chuyên môn của người bán hàng, nhằm nhấn
mạnh với người bán hàng rằng bên cạnh nhiệm vụ bán hàng, họ còn có nhiệm vụ
trong việc tìm hiểu, tư vấn, và làm hài lòng khách. Trước đó, nghiên cứu của Welsh
và cộng sự (2019) cũng đã phát hiện được rằng những mục tiêu học tập vẫn có thể
làm tăng kết quả công việc. Bên cạnh đó, những mục tiêu học tập có tính thách thức
152
càng cao cũng không làm cho cá nhân lo sợ bị thất bại, do đó, cá nhân ít thực hiện
hành vi phi đạo đức hơn (Welsh và cộng sự, 2019). Chính vì vậy, thay vì chỉ tập
trung vào các mục tiêu kết quả cuối cùng, các hãng BHNT có thể cân nhắc bổ sung
thêm các mục tiêu học tập cho người bán hàng, ví dụ như nhấn mạnh với họ các
mục tiêu công việc có thể giúp họ học hỏi được gì, cải thiện hay nâng cao được
những năng lực gì cho họ, họ có thể có cơ hội hiểu thêm về người khách hàng như
thế nào, công việc của họ có thể mang lại những ý nghĩa gì cho khách hàng của
mình. Để làm được điều này, các hãng bảo hiểm có thể thiết kế các chương trình
đánh giá và khen thưởng nhằm khuyến khích người bán hàng đạt được những mục
tiêu học tập trong công việc bán hàng, cũng như khen thưởng khuyến khích các
hành vi bán hàng đạo đức (Roman và Ruiz, 2005), ví dụ như thay vì chỉ chú trọng
vào việc phải bán được hàng và đánh giá kết quả làm việc qua tiêu chí doanh số, các
hãng bảo hiểm có thể đánh giá người bán hàng qua tiêu chí sự hài lòng của khách
hàng.
5.4 Những hạn chế và gợi ý
Mặc dù đã có những đóng góp về mặt học thuật và thực tiễn, tuy nhiên, luận
án này khó tránh khỏi những hạn chế. Thứ nhất, do luận án chỉ khảo sát người bán
bảo hiểm trong ngành BHNT, và chỉ giới hạn nghiên cứu một số yếu tố nhất định
(bao gồm mâu thuẫn vai trò, sức ép bán hàng, và tính thách thức của mục tiêu),
trong khi đó, nhiều áp lực công việc khác cũng có thể ảnh hưởng đến USB. Các
nghiên cứu tiếp theo có thể kiểm định lại mô hình và các giả thuyết trong bối cảnh
ngành nghề khác hoặc các chức danh công việc khác, để góp phần kiểm định lý
thuyết, cũng như khám phá được nhiều hơn các khía cạnh công việc đặc thù của các
chức danh công việc khác nhau.
Thứ hai, luận án này thực hiện thu thập dữ liệu bằng cách khảo sát người bán
bảo hiểm và đề nghị họ tự đánh giá về hành vi của họ. Do đó, kết quả khảo sát bị
phụ thuộc nhiều vào tính trung thực của người được khảo sát. Để đảm bảo tính
trung thực của người tham gia khảo sát, trong nghiên cứu này, các bản khảo sát
không yêu cầu bắt buộc phải cung cấp các thông tin cá nhân của đáp viên (ví dụ như
153
họ tên, địa chỉ facebook, email hay số điện thoại của đáp viên), tức là đáp viên có
thể cung cấp hoặc không cung cấp thông tin cá nhân của mình. Điều này có nghĩa
là, việc đáp viên cung cấp các thông tin cá nhân là hoàn toàn tự nguyện, và đáp viên
cảm thấy thoải mái trong việc cung cấp thông tin của mình, do đó, họ ít lo lắng, và
mức độ sẵn lòng chia sẻ quan điểm sẽ cao hơn (Yang và cộng sự, 2018). Tuy nhiên,
để đánh giá khách quan hơn về USB, các nghiên cứu tương lai có thể thực hiện
khảo sát khách hàng để thu thập được những phản ánh của khách hàng về hành vi
bán hàng của người bán hàng.
Thứ ba, nghiên cứu này mặc dù đã khám phá được một số yếu tố trung gian
nối kết các áp lực công việc và USB, tuy nhiên, như đã đề cập, có thể vẫn còn nhiều
yếu tố trung gian khác liên quan đến hành vi phi đạo đức (Seriki và cộng sự, 2020).
Để có thể hiểu thêm USB, các nghiên cứu tương lai có thể tìm hiểu thêm các yếu tố
trung gian khác.
Thứ tư, nghiên cứu này chỉ tập trung vào USB, và giới hạn ở các hành vi nhất
định, tuy nhiên, còn rất nhiều dạng USB khác, và cũng còn rất nhiều dạng hành vi
phi đạo đức khác có thể xảy ra trong bán hàng, ví dụ như hành vi cấu kết với khách
hàng để làm hồ sơ tạm báo cáo doanh số. Các nghiên cứu sau có thể mở rộng tìm
hiểu những dạng hành vi này.
Thứ năm, mặc dù có kế thừa các thang đo từ các nghiên cứu trước, tuy nhiên,
với những bối cảnh nghiên cứu khác nhau, việc dịch thuật và điều chỉnh thang đo
cũng có những hạn chế. Chính vì vậy, các nghiên cứu sau có thể tiếp tục phát triển
các thang đo sao cho phù hợp hơn với bối cảnh nghiên cứu tại xã hội Việt Nam.
Cuối cùng, luận án này được thực hiện tại Việt Nam. Tuy nhiên, những bối
cảnh nghiên cứu khác nhau có thể sẽ có những phát hiện khác nhau (Cheng và cộng
sự, 2014). Chính vì vậy, các nghiên cứu tương lai có thể thực hiện kiểm định lại tại
những quốc gia khác, và góp phần khẳng định lý thuyết trong những bối cảnh
nghiên cứu khác nhau.
154
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Buzzmetrics, 2016. Khách hàng nói gì về BHNT Việt Nam trên social
media Q1/2016? Có tại hiem-tren-social-media-q1-2016/>. [Ngày truy cập: 26 tháng 11năm 2019]. Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm, 2020. Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2019. Có tại < https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh/ngttbh_chitiet?dDoc Name=MOFUCM180833&_adf.ctrl- state=fe0bllx6v_158&_afrLoop=1976606089693914#%40%3F_afrLoop%3D19766 06089693914%26dDocName%3DMOFUCM180833%26_adf.ctrl- state%3Dmt9ho2a0p_677>. [Ngày truy cập: 12 tháng 01năm 2021]. Hiệp, T.M., 2020. Bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 15. Có tại < http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210634>. [Ngày truy cập: 12 tháng 01năm 2021]. Nha Trang, 2019. BHNT tăng tốc: Nơm nớp nỗi lo. Kinh tế và Đô thị. Có tại [Ngày truy cập: 26 tháng 11năm 2019]. Nhung, D.H., 2014. Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, 30:33-40. Tiếng Anh Abratt, R., & Penman, N., 2002. Understanding factors affecting salespeople’s perceptions of ethical behavior in South Africa. Journal of Business Ethics, 35:269-280. Agnihotri, R., Rapp, A., Kothandaraman, P., & Singh, R.K., 2012. An Emotion-Based Model of Salesperson Ethical Behaviors. Journal of Business Ethics, 109:243–257. 155 Ajzen, I., 2005. Attitudes, personality, and behavior. Dorsey Press. Alarcon, G.M., 2011. A meta-analysis of burnout with job demands, resources, and attitudes. Journal of Vocational Behavior, 79:549–562. Ameer, I., & Halinen, A., 2019. Moving beyond ethical decision-making: a practice-based view to study unethical sales behavior. Journal of Personal Selling & Sales Management,39: 1–20. Agnihotri, R., Rapp, A., Kothandaraman, P., & Singh, R.K., 2011. An Emotion-Based Model of Salesperson Ethical Behaviors. Journal of Business Ethics, 109:243–257. doi:10.1007/s10551-011-1123-3 Babakus, E., Yavas, U., & Ashill, N.J., 2009. The Role of Customer Orientation as a Moderator of the Job Demand–Burnout–Performance Relationship: A Surface-Level Trait Perspective. Journal of Retailing, 85:480- 492. Babin, B.J., Boles, J.S., & Robin, D.P., 2000. Representing the perceived ethical work climate among marketing employees. Journal of the Academy of Marketing Science, 28:345-358. Bakker, A.B., & Demerouti, E., 2017. Job demands–resources theory: Taking stock and looking forward. Journal of Occupational Health Psychology, 22:273-285. Bandura, A., 2002. Selective Moral Disengagement in the Exercise of Moral Agency. Journal of Moral Education, 31:101-119. Barling, J., & Frone, M.R., 2016. If only my leader would just do something! Passive leadership undermines employee well-being through role stressors and psychological resource depletion. Stress Health, 33:211–222. Barsky, A., 2008. Understanding the ethical cost of organizational goal- setting: A review and theory development. Journal of Business Ethics, 81:63- 81. Barsky, A., 2011. Investigating the effects of moral disengagement and participation on unethical work behavior. Journal of Business Ethics, 104:59- 156 75. Baumeister, R.F., & Vohs, K.D., 2016. Strength model of self-regulation as limited resource: Assessment, Controversies, Update. Advances in Experimental Social Psychology, 54:67-127. Carlson, J., & O'Cass, A., 2010. Exploring the relationships between e‐service quality, satisfaction, attitudes and behaviours in content‐driven e‐service web sites. Journal of Services Marketing, 24:112-127 Caza, A., 2012. Typology of the eight domains of discretion in organizations. Journal of Management Studies, 49: 144–177. Chen, Y., Li, S., Xia, Q., & He, C., 2017. The Relationship between Job Demands and Employees’ Counterproductive Work Behaviors: The Mediating Effect of Psychological Detachment and Job Anxiety. Fronitier in Psychology. doi: 10.3389/fpsyg.2017.01890. Cheng, C., Hsieh, C., & Yang, Y., 2014. Who would engage in unethical behavior? Should organizations bear the responsibility? Quality and Quantity, 48:2341-2354. Chen, M.F., & Mau, L.H., 2009. The impacts of ethical sales behaviour on customer loyalty in the life insurance industry. The Service Industries Journal, 29:59–74. Chiu, S.-F., Yeh, S.-P., & Huang, T.C., 2015. Role stressors and employee deviance: The moderating effect of social support. Personnel Review, 44:308–324 Cupach, W., & Carson, J.M., 2002. The Influence of Compensation on Product Recommendations Made by Insurance Agents. Journal of Business Ethics, 40:167- 176 Ergeneli, A., & Arikan, S., 2002. Gender differences in ethical perceptions of salespeople: An empirical examination in Turkey. Journal of Business Ethics, 40:247-260. Erlingssona, C., & Brysiewicz, P., 2017. A hands-on guide to doing content analysis. African Journal of Emergency Medicine, 7:93-99. 157 Eysenck, M.W., & Derakshan, N., 2011. New perspectives in attentional control theory. Personality and Individual Differences, 50:955-960. Fang, E., R. Palmatier, R., & Evans, K.R., 2004. Goal-setting paradoxes? Trade-offs between working hard and working smart: The United States versus China. Journal of the Academy of Marketing Science, 32:188−202. Ferrell, L., & Ferrell, O.C., 2012. Redirecting direct selling: High-touch embraces high-tech. Business Horizons, 55:273–281. Ferrell, O.C., Harrison, D.E., Ferrell, L., & Hair, J.F., 2019. Business ethics, corporate social responsibility, and brand attitudes: An exploratory study. Journal of Business Research, 95:491-501. Ferrell, O.C., Johnston, M.W, & Ferrell, L., 2007. A Framework for Personal Selling and Sales Management Ethical Decision Making. The Journal of Personal Selling and Sales Management, 27:291-299. Fida, P., Tramontano, C., Fontaine, R.G., Barbaranelli, C., & Farnese, M.L., 2015. An integrative approach to understanding counterproductive work behavior: the roles of stressors, negative emotions, and moral disengagement. Journal of Business Ethics, 130:131-144. Gino, F., 2015. Understanding ordinary unethical behavior: why people who value morality act immorally. Current Opinion in Behavioral Sciences, 3: 107–111. Gino, F., Schweitzer, M.E., Mead, N. L., & Ariely, D., 2011. Unable to resist temptation: How self-control depletion promotes unethical behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 115:191-203. Glazer, S., & Beehr, T.A., 2005. Consistency of implications of three role stressors across four countries. Journal of Organizational Behavior, 26:467- 487. Górny, A., & Napierała, J., 2015. Comparing the effectiveness of respondent-driven sampling and quota sampling in migration research. International Journal of Social Research Methodology, 19:645-661. Guenzi, P., & Panzeri, F., 2015. How salespeople see organizational 158 citizenship behaviors: an exploratory study using the laddering technique. Journal of Business & Industrial Marketing, 30:218-232. Halbesleben, J.R.B., Neveu, J., Paustian-Underdahl, S.C., & Westman, M., 2014. Getting to the “COR”: Understanding the Role of Resources in Conservation of Resources Theory. Journal of Management, 40: 1334-1364. Han, Y., Wang, M., & Dong, L., 2014. Role Conflict and the Buffering Effect of Proactive Personality Among Middle Managers. Social Behavior and Personality, 42:473-486. Hair, J.F., J., Sarstedt, M., Hopkins, L., & G. Kuppelwieser, V., 2014, Partial least squares structural equation modeling (PLS-SEM): An emerging tool in business research, European Business Review, 26:106-121. Hobfoll, S.E., 1989. Conservation of resources: A new attempt at conceptualizing stress. American Psychologist, 44:513–524. Hobfoll, S.E., 2002. Social and psychological resources and adaptation. Review of General Psychology, 6:307–324. doi:10.1037/1089-2680.6.4.307 Hobfoll, S.E., Tirone, V., Holmgreen, L., & Gerhart, J., 2016. Conservation of Resources Theory Applied to Major Stress, 65–71. George Fink (Editor) (2016). Stress: Concepts, Cognition, Emotion, and Behavior (1st Edition). Academic Press. doi:10.1016/b978-0-12-800951-2.00007-8. Huberts, J.C.D.W, Evers, C., & Ridder, D.T.D.D, 2014. Because I Am Worth It”: A Theoretical Framework and Empirical Review of a Justification-Based Account of Self-Regulation Failure. Personality and Social Psychology Review, 18:119-138. Howe, V., Hoffman, K., & Hardigree, D., 1994. The relationship between Ethical and Customer-Oriented Service Provider Behaviors. Journal of Business Ethics, 13:497-506. Hunt, S.D., & Vitell, S., 1986. A General Theory of Marketing Ethics. Journal of Macromarketing, 6:5-16. Hsieh, H.F., & Shannon, S.E., 2005. Three approaches to qualitative 159 content Analysis. Qualitative Health Research, 15:1277-1288. Ingram, T.N., Laforge, R.W., & Schwepker Jr., C.H., 2007. Salesperson Ethical Decision Making: The Impact of Sales Leadership and Sales Management Control Strategy. Journal of Personal Selling & Sales Management, 27:301-315 Jaramillo, F., Mulki, J.P., & Boles, J.S., 2011. Workplace Stressors, Job Attitude, and Job Behaviors: Is Interpersonal Conflict the Missing Link? Journal of Personal Selling & Sales Management, 31:339-356. Jones, G., & Cale, A., 1997. Goal difficulty, anxiety and performance. Ergonomics, 40:319–333. Kelman, H.C. 1958. Compliance identification, and internalization: three processes of attitude change. Journal of Conflict Resolution, 2:51-60. Kouchaki, M., & Desai, S.D., 2015. Anxious, threatened, and also unethical: How anxiety makes individuals feel threatened and commit unethical acts. Journal of Applied Psychology, 100:360-375. Kunda, Z., 1990. The case for motivated reasoning. Psychological Bulletin, 108:480–498. Lee, K.Y., Kim, E., Bhave, D.P., & Duffy, M.K., 2016. Why victims of undermining at work become perpetrators of undermining: An integrative model. Journal of Applied Psychology, 101:915-924. Lee, Y., Heinze, T., Donoho, C., Fournier, C., Jalal, A.A.F.M., Cohen, D., & Hennebichler, E., 2018. An International Study of Culture, Gender, and Moral Ideology on Sales Ethics Evaluations: How Should Educators Respond? Journal of Marketing Education, 40:1–15. Lewis, P.V., 1985. Defining “business ethics”: Like nailing jello to a wall. Journal of Business Ethics, 4:377–383. Li, N., & Murphy, W.H., 2012. A Three-Country Study of Unethical Sales Behaviors. Journal of Business Ethics. DOI 10.1007/s10551-012-1203-z. Lindner, C., Lindner, M.A., & Retelsdorf, J., 2019. Measuring Self-Control Depletion in Achievement Situations: A Validation of the 5-Item Brief State 160 Self-Control Capacity Scale. Diagnostica, 65: 228–242. Mawritz, M.B., Folger, R., & Latham, G.P., 2013. Supervisors’ exceedingly difficult goals and abusive supervision: The mediating effects of hindrance stress, anger, and anxiety. Journal of Organizational Behavior, 35: 358–372. McCarthy, J.M., Trougakos, J.P., & Cheng, B.H., 2016. Are anxious workers less productive workers? It depends on the quality of social exchange. Journal of Applied Psychology, 101:279-291. McClaren, N., 2015. The Methodology in Empirical Sales Ethics Research: 1980–2010. Journal of Business Ethics, 127:121–147. Mérida-López, S., Extremera, N., & Rey, L., 2017. Emotion-regulation ability, role stress and teachers’ mental health. Occupational Medicine, 67:540- 545. Miao, C.F., & Evans, K.R., 2013. The interactive effects of sales control systems on salesperson performance: a job demands–resources perspective. Journal of Acadamy Marketing Science, 41:73-90. Munoz, L., & Mallin, M., 2019. Unethical sales behavior neutralization: the impact of salesperson role variables and moderating effects of role relationship orientation. Journal of Business & Industrial Marketing, 34:62-79. Niven, & Healy, 2015. Susceptibility to the “dark side” of goal-setting: Does moral justification influence the effect of goals on unethical behavior? Journal of Business Ethics, 137:115-127. O’Brian, B., 1999. Prudential fine $20 million by NASD over its sales of variable life insurance. The Wall Street Journal. Available at < https://www.wsj.com/articles/SB931456104708549578>. Paciello, M., Fida, R., Cerniglia, L., Tramontano, C., & Cole, E., 2013. High cost helping scenario: The role of empathy, prosocial reasoning and moral disengagement on helping behavior. Personality and Individual Differences, 51:3-7. Pham, L.N., Nguyen, L.D., & Favia, M.J., 2015. Business students’ 161 attitudes toward business ethics: an empirical investigation in Vietnam. Journal of Asia Business Studies, 9:289–305. Quade, M., Greenbaum, R. L., Eissa, G., Mawritz, M., & Kim, J., 2013. Unethical Customers and Employee Burnout: The Role of Ethical Leadership. Academy of Management Proceedings, (1), 10556. Doi:10.5465/ambpp.2013.106. Radin, T.J., & Predmore, C.E., 2002. The Myth of the Salesperson: Intended and Unintended Consequences of Product-Specific Sales Incentives. Journal of Business Ethics, 36:79-92. Richard, G.N., Thomas, B., & James, S.B., 2004. Cross-National Model of Job-Related outcomes of Work Role and Family Role Variables: A Retail Sales Context. Journal of the Academy of Marketing Science, 32: 49-60. Rivkin, W., Diestel, S., & Schmidt, K.H. 2015. Psychological detachment: A moderator in the relationship of self-control demands and job strain. European Journal of Work and Organizational Psychology, 24: 376–388. Robert, L., Harrison, T.M., & Reilly, 2011. Mixed methods designs in marketing research. Qualitative Market Research, 14:7-26. Rod, M., Ashill, N.J., & Carruthers, J., 2008. The relationship between job demand stressors, service recovery performance and job outcomes in a state-owned enterprise. Journal of Retailing and Consumer Services, 15:22-31. Rodriguez-Escudero, A.I., Carbonell, P., & Munuera-Aleman, J.L., 2010. Positive and Negative Effects of Team Stressors on Job Satisfaction and New Product Performance. The Journal of Product Innovation Management, 27: 856-868. Roman, S., 2003. The impact of ethical sales behavior on customer satisfaction, trust and loyalty to the company: An empirical study in the financial services industry. Journal of Marketing Management, 19:915-939. Roman, S., & Munuera, J.L., 2005. Determinants and consequences of ethical behaviour: an empirical study of salespeople. European Journal of Marketing, 39:473-495. 162 Roman, S., & Ruiz, S., 2005. Relationship outcomes of perceived ethical sales behavior: the customer’s perspective. Journal of Business Research, 58:439-445. Rostami, A., Gabler, C., & Agnihotri, R., 2019. Under pressure: The pros and cons of putting time pressure on your salesforce. Journal of Business Research, 103:153-162. Rubin, G.J, Brewin, C.R., Greenberg, N., Simpson, J., & Wessely, S., 2005. Psychological and behavioural reactions to the Bombings in London on 7 July 2005: cross sectional survey of a representative sample of Londoners. British Medical Journal, 331:606-611. Sarstedt, M., Bengart, P., Shaltoni, A.M., & Lehmann, S., 2017. The use of sampling methods in advertising research: a gap between theory and practice. International Journal of Advertising, 37: 650–663. Schmalbach, B., Kalkbrenner, A., Bassler, M., Hinz, A., & Petrowski, K., (2020). Psychometric properties of a short version of the Job Anxiety Scale. BMC Medical Research Methodology. Doi: https://doi.org/10.1186/s12874-020-00974-4. Schmidt, K., Beck, R., Rivkin, W., & Diestel, S., 2016. Self-Control Demands at Work and Psychological Strain: The Moderating Role of Physical Fitness. International Journal of Stress Management, 23:255–275. Schwepker, C.H.Jr., 2017. Psychological ethical climate, leader–member exchange and commitment to superior customer value: Influencing salespeople’s unethical intent and sales performance. Journal of Personal Selling & Sales Management, 37:72–87. Schwepker, C.H.Jr., 2019. Strengthening Customer Value Development and Ethical Intent in the Salesforce: The Influence of Ethical Values Person– Organization Fit and Trust in Manager. Journal of Business Ethics, 159:913- 925. Schwepker, C.H.Jr., & Good, D.J., 2010. Transformational leadership and its impact on sales force moral judgment. Journal of Personal Selling & Sales Management, 30:299-317. 163 Seriki, O.K., Nath, P., Ingene, C.A., & Evans, K.R., 2018. How complexity impacts salesperson counterproductive behavior: The mediating role of moral disengagement. Journal of Business Research. Doi: 10.1016/j.jbusres.2018.10.06 Sheedy, E., Garcia, P. & Jepsen, D., 2020. The Role of Risk Climate and Ethical Self-interest Climate in Predicting Unethical Pro-organisational Behaviour. Journal of Business Ethics. Available at 04542-0>. Accessed on 20 June 2020. Tang, P.M., Yam, K.C., Koopman, J., 2020. Feeling proud but guilty? Unpacking the paradoxical nature of unethical pro-organizational behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 160, 68-86. Tangney, J.P., Baumeister, R.F., & Boone, A.L., 2004. High Self-Control Predicts Good Adjustment, Less Pathology, Better Grades, and Interpersonal Success. Journal of Personality, 72(2), 271–324. Tarkiainen A., Lee N., Cadogan J.W., & Sundqvist S., 2016. Salesperson Role Stress and Unethical Behavior. In: Groza M., Ragland C. (Eds) Marketing Challenges in a Turbulent Business Environment. Developments in Marketing Science: Proceedings of the Academy of Marketing Science. Doi: https://doi.org/10.1007/978-3-319-19428-8_145. Thanh, L.V., 2016. Relationship at work as a cause of occupational stress: the case of academic women in Vietnam. International Journal of Mental Health Systems, 10, 42. Doi: https://doi.org/10.1186/s13033-016-0078-2. Tran, Q.H.N., 2020. Stress, Task, and Relationship Orientations of Vietnamese Working Adults: Do Age, Gender, and Government Work Experience Make a Difference? Public Organization Review. https://doi.org/10.1007/s11115- 020-00477-2 Tseng, L., 2019. How Implicit Ethics Institutionalization Affects Ethical Selling Intention: The Case of Taiwan’s Life Insurance Salespeople. Journal of Business Ethics, 158: 727–742. Tseng, L.M., Kang, Y.M., & Chung, C.E., 2016. The insurance agents’ 164 intention to make inappropriate product recommendations. Journal of Financial Regulation and Compliance, 24:230–247. Tuan, L.T, 2012. The linkages among leadership, trust, and business ethics. Social Responsibility Journal, 8: 133-148. Tuan, M.N., 2015. The Impact of Ethical Sales Behavior on Customer Loyalty: A Case from Vietnam. International Journal of Business and Management, 10:152-168. Valentine, S. & Barnett, T., 2007. Perceived Organizational Ethics and the Ethical Decisions of Sales and Marketing Personnel. Journal of Personal Selling & Sales Management, 27:373-388 Wang, Y., Wang, G., Chen, Q., & Li, L., 2017. Depletion, moral identity, and unethical behavior: Why people behave unethically after self-control exertion. Consciousness and Cognition, 56, 188–198. Welsh, D., Bush, J., Thiel, C., & Bonner, J., 2019. Reconceptualizing goal setting’s dark side: The ethical consequences of learning versus outcome goals. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 150:14-27. Welsh, & Ordonez., 2014. The dark side of consecutive high performance goals: Linking goal setting, depletion, and unethical behavior. Organizational Behavior and Human Decision Processes, 123:79-89. Woerkom, M., Bakker, A.B., & Nishii, L., 2016. Accumulative job demands and support for strength use: Fine-tuning the job demands resources model using conservation of resources theory. Journal of Applied Psychology. 101: 141-150. Yam, K.C., Chen, X.P., & Reynolds, S.J., 2014. Ego depletion and its paradoxical effects on ethical decision making. Organizational Behavior and Human Decision Processes 124:2014-214. Yang, J., Yu, K.H.F., & Huang, C., 2018. Service employees’ concurrent adaptive and unethical behaviors in complex or non-routine tasks: The effects of customer control and self-monitoring personality. Asia Pacific Journal of Management, 36: 245–273. 165 Yi, H.T., Dubinsky, A.J., & Lim, C.A., 2012. Determinants of telemarketer misselling in life insurance services. Journal of Services Marketing, 26:403- 418. Zhang, H., Shi, Y., Zhou, Z.E., Ma, H., & Tang, H., 2020. Good people do bad things: How anxiety promotes unethical behavior through intuitive and automatic processing. Current Psychology, 39:720-728. Zhao, X., Lynch Jr., J.G., & Chen, Q., 2010. Reconsidering Baron and Kenny: Myths and Truths about Mediation Analysis. Journal of Consumer Research, 37: 197-206. 166 CÁC NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ Bài báo tiếng Việt: Hong, N.T., 2019. Hành vi bán hàng phi đạo đức: Khám phá vai trò của sự tập trung phúc lợi của khách hàng. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, 30:43-46. Bài báo tiếng Anh: Hong, N.T., 2019. Unintentional unethical behavior: the mediating and moderating roles of mindfulness. International Journal of Ethics and Systems, 36:98-118. DOI 10.1108/IJOES-02-2019-0044. Hong, N.T., 2018. The effect of customers’ personalization of social media on salesperson selling behaviors. The 4th International Conference on Green Technology and Sustainable Development. Hong, N.T. and Hanh, L.N., 2019. Innovative work behavior: exploring the roles of anxiety and self-control depletion. The 2nd Asia Conference on Business and Economics Studies, Vietnam. Nguyen, T.H. and Le, A., 2019. Promoting creativity and innovation: expected and unexpected consequences. Asia Pacific Journal of Innovation and Entrepreneurship, 13:296-310. DOI 10.1108/APJIE-03-2019-0008. i PHỤ LỤC 1 Tổng hợp các nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến đạo đức của người bán hàng Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu Các nghiên cứu trong ngành bảo hiểm và BHNT Cupach và 336 đại lý -Hoa hồng Nghiên cứu nhằm phân tích sự ảnh Carson bán bảo -Hành vi tư hưởng của hoa hồng đối với hành vi (2002) hiểm tại Mỹ vấn bảo tư vấn sản phẩm bảo hiểm. Kết quả hiểm cho thấy hoa hồng không có ảnh hưởng gì đến hành vi tư vấn sản phẩm bảo hiểm. Howe và 254 người -Định hướng Nghiên cứu nhằm phân tích những nối cộng sự bán hàng bán hàng kết giữa định hướng bán hàng, định (1994) trong ngành -Định hướng hướng khách hàng và USB. bảo hiểm tại khách hàng Kết quả phát hiện những người có định Mỹ (bao gồm -Hành vi phi hướng khách hàng sẽ thực hiện USB ít cả BHNT, ô đạo đức hơn so với những người có định hướng tô, tài sản) bán hàng. Tseng và 335 người -Hoa hồng Nghiên cứu nhằm phân tích quan hệ cộng sự bán hàng (gắn liền với giữa hoa hồng, định hướng bán hàng (2016) trong ngành doanh số bán của hãng bảo hiểm, thái độ của người BHNT tại sản phẩm) bán hàng (đối với việc tư vấn sản phẩm Đài Loan -Định hướng bảo hiểm không phù hợp) và ý định phi bán hàng của đạo đức (tư vấn các sản phẩm không hãng bảo phù hợp cho khách hàng). Kết quả chỉ hiểm ra rằng hoa hồng và định hướng bán - Thái độ hàng của hãng bảo hiểm càng cao thì ii Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu của người thái độ tích cực của người bán hàng đối bán hàng với việc tư vấn sản phẩm bảo hiểm càng - Ý định thực cao, từ đó, họ càng có ý định thực hiện hiện các các hành vi phi đạo đức. Bên cạnh đó, hành vi phi họ vẫn tin rằng những hành vi này đạo đức không có gì sai trái. Tseng 289 người -Thiết lập hệ Nghiên cứu nhằm phân tích sự ảnh (2019) bán hàng tư duy đạo hưởng của việc thiết lập hệ tư duy đạo trong ngành đức đức đối với cảm nhận trách nhiệm và BHNT tại - Cảm nhận cân nhắc về những lợi ích- thiệt hại của Đài Loan trách nhiệm hành vi và ý định bán hàng đạo đức. -Cân nhắc về Kết quả phát hiện được rằng việc thiết lợi ích- thiệt lập hệ tư duy đạo đức sẽ làm tăng cảm hại (của nhận trách nhiệm và ảnh hưởng đến cân hành vi bán nhắc về những lợi ích- thiệt hại, từ đó hàng) thúc đẩy ý định bán hàng đạo đức. -Ý định bán hàng đạo đức Roman và 280 người -Phương Nghiên cứu nhằm đánh giá quan hệ Munuera bán hàng pháp trả thu giữa phương pháp trả thu nhập, hệ (2005) trong ngành nhập thống kiểm soát, độ tuổi, trình độ giáo bảo hiểm và -Hệ thống dục và hành vi bán hàng đạo đức, và tín dụng ở kiểm soát những ảnh hưởng của hành vi này đối Thụy Điển -Độ tuổi với kết quả kinh doanh, mâu thuẫn vai -Trình độ trò, và sự hài lòng. Kết quả cho thấy iii Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu giáo dục trong khi quan hệ tích cực giữa phương - Hành vi pháp trả thu nhập, hệ thống kiểm soát, bán hàng đạo độ tuổi và hành vi bán hàng đạo đức đức được ủng hộ, thì quan hệ giữa trình độ -Kết quả giáo dục và hành vi bán hàng đạo đức kinh doanh không được ủng hộ. Bên cạnh đó, hành -Mâu thuẫn vi bán hàng đạo đức cũng làm tăng sự vai trò hài lòng, trong khi đó, hành vi bán hàng -Sự hài lòng đạo đức và mâu thuẫn vai trò không có (của người quan hệ chặt chẽ. bán hàng đối với công việc) Yi và cộng 204 người tư -Môi trường Nghiên cứu nhằm phân tích quan hệ sự (2012) vấn BHNT làm việc đạo giữa môi trường làm việc đạo đức, tại Hàn Quốc đức đào tạo đạo đức, mức độ cạnh tranh -Đào tạo trong ngành, sức ép bán hàng, thái độ đạo đức đạo đức, sự phức tạp và sự đa dạng -Sức ép bán của sản phẩm bảo hiểm, và mức độ hàng cạnh tranh trong ngành và USB. -Mức độ Kết quả cho thấy môi trường làm việc cạnh tranh đạo đức, đào tạo đạo đức, và mức độ trong ngành cạnh tranh trong ngành làm tăng thái -Sự phức độ đạo đức, trong khi đó, ảnh hưởng tạp của sản của sức ép bán hàng đối với thái độ phẩm đạo đức không được ủng hộ. Thái độ iv Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu -Sự đa dạng đạo đức càng cao thì xu hướng thực của sản hiện USB càng thấp, trong khi đó, sự phẩm phức tạp, sự đa dạng của sản phẩm -Thái độ đạo bảo hiểm, và mức độ cạnh tranh trong đức ngành càng cao thì xu hướng thực - USB hiện USB càng cao. Chen và 215 khách - Hành vi Nghiên cứu nhằm phân tích những Mau hàng đã mua bán hàng đạo những nối kết giữa hành vi bán hàng (2009) sản phẩm đức đạo đức, sự tin tưởng của khách hàng BHNT tại -Lòng trung (đối với người bán hàng và doanh Đài Loan thành nghiệp) và lòng trung thành của khách -Sự tin tưởng hàng. Kết quả cho thấy hành vi bán (của khách hàng đạo đức làm tăng sự tin tưởng của hàng đối với khách hàng, từ đó làm tăng lòng trung người bán thành của họ. hàng và doanh nghiệp) Cheng và 957 người -Độ tuổi của Nghiên cứu nhằm đánh giá những nối cộng sự bán hàng người bán kết giữa độ tuổi, số năm kinh nghiệm (2014) trong ngành hàng của người bán hàng, vị trí địa lý, quy BHNT tại - Số năm mô của công ty và USB. Kết quả cho Đài Loan kinh nghiệm thấy ở nhóm tuổi trên 60, độ tuổi có của người tác động đến USB mạnh hơn so với bán hàng các nhóm tuổi 20-30, 30-40, và 40-50, -Vị trí địa lý trong khi đó, với nhóm người có kinh v Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu của công ty nghiệm từ 6-10 năm, số năm kinh -Quy mô nghiệm sẽ có tác động đến USB mạnh công ty hơn so với nhóm người có kinh - USB nghiệm từ 1-5 năm. Bên cạnh đó, những công ty có quy mô lớn thì USB càng gia tăng ở những đại lý lâu năm, và những người bán hàng ở khu vực phía Nam sẽ có xu hướng thực hiện USB nhiều hơn. Các nghiên cứu trong những ngành khác Ergeneli và 248 người -Giới tính Nghiên cứu nhằm đánh giá xem liệu Arikan bán hàng -Nhận định giới tính nam và nữ có những khác (2002) trong ngành đạo đức biệt như thế nào trong nhận định đạo bán lẻ quần đức. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về nhận định đạo đức ở các giới áo và các tính nam và nữ. dụng cụ y khoa ở Thổ Nhĩ Kỳ Agnihotri 107 người -Khả năng Nghiên cứu nhằm đánh giá những ảnh và cộng sự bán hàng và thấu cảm hưởng của khả năng thấu cảm, khả năng (2012) 19 người -Khả năng tự tự xấu hổ, thái độ đạo đức và sự rõ ràng quản lý bán xấu hổ trong vai trò đối với hành vi đạo đức. hàng trong -Thái độ đạo Kết quả cho thấy khả năng thấu cảm, nhiều ngành đức khả năng tự xấu hổ làm tăng thái độ đạo tại Ấn Độ -Sự rõ ràng đức, từ đó thúc đẩy hành vi đạo đức. trong vai trò Bên cạnh đó, những cá nhân nào cảm vi Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu (công việc) nhận sự rõ ràng trong vai trò càng lớn, - Hành vi thì nối kết giữa thái độ đạo đức và hành đạo đức vi đạo đức càng chặt chẽ. Roman và 630 khách -Hành vi bán Nghiên cứu nhằm phân tích tác động Ruiz hàng tại các hàng đạo của hành vi bán hàng đạo đức đối với (2005) ngân hàng đức sự hài lòng, sự tin tưởng, và sự cam kết của Thụy -Sự hài lòng của khách hàng. Kết quả cho thấy hành Điển -Sự tin tưởng vi bán hàng đạo đức sẽ làm tăng sự hài -Sự cam kết lòng, sự tin tưởng, và sự cam kết của khách hàng. Đồng thời, sự hài lòng, sự tin tưởng càng tăng cũng làm tăng sự cam kết của khách hàng. Seriki và 400 người -Sự phức Nghiên cứu nhằm phân tích những cộng sự bán hàng tạp trong tổ ảnh hưởng của sự phức tạp trong tổ (2020) trong ngành chức chức, sự phức tạp trong môi trường bảo hiểm và -Sự phức kinh doanh, và sự chối bỏ đạo đức đối bất động sản tạp trong với các hành vi phi đạo đức của người (không nói môi trường bán hàng. rõ quốc gia kinh doanh Kết quả phát hiện được rằng sự phức nào) -Sự chối bỏ tạp trong tổ chức và sự phức tạp trong đạo đức môi trường kinh doanh làm tăng sự -Sự tự tin chối bỏ đạo đức, từ đó thúc đẩy người trong bán bán hàng thực hiện các hành vi phi hàng đạo đức đối với khách hàng và tổ -Hình mẫu chức. vii Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu đạo đức -Nhận định về tổ chức - Hành vi phi đạo đức đối với khách hàng và tổ chức Rostami và 216 người -Sức ép thời Dựa trên thuyết quá trình kép (dual- cộng sự bán hàng ở gian process theory), mô hình đươc phát (2019) Ấn Độ -Hành vi phi triển dựa trên giả thuyết cho rằng sức ép đạo đức thời gian sẽ thúc đẩy hành vi phi đạo -Hành vi đức, hành vi sáng tạo, và sự nỗ lực của sáng tạo người bán hàng. Bên cạnh đó, kỹ năng -Kỹ năng quản lý thời gian được giả định điều tiết quản lý thời các ảnh hưởng nói trên. gian Kết quả cho thấy sức ép thời gian làm -Sự nỗ lực tăng hành vi phi đạo đức, sự nỗ lực và hành vi sáng tạo. Bên cạnh đó, kỹ năng quản lý thời gian cũng được phát hiện là biến điều tiết. Theo đó, khi kỹ năng quản lý thời gian càng cao, sức ép thời gian sẽ ảnh hưởng càng mạnh đến hành vi nỗ lực, và ảnh hưởng càng yếu đến hành vi phi đạo đức. Nghiên cứu đã khẳng định ảnh hưởng viii Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu của sức ép thời gian, một áp lực công việc, đối với hành vi phi đạo đức. Tuy nhiên, nghiên cứu này không đề cập đến USB và các trung gian. Tuan 214 cặp giám -Phong cách Nghiên cứu nhằm phân tích những nối (2012) đốc bán hàng lãnh đạo kết giữa phong cách lãnh đạo chuyển và quản lý chuyển đổi đổi, sự tin tưởng tổ chức, và hành vi phi bán hàng tại -Sự tin tưởng đạo đức. Kết quả cho thấy phong cách các công ty tổ chức lãnh đạo chuyển đổi thúc đẩy sự tin hàng tiêu -Hành vi phi tưởng tổ chức, từ đó làm giảm hành vi dùng ở Việt đạo đức phi đạo đức. Nam Tuan Những đối -Hành vi Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động (2015) tác nhà phân bán hàng của hành vi bán hàng đạo đức đối với phối bán lẻ đạo đức sự tin tưởng, sự cam kết, và lòng của hãng -Sự tin trung thành (của khách hàng). Kết quả Procter và tưởng cho thấy hành vi bán hàng đạo đức Gamble đang -Sự cam kết ảnh hưởng đáng kể đến sự tin tưởng kinh doanh -Lòng trung và sự cam kết, từ đó thúc đẩy lòng tại Việt Nam thành trung thành. Schwepker 345 người -Phong cách Nghiên cứu nhằm phân tích tác động và Good bán hàng lãnh đạo của phong cách lãnh đạo chuyển đổi, (2010) trong nhiều chuyển đổi định hướng năng lực, và sự tin tưởng ngành tại Mỹ -Định hướng (của người bán hàng vào người quản năng lực lý) đối với nhận định đạo đức (của - Sự tin người bán hàng). Kết quả phát hiện ix Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu tưởng phong cách lãnh đạo chuyển đổi làm -Nhận định tăng định hướng năng lực, sự tin tưởng, đạo đức và nhận định đạo đức. Trong khi đó, định hướng năng lực làm tăng sự tin tưởng, từ đó làm tăng nhận định đạo đức. Barsky Nghiên cứu -Sự bào chữa Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng (2011) thứ nhất có -Sự đổ lỗi của sự bào chữa, sự đổ lỗi, và sự tham mẫu là 164 -Hành vi phi gia vào việc ra quyết định đối với hành sinh viên đại đạo đức vi phi đạo đức. Kết quả cho thấy khi sự học tại Mỹ, -Sự tham gia bào chữa và sự đổ lỗi càng tăng, thì với đề nghị (của cá hành vi phi đạo đức càng tăng. họ đóng vai nhân) vào Bên cạnh đó, khi sự tham gia vào việc là người quản việc ra quyết ra quyết định càng lớn, thì ảnh hưởng lý bán hàng. định (các của sự bào chữa đối với hành vi phi đạo Nghiên cứu mục tiêu đức càng yếu. thứ hai có công việc) mẫu là 83 người đang học thạc sĩ kinh doanh tại Mỹ. Welsh và Thực hiện 4 - Loại mục Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của cộng sự nghiên cứu. tiêu (mục loại mục tiêu (mục tiêu học tập/ mục (2019) Trong đó, tiêu học tập/ tiêu kết quả), tính thách thức của mục nghiên cứu mục tiêu kết tiêu, sự tập trung vào việc ngăn ngừa x Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu thứ nhất có quả) thất bại đối với hành vi phi đạo đức. mẫu là 313 -Tính thách Kết quả phát hiện rằng mục tiêu kết quả cặp người thức của sẽ thúc đẩy cá nhân tập trung vào việc quản lý- nhân mục tiêu ngăn ngừa thất bại, từ đó làm tăng viên làm -Sự tập hành vi phi đạo đức. trong nhiều trung vào Trong khi đó, mục tiêu học tập sẽ làm công việc việc ngăn giảm sự tập trung vào việc ngăn ngừa khác nhau ngừa thất thất bại, từ đó làm giảm hành vi phi như bán bại đạo đức. hàng, nhân -Hành vi phi Cuối cùng, tính thách thức của mục tiêu sự. Nghiên đạo đức là biến điều tiết làm tăng tác động của mục tiêu kết quả đối với hành vi phi đạo cứu thứ hai đức. và thứ ba có mẫu lần lượt là 144 và 231 sinh viên tại Mỹ. Nghiên cứu thứ tư có mẫu là 318 người được tiếp cận qua MTurk. Valentine 373 người -Cảm nhận Nghiên cứu nhằm đánh giá những nối (2007) bán hàng và về đạo đức kết giữa cảm nhận về đạo đức của tổ marketing của tổ chức chức, nhận thức đạo đức, nhận định đạo -Nhận thức đức, và ý định đạo đức của người bán xi Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu đạo đức hàng. Kết quả phát hiện rằng cảm nhận -Nhận định của người bán hàng về đạo đức của tổ đạo đức chức làm tăng nhận thức đạo đức, nhận -Ý định đạo định đạo đức, và ý định đạo đức của họ. đức. Khi nhận thức về các vấn đề đạo đức tăng, thì nhận định đạo đức và ý định đạo đức cũng tăng theo. Schwepker 408 người -Chất lượng Nghiên cứu đưa ra giả thuyết về và Good bán hàng quan hệ những tác động của chất lượng quan (2017) (trong cả (giữa lãnh hệ, tinh thần nhóm, sự mơ hồ đạo đức, ngành sản đạo và nhân và căng thẳng đối với ý định phi đạo phẩm dịch vụ viên) đức. Kết quả phát hiện được rằng chất và hàng hóa) -Tinh thần lượng quan hệ làm giảm căng thẳng nhóm công việc, sự mơ hồ đạo đức, và gia -Sự mơ hồ tăng tinh thần nhóm. Trong khi đó, tinh đạo đức thần nhóm làm giảm sự mơ hồ đạo đức, -Căng thẳng từ đó, làm giảm những căng thẳng. Cuối -Ý định phi cùng, căng thẳng và sự mơ hồ đạo đức đạo đức làm tăng ý định phi đạo đức, trong khi chất lượng quan hệ làm giảm ý định phi đạo đức. Abratt và 198 người -Những cân Nghiên cứu này phân tích tác động Penman bán hàng ở nhắc tài của những cân nhắc tài chính đối với (2002) Nam Phi chính những nhận định đạo đức của cá nhân. - Nhận định Kết quả chỉ ra rằng cân nhắc tài chính là đạo đức tác nhân ảnh hưởng đến những nhận xii Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu định đạo đức của cá nhân. Chiu và 326 cặp -Mâu thuẫn Dựa trên thuyết COR, mô hình được cộng sự người bán vai trò xây dựng dựa trên giả thuyết mâu (2015) hàng và -Sự thiếu rõ thuẫn vai trò, sự thiếu rõ ràng trong người quản ràng trong vai trò, sự quá tải vai trò làm tăng các lý tại Đài vai trò hành vi phi đạo đức, và sự hỗ trợ của Loan -Sự quá tải đồng nghiệp điều tiết các ảnh hưởng vai trò nói trên. -Sự hỗ trợ Các tác giả đã thực hiện nghiên cứu của đồng với 45 người bán hàng (ngành bán lẻ) nghiệp để điều chỉnh thang đo. Sau đó, các -Hành vi phi tác giả thực hiện khảo sát người bán đạo đức hàng và người quản lý. Theo đó, người quản lý được sẽ đánh giá hành vi phi đạo đức của người bán hàng (cấp dưới của họ). Kết quả đã khẳng định mâu thuẫn vai trò, sự thiếu rõ ràng trong vai trò làm tăng hành vi phi đạo đức, trong khi đó, sự quá tải vai trò gần như không ảnh hưởng đến hành vi phi đạo đức. Sự hỗ trợ của đồng nghiệp có thể làm suy yếu ảnh hưởng của sự quá tải vai trò đối với hành vi phi đạo đức. Mặc dù nghiên cứu đã vận dụng thuyết COR để tìm hiểu về những ảnh xiii Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu hưởng của các áp lực công việc đối với hành vi phi đạo đức. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã không đề cập đến USB, và các trung gian. Schwepker 408 người -Mức độ Nghiên cứu nhằm phân tích những tác (2019) bán hàng tại phù hợp động của mức độ phù hợp giữa người Mỹ giữa người bán hàng và tổ chức, sự tin tưởng, sự bán hàng và cam kết trong việc mang đến những tổ chức giá trị khách hàng đối với ý định phi -Sự tin đạo đức của họ. tưởng (của Kết quả cho thấy mức độ phù hợp người bán giữa người bán hàng và tổ chức thúc hàng vào đẩy sự tin tưởng họ vào người quản lý người quản và sự cam kết của họ trong việc mang lý) đến những giá trị khách hàng. Bên -Sự cam kết cạnh đó, sự tin tưởng vào người quản mang đến lý cũng làm tăng sự cam kết trong những giá việc mang đến những giá trị khách trị khách hàng, và làm giảm ý định phi đạo đức hàng của người bán hàng. -Ý định phi đạo đức Munoz và 163 người -Mâu thuẫn Nghiên cứu nhằm phân tích sự ảnh Mallin bán hàng vai trò hưởng của mâu thuẫn vai trò, sự thiếu (2019) trong nhiều -Sự thiếu rõ rõ ràng trong vai trò, sự tự tin trong ngành ràng trong thực hiện vai trò, và định hướng quan xiv Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu (không nói vai trò hệ đối với sự bào chữa. rõ quốc gia -Sự tự tin Kết quả cho thấy mâu thuẫn vai trò nào) trong thực không ảnh hưởng đến sự bào chữa, hiện vai trò tuy nhiên, định hướng quan hệ, sự tự -Định tin trong thực hiện vai trò, sự thiếu rõ hướng quan ràng trong vai trò làm tăng sự bào hệ chữa. Đồng thời, định hướng quan hệ -Sự bào cũng điều tiết ảnh hưởng của giữa chữa (của cá mâu thuẫn vai trò đối với sự bào nhân về chữa. USB). Yang và 55 người tư -Sự phức Nghiên cứu phân tích những tác động cộng sự vấn tài chính tạp của của sự phức tạp và tính đột xuất của (2018) tại Hồng nhiệm vụ nhiệm vụ (bán hàng) đối với hành vi Kông và Đài -Tính đột bán hàng linh hoạt và USB, và kiểm Loan xuất của định vai trò điều tiết của sự kiểm soát nhiệm vụ của khách hàng và sự tự kiểm của cá -Sự kiểm nhân. soát của Kết quả cho thấy sự phức tạp và tính khách hàng đột xuất của nhiệm vụ tác động tích (customer cực đến hành vi bán hàng linh hoạt và control) USB. Khi sự kiểm soát của khách -Sự tự kiểm hàng càng thấp, thì nối kết giữa sự cá nhân phức tạp và tính đột xuất của nhiệm (self- vụ và hành vi bán hàng linh hoạt càng mornitoring) chặt chẽ, trong khi nối kết giữa sự xv Tác giả Mẫu Các nhân tố Tóm tắt nghiên cứu -Hành vi phức tạp và tính đột xuất của nhiệm bán hàng vụ và USB càng suy yếu. Cuối cùng, linh hoạt tính đột xuất của nhiệm vụ sẽ có tác - USB động mạnh nhất đến USB khi mà sự kiểm soát của khách hàng và sự tự kiểm của cá nhân cao. Lee và 1638 sinh -Giới tính Nghiên cứu nhằm tìm hiểu xem liệu cộng sự viên tại Mỹ, -Chủ nghĩa có những khác biệt nào trong đánh giá (2018) NewZealand, cá nhân/ chủ đạo đức bán hàng giữa những giới Pháp, Đức nghĩa tập tính (nam và nữ), giữa người chủ và Indonesia thể nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, và (Idealism/ giữa người theo văn hóa truyền thống Relativism) và văn hóa thế tục. -Văn hóa Kết quả phát hiện nữ giới/ người theo truyền văn hóa truyền thống/ người theo chủ thống/ văn nghĩa cá nhân sẽ đánh giá đạo đức hóa thế tục bán hàng nghiêm trọng hơn so với (traditional/ nam giới/ người theo văn hóa thế tục/ secular người theo chủ nghĩa tập thể. cultures) -Đánh giá đạo đức bán hàng Nguồn: tác giả tổng hợp xvi PHỤ LỤC 2 PHỎNG VẤN GIẢNG VIÊN (NGƯỜI NGHIÊN CỨU) Phần 1. Lời chào và thông tin về mục tiêu của cuộc phỏng vấn: Phần 2. Câu hỏi phỏng vấn: 1. Trước hết, mong Ông/ Bà có thể chia sẻ cách hiểu của mình về USB? -Vì sao ông/ bà cho rằng hành vi đó là phi đạo đức? -Ông/ bà đã từng mua sản phẩm bảo hiểm chưa? Ông bà nghĩ gì về hành vi bán BHNT phi đạo đức? Họ có thể thực hiện những USB nào? -Theo Ông/ Bà, việc một người bán bảo hiểm nói dối hoặc cung cấp thiếu thông tin (không tư vấn kỹ từ ngữ trong hợp đồng BHNT) có phải là USB không? -Theo Ông/ Bà, việc một người bán bảo hiểm cố gắng nói xấu đối thủ cạnh tranh hoặc phóng đại để làm cho sản phẩm bảo hiểm của mình hấp dẫn có phải là USB không? -Theo Ông/ Bà, việc một người bán bảo hiểm chỉ lo bán bảo hiểm mà không quan tâm nhiều đến việc sản phẩm đó có thực sự phù hợp với khách hàng hay không có phải là USB không? 2. Theo Ông/ Bà, những yếu tố nào có thể thúc đẩy hành vi này? -Có phải do họ chịu sức ép bán hàng từ phía doanh nghiệp hay không? -Doanh nghiệp làm gì để tạo ra sức ép bán hàng này? -Doanh nghiệp có đào tạo họ bán hàng hay không? xvii -Có phải do doanh nghiệp cứ quan tâm đến việc đánh giá họ dựa trên doanh số bán hàng hay không? - Có phải do doanh nghiệp tập trung chiến lược bán các sản phẩm bảo hiểm nào đó của họ mà không quan tâm nhiều đến việc sản phẩm đó có phù hợp với một khách hàng nào đó hay không? 3.Liệu có khả năng một người thực hiện hành vi đó mà họ chỉ nghĩ rằng kinh doanh là phải vậy, nhiệm vụ của họ chỉ đơn giản là phải bán hàng? -Ông/ Bà có gợi ý gì để có thể ngăn cản hay hạn chế những hành vi này? 4. Ông/Bà có góp ý gì về bản câu hỏi (thang đo nháp) không? Trân trọng cảm ơn Ông/ Bà đã tham gia phỏng vấn. xviii PHỤ LỤC 3 KẾT QUẢ PHỎNG VẤN GIẢNG VIÊN (NGƯỜI NGHIÊN CỨU) Phần 1: Phần giới thiệu chào hỏi Phần 2: Nội dung trả lời 1.Trước hết, mong Ông/ Bà có thể chia sẻ cách hiểu của mình về USB? CG1: Có rất nhiều dạng hành vi phi đạo đức trong ngành BHNT, ví dụ như trục lợi từ công ty bảo hiểm, cấu kết với khách hàng, hoặc không nói hết thông tin cho khách hàng về sản phẩm bảo hiểm. Đối với khách hàng, người bán bảo hiểm có thể thực hiện hành vi phi đạo đức như không nói hết thông tin cho khách hàng về sản phẩm bảo hiểm. Luật cũng quy định rằng hành vi này là vi phạm pháp luật. Cứ căn cứ luật mà xác định hành vi đó sai hay đúng. Còn nói về đạo đức, thì chưa có định nghĩa rõ ràng về đạo đức, nên rất khó để quy cho người này hay người kia bán bảo hiểm phi đạo đức. CG2: Một số hành vi bán hàng tại thời điểm hiện tại có thể xem là mang lại lợi ích cho người bán bảo hiểm, tuy nhiên, nếu trong tương lai hành vi đó gây nên những thiệt hại cho doanh nghiệp, cho khách hàng, thì hành vi đó có thể là hành vi phi đạo đức. Một điển hình là các hành vi như cứ cố gắng dụ dỗ khách hàng mua sản phẩm để đạt doanh số hiện tại, hoặc như nói xấu đối thủ cạnh tranh để làm cho sản phẩm của mình rất đẹp đối với khách hàng. CG3: Không nêu cho khách hàng những thông tin mà khách hàng cần biết, ví dụ như những kẽ hở của hợp đồng mà khách hàng có thể bị ép uổng. CG4: Người bán bảo hiểm thường tư vấn theo cách dựa trên mức hoa hồng của gói bảo hiểm để mời gọi khách hàng mua hàng. Do người bán bảo hiểm sẽ được chiết khấu theo doanh số bán bảo hiểm, nên họ thường tư vấn cho khách hàng những gói sản phẩm bảo hiểm có giá trị cao, để người bán bảo hiểm được phần tiền chiết khấu cao. Chỉ đến khi nào không bán được các gói sản phẩm giá trị cao, họ mới giới thiệu tư vấn những gói sản phẩm cơ bản của bảo hiểm. Đối với các thuật ngữ trong hợp đồng, họ cũng không giải thích rõ ràng cho khách hàng, có thể do nghiệp vụ yếu kém, hoặc họ bỏ lờ qua việc giải thích này. Ví dụ như từ tử vong thì xix khách hàng thường nghĩ rằng cứ người mua bảo hiểm mà bị tử vong thì sẽ được bảo hiểm chi trả, nhưng không phải vậy, ví dụ như tự tử, thì bảo hiểm không chi trả. Chính những tư vấn không đầy đủ, chỉ lo cố gắng bán hàng, nên thường thì khách hàng là người chịu những thiệt hại nhiều nhất. Như vậy, các giảng viên đều đồng ý rằng USB là những hành vi như cung cấp thiếu thông tin cho khách hàng, hay hành vi nói dối nhằm bán được hàng mà không quan tâm đến nhu cầu thực sự của khách hàng. 2. Theo Ông/ Bà, những yếu tố nào có thể thúc đẩy hành vi này? CG1: Vào thực tế thì mình mới thấy rõ. Nhiều khi cũng từ lỗi do các công ty bảo hiểm. Họ chỉ đào tạo người bán bảo hiểm có vài buổi, mà mấy buổi này chỉ tập trung nhiều vào đào tạo cách bán hàng, nên người bán bảo hiểm cứ cố gắng bán hàng thôi. Những người bán bảo hiểm, ví dụ như đại lý lâu năm, thì người ta có thể ít vi phạm đạo đức hơn. Một phần do họ được đào tạo nhiều, một phần do họ đã có vị thế, uy tín trong ngành, nếu họ bán bảo hiểm phi đạo đức, thì rất ảnh hưởng đến tương lai của họ. Nhưng còn những người mới vào nghề, hoặc mấy người muốn thăm dò, làm thử ngành này xem như thế nào, thì họ có thể vi phạm đạo đức nhiều hơn, lý do là người ta không có sợ bị mất uy tín, với lại người ta không có được đào tạo chuyên sâu, dẫn đến nghiệp vụ yếu kém. CG2: Đôi khi họ phải thực hiện nhiều vai trò nhân viên bán hàng và tư vấn viên không rõ ràng. CG3: Nếu không bán được hàng thì họ có thể bị sa thải. CG4: Doanh số là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên kinh doanh bảo hiểm, nên đứng ở góc độ quản lý, các hãng bảo hiểm đương nhiên thường đặt ra mục tiêu doanh số rất cao. Nhân viên bán bảo hiểm hay bán sản phẩm tài chính, hay các sản phẩm hàng hóa nào cũng vậy, họ phải đạt mục tiêu doanh số. Nếu không đạt thì họ bị đưa vào danh sách không đạt doanh số mục tiêu, nhiều tháng mà không đạt thì có thể bị sa thải, nên họ thường căng thẳng, lo rằng mình không đạt được mục tiêu, hoặc lo lắng bị đánh giá là bán xx hàng dở. Như vậy, các giảng viên cũng gợi ý những nguyên nhân thúc đẩy USB, ví dụ như việc đào tạo bán hàng trong các hãng BHNT, hoặc do sức ép bán hàng. 3.Liệu có khả năng một người thực hiện hành vi đó mà họ chỉ nghĩ rằng kinh doanh là phải vậy, nhiệm vụ của họ chỉ đơn giản là phải bán hàng? CG2: Có thể do các tổ chức cứ đề cao việc bán hàng đạt doanh số, nên họ chỉ lo bằng cách nào bán được hàng thôi, họ cũng không quan tâm đó là hành vi phi đạo đức hay không. CG4: Sự thật thì có thể họ nghĩ là họ đạo đức, họ đang mang lại giá trị cho công việc, họ đang tích cực tham gia đóng góp cho tổ chức, nhưng mà hành vi của họ và suy nghĩ của họ đã được hình thành từ những quan điểm xã hội, từ những dòng chảy của công việc, ít khi nào họ nghĩ rằng có đúng là hành vi của họ là giá trị và ý nghĩa cao cả như vậy hay không. Như vậy, các giảng viên cũng cho rằng có thể người bán hàng sẽ bào chữa cho hành vi của họ rằng đó chỉ đơn giản là họ đang thực hiện công việc bán hàng, và hành vi này là phổ biến trong kinh doanh. 4. Một số phát biểu được góp ý diễn giải lại như sau (CG4 trả lời): Trong thang đo USB, phát biểu USB1 (Nếu tôi không chắc chắn rằng sản phẩm của mình có phù hợp với khách hàng không, tôi vẫn cố gắng tạo sức ép để họ mua sản phẩm) được diễn giải lại thành: Đôi khi tôi không chắc chắn sản phẩm bảo hiểm của công ty tôi phù hợp với khách hàng, tôi vẫn cố gắng thuyết phục họ mua bảo hiểm. Phát biểu USB2 (Tôi có thể nói dối về sự cạnh tranh để làm cho sản phẩm của mình hấp dẫn với khách hàng) được diễn giải lại thành: Tôi thường cung cấp thông tin để khách hàng thấy sản phẩm công ty tôi hấp dẫn hơn công ty khác. Phát biểu USB3 (Tôi có thể nói dối một chút về các tính năng của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm để bán được hàng) được diễn giải lại thành: Tôi thường cố gắng nói tốt về các tính năng của sản phẩm bảo hiểm với khách hàng. xxi Trong thang đo mâu thuẫn vai trò, phát biểu RCO2 (Tôi thường phải làm những việc mà người này muốn, người kia không muốn) được viết lại thành: Tôi thường phải làm những việc có mâu thuẫn với nhau (doanh nghiệp muốn thế này nhưng khách hàng muốn thế khác). Trong thang đo sức ép bán hàng, phát biểu SPR3 (Chúng tôi được đào tạo rằng không cần tìm hiểu khách hàng cần sản phẩm gì, mà chỉ cần cố gắng thuyết phục khách hàng mua sản phẩm) được diễn giải lại thành: Chúng tôi được đào tạo làm sao để thuyết phục khách hàng, chứ không được đào tạo nhiều vào việc làm sao để tìm biết nhu cầu thực sự của khách hàng. Trong thang đo tính thách thức của mục tiêu, phát biểu GDI1 (Các mục tiêu kinh doanh của tôi rất khó để đạt được) được diễn giải lại thành: Các mục tiêu kinh doanh của tôi (chỉ tiêu doanh số, thị phần) rất khó để đạt được. Trong thang đo sự lo âu, phát biểu ANJ1 (Tôi bị choáng ngợp bởi những suy nghĩ làm việc kém hiệu quả) được diễn giải lại thành: Tôi thường lo sợ mình làm việc tệ. Phát biểu ANJ2 (Tôi lo lắng rằng hiệu suất công việc của tôi sẽ thấp hơn đồng nghiệp) được diễn giải lại thành: Tôi hay lo sợ kết quả công việc của mình thấp hơn các đồng nghiệp. Phát biểu ANJ3 (Tôi cảm thấy lo lắng và sợ hãi vì không thể đạt được các mục tiêu công việc) được diễn giải lại thành: Tôi rất căng thẳng nếu không đạt được các mục tiêu công việc. Phát biểu ANJ6 (Tôi lo lắng về việc liệu người khác có nhìn nhận tôi là nhân viên thích hợp cho công việc hay không) được diễn giải lại thành: Tôi thường xuyên bận tâm việc người khác đánh giá mình làm việc như thế nào. Phát biểu ANJ7 (Tôi lo lắng rằng tôi sẽ không thể quản lý thành công các yêu cầu công việc) được diễn giải lại thành: Tôi lo lắng về việc tôi không thể đáp ứng tốt các yêu cầu công việc. Phát biểu ANJ8 (Ngay cả khi tôi cố gắng hết sức có thể, tôi vẫn lo lắng về việc liệu hiệu suất công việc của tôi có đủ tốt hay không) được diễn giải lại thành: Ngay cả khi tôi đã cố gắng hết sức, tôi vẫn lo sợ rằng kết quả làm việc của mình chưa tốt. Trong thang đo sự suy kiệt nguồn lực tự kiểm, phát biểu EGD2 (Tôi cảm thấy bình tĩnh và lý trí) được diễn giải lại thành: Tôi cảm thấy mình vẫn bình tĩnh và lý xxii trí. Phát biểu EGD3 (Tôi cảm thấy nhạy bén và tập trung) được diễn giải lại thành: Tôi cảm thấy mình vẫn suy nghĩ sắc sảo và tập trung. Phát biểu EGD4 (Tôi cảm thấy như sức mạnh ý chí của tôi không còn nữa) được diễn giải lại thành: Năng lượng của tôi gần như đã cạn kiệt. Phát biểu EGD5 (Tôi cảm thấy lười biếng) được diễn giải lại thành: Tôi đang cảm thấy mình không muốn làm gì nữa. Trong thang đo sự bào chữa, phát biểu MJU1 (Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự thật để giúp công ty của bạn không gặp khó khăn) được điều chỉnh lại như sau: Việc nói quá (phóng đại) trong kinh doanh là bình thường. Phát biểu MJU2 (Nếu điều đó giúp bạn thực hiện công việc của mình, thì việc bạn lừa dối khách hàng cũng không sao) được diễn giải lại như sau: Không thể nói hết các thông tin sản phẩm cho khách hàng biết được. Phát biểu MJU3 (Bạn hoàn toàn có thể phóng đại sự thật để bảo vệ công ty của mình) được điều chỉnh lại như sau: Việc nói quá (phóng đại) trong kinh doanh là bình thường. Phát biểu MJU4 (Nếu một nhân viên cần phải phóng đại sự thật để thực hiện công việc của họ, họ không thể bị đổ lỗi là đã nói dối) được điều chỉnh lại như sau: Nói dối khách hàng một chút chỉ là để giúp chúng ta bán được hàng, công việc kinh doanh là phải như vậy. xxiii PHỤ LỤC 4 PHỎNG VẤN NGƯỜI BÁN HÀNG NGÀNH BHNT Phần 1: Lời chào: Phần 2. Câu hỏi phỏng vấn 1. Trước hết, xin được cảm ơn ông/bà đã tham gia phỏng vấn. Về công việc của mình, ông/ bà đang cảm nhận như thế nào về công việc này? -Có khi nào ông/bà thấy lo lắng về công việc, sợ mình không hoàn thành công việc không? -Có khi nào ông/ bà lo sợ mình thua kém đồng nghiệp không? -Có khi nào ông/bà thấy mình đã cố gắng hết sức, nhưng vẫn sợ mình bị đánh giá kém không? -Nếu không, thì ông bà có thấy đồng nghiệp của mình thường rơi vào tình trạng này không? - Có khi nào ông/bà thấy không kiểm soát được suy nghĩ của mình không? - Có khi nào ông/bà thấy mệt mỏi, không muốn làm gì nữa hay không? - Có khi nào ông/bà thấy mình không kiềm chế được trong một số tình huống không? - Có khi nào ông/bà thấy đôi khi mình không nhạy bén xử lý thông tin nữa không? 2. Mong ông/ bà có thể chia sẻ để mọi người hiểu hơn về tính chất công việc xxiv và ngành nghề của mình không? -Công việc bán hàng có áp lực doanh số không? -Mục tiêu doanh nghiệp đưa ra thấp hay cao? -Việc đạt được mục tiêu đối với Ông/ Bà là khó khăn hay dễ dàng/ -Ông/ bà thấy những đồng nghiệp khác có dễ đạt những mục tiêu này không? -Ông/ bà có bị bắt buộc hay bị sức ép từ phía doanh nghiệp phải theo đuổi các chỉ tiêu doanh số hay phải bán hàng hay không? -Có bao giờ ông/ bà thấy mình hay rơi vào tình huống mình phân vân không biết mình đang là người tư vấn cho khách hàng (vì khách hàng) hay là người bán hàng (phải cố gắng để bán hàng) hay không? -Hãng bảo hiểm có những hỗ trợ gì cho công việc của Ông/bà hay không? -Chiết khấu hoa hồng trong ngành như thế nào? 3. Ông/ bà nhìn nhận như thế nào về các dạng hành vi bán hàng như: - Cứ cố gắng kêu gọi khách hàng mua bảo hiểm mà không cần biết sản phẩm đó có thực sự cần thiết với khách hàng không? -Không nói hết thông tin với khách hàng. -Không tư vấn giải thích hết từ ngữ trong hợp đồng (không giải thích rõ hợp đồng, dẫn đến những hiểu nhầm của khách hàng). -Nói quá tốt về sản phẩm để hấp dẫn khách hàng (có thể phóng đại về công ty hoặc các tính năng sản phẩm). Xin trân trọng cảm ơn Ông/ Bà đã tham gia phỏng vấn. xxv PHỤ LỤC 5 KẾT QUẢ PHỎNG VẤN NGƯỜI BÁN HÀNG NGÀNH BHNT Phần 1: Phần giới thiệu chào hỏi Phần 2: Nội dung trả lời 1.Trước hết, xin được cảm ơn ông/bà đã tham gia phỏng vấn. Về công việc của mình, ông/ bà đang cảm nhận như thế nào về công việc này? CG5: Nhiều nhân viên lúc vào thì tinh thần đang lên ngút ngàn, nhưng sau đó họ sẽ đối diện với sự thật hụt hẫng. CG6: Nhiều lúc mình cảm thấy rất thất vọng và chán nản. CG7: Công việc với một số người thì áp lực, nhưng có người cảm thấy công việc này ý nghĩa và thú vị. CG8: Thực sự rất áp lực. CG9: Thực sự công việc bán bảo hiểm rất áp lực, lúc nào cũng phải lo lắng sợ mình không đạt mấy cái chỉ tiêu công việc, rồi lo sợ mình bị sa thải vì không đạt chỉ tiêu, làm thua kém đồng nghiệp. Như vậy, mặc dù có một số người tư vấn bán BHNT không cảm thấy quá căng thẳng về công việc vì họ có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, tuy nhiên, phần lớn họ đều cho rằng họ đã từng lo lắng, thất vọng và chán nản về công việc. 2. Mong ông/ bà có thể chia sẻ để mọi người hiểu hơn về tính chất công việc và ngành nghề của mình không? CG6: Bản thân tôi và đồng nghiệp luôn phải chịu áp lực để hoàn thành chỉ tiêu. Một số cố gắng bám trụ lại, tùy theo chính sách của công ty nữa, số khác không bán được hàng hay không theo nổi sẽ bị văng ra. Ngành này có mức độ sàng lọc rất cao. CG7: Tôi không cảm thấy quá áp lực hay căng thẳng quá, vì tôi không phụ thuộc hoàn toàn vào thu nhập từ ngành này. Nhưng có thể với một số người không phù hợp với công việc này, vì thực sự công việc cũng có những áp lực. CG8: Công việc kinh doanh phức tạp lắm, phải đạt được doanh số mục tiêu. xxvi CG9: Chính sách của công ty có hỗ trợ tài chính rất ít. Mình đều thấy các công ty giao doanh số cao dần. Áp lực công việc là doanh số do các chỉ tiêu đặt ra ngày một cao hơn cũng như các chính sách siết chặt lại làm cho các cấp quản lý, đại lý phải chạy doanh số. Mặt khác do thị trường cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm không lành mạnh. Câu hỏi thêm: Áp lực mà anh đang nói xoay quan áp lực doanh số và sức ép phải bán được hàng. Nhưng ngoài áp lực đó ra, anh có bao giờ phải trải qua cảm xúc là mình bị xung đột cảm xúc không? Cảm xúc này có thể xảy ra không chỉ đến từ khách hàng, mà có thể là từ đồng nghiệp, v.v… CG5: Việc này diễn ra khá thường xuyên. Bất cứ công việc kinh doanh, thì mình phải đeo mặt nạ. Có khi nào mình không biết rõ mình đứng vai trò là nhà tư vấn hay là người bán hàng nữa? CG5: Về cá nhân, thì mình không sống hoàn toàn nhờ vào nghề này, nhưng mà trong kinh doanh, người ta muốn phát triển cuộc sống của người ta, nên kinh doanh phải làm sao tối đa hóa doanh thu. Công ty thường không quan tâm mình làm gì với khách hàng. Khách hàng nhiều khi bị mua hớ, cũng không quan tâm luôn, có nghĩa là bán càng được nhiều càng tốt. Đó là tâm lý chung, không phải chỉ trong ngành bảo hiểm, mà cho nhiều ngành khác. Nhưng thứ nhất bản thân mình là vì mình không sống vì nghề đó, và thứ hai mình đặt mình là khách hàng, mà giờ họ là người thân bạn bè mình, mình sẽ tư vấn theo dạng ngược lại. Nhiều khi họ bị giao nhiều công việc mâu thuẫn nhau, không biết rõ mình là nhân viên tư vấn bảo hiểm hay là người bán bảo hiểm nữa. Nếu không đủ sự tỉnh táo, rất có thể đại lý bán bảo hiểm cứ quan tâm đến việc bán bảo hiểm, mà quên mất vai trò tư vấn cho khách hàng. Bản thân tôi cũng đã từng dễ đánh mất mình, mình quên mất mình phải là người tư vấn bảo hiểm mang phúc lợi cho khách hàng. Các tổ chức thường đặt ra các mục tiêu doanh số bán bảo hiểm rất cao, để nhân viên chạy theo các mục tiêu doanh số này. Bên cạnh đó, những người quản lý cũng xxvii cố gắng tìm kiếm cấp dưới, càng nhiều cấp dưới, thì người quản lý đó sẽ càng nhanh nâng cấp của mình. Lúc mới vào, doanh nghiệp thường đưa ra những viễn cảnh làm giàu để khuyến khích nhân viên bán bảo hiểm. Tại vì ngành này thưởng chiết khấu rất cao. Đây là ngành vô hình mà, không có tốn chi phí gì nhiều hết, nên chiết khấu hoa hồng gần như cao nhất trong các ngành dịch vụ. Lần đầu tiên mình làm một ngành mà thấy được chiết khấu cao như vậy, bốn mươi đến năm mươi triệu, tôi cũng ham, tại vì tiền nó nhiều quá. Như vậy, có thể thấy rằng những người tư vấn BHNT có thể cảm nhận rằng công việc tư vấn và bán BHNT thú vị, tuy nhiên, công việc này cũng rất áp lực, và nhiều khi người bán BHNT phải dối mặt với những căng thẳng. 3.Ông/ bà nhìn nhận như thế nào về các dạng hành vi bán hàng như kêu gọi khách hàng mua bảo hiểm mà không cần biết sản phẩm đó có thực sự cần thiết với khách hàng không, không nói hết thông tin với khách hàng, không tư vấn giải thích hết từ ngữ trong hợp đồng (không giải thích rõ hợp đồng, dẫn đến những hiểu nhầm của khách hàng). CG5: Thực ra thì cũng giống những ngành kinh doanh khác, thực sự thì nó gọi là đa cấp. Đa cấp thì nơi nào cũng đa cấp thôi. Thực ra đa cấp chỉ là những cấp liền kề nhau thôi. Kinh doanh trực tiếp mà, hoa hồng của bảo hiểm là 40%. Mức chiết khấu này là khá cao phải không? CG5: theo mình thì đó là mức chiết khấu cao nhất. Vậy với mức chiết khấu cao như vậy, mà nếu người bán hàng không có nhiều mối quan hệ, không có năng lực bán hàng, theo anh, có khi nào họ có thể dụ dỗ khách hàng không? CG5: Có, chắc chắn. Theo luật bảo hiểm của Việt Nam, và của công ty luôn, là họ cấm, hoặc nếu phát hiện ra là bị cắt giấy hành nghề luôn. CG6: Một dạng bán hàng phi đạo đức trong ngành BHNT là họ không cung cấp đầy đủ thông tin mà khách hàng cần biết. CG7: Có thể do nghiệp vụ của người tư vấn yếu kém nên không tư vấn đầy đủ xxviii cho khách hàng. CG9: Thực ra có nhiều hành vi mà người bán hàng có thể thực hiện để đối phó với các áp lực của công ty lắm. Như vậy, có thể thấy rằng những người tham gia phần lớn đều đồng ý rằng việc chỉ lo bán sản phẩm mà không cung cấp đầy đủ thông tin mà khách hàng cần phải biết chính là hành vi USB. xxix PHỤ LỤC 6 PHỎNG VẤN KHÁCH HÀNG ĐÃ MUA BHNT Phần 1. Lời chào và thông tin về mục tiêu của cuộc phỏng vấn: Phần 2. Câu hỏi phỏng vấn: 1. Ông/ bà đã từng mua một sản phẩm dịch vụ bảo hiểm của hãng BHNT nào chưa? Trải nghiệm của Ông/ bà sau khi mua như thế nào? 2. Mong Ông/ Bà có thể chia sẻ cách hiểu của mình về USB trong ngành BHNT? Gợi ý thêm: -Theo Ông/ Bà, việc một người bán bảo hiểm cung cấp thiếu thông tin, không tư vấn kỹ từ ngữ trong hợp đồng có phải là USB không? Ông/ Bà có từng rơi vào tình huống là mình không phát hiện được hết những kẽ hở của hợp đồng hay những thuật ngữ trong hợp đồng hay không? -Ông/ Bà có bao giờ cảm giác mình bị ép mua BHNT, hay người bán cứ nói quá nhiều, nói quá tốt các sản phẩm BHNT để Ông/ Bà mua bảo hiểm hay không? Trân trọng cảm ơn Ông/ Bà đã tham gia phỏng vấn. xxx PHỤ LỤC 7 KẾT QUẢ PHỎNG VẤN KHÁCH HÀNG ĐÃ MUA BHNT Phần 1: Phần giới thiệu chào hỏi Phần 2: Nội dung trả lời 1.Ông/ bà đã từng mua một sản phẩm dịch vụ bảo hiểm của hãng BHNT nào chưa? Trải nghiệm của Ông/ bà sau khi mua như thế nào? CG10: Tôi có mua vài năm nay nhưng cũng chưa phải sử dụng đến gói bảo hiểm. Lúc họ tư vấn cho mình, thì mình thấy rất hay, nhưng hiện giờ thì tôi thấy có nhiều gói bảo hiểm của những hãng khác tốt hơn. Khi mua thì họ có tư vấn, nhưng có vẻ người tư vấn cũng không nắm rõ hết các điều khoản trong hợp đồng. Tôi nghĩ hợp đồng do công ty soạn, họ cũng khó hiểu được hết. CG11: Tôi có mua bảo hiểm nhưng may mắn tôi chưa phải sử dụng gói này. Khi mua thì tôi được tư vấn, tôi cảm giác người bán hàng thì họ phải cố gắng thuyết phục mình để mua hàng thôi. CG12: Tôi đã mua bảo hiểm và quan tâm tìm hiểu rất kỹ trước khi mua. Nhưng đến khi có bệnh, tôi mới thấy rằng mình chưa tìm hiểu kỹ. 2. Mong Ông/ Bà có thể chia sẻ cách hiểu của mình về USB trong ngành BHNT? CG10: Người bán bảo hiểm có thể nói rằng sản phẩm bảo hiểm của công ty rất tốt, tôi sẽ nhận được hỗ trợ khi cần thiết, nhưng có thể thông tin của họ không đúng sự thật. Tôi cũng nghi ngờ hợp đồng có thể có những khoản mục mà tôi chưa nắm rõ hết. Tôi cũng đọc kỹ hợp đồng, nhưng mà các điều khoản loạn với nhau, liên kết với nhau, làm tôi rất khó hiểu. Một hợp dồng dày cộm, nếu mà hợp đồng đơn giản, không có điều khoản gì ràng buộc khách hàng, thì cần gì phải dày như vậy. CG11: Khi tôi đi gửi tiền tại ngân hàng, mặc dù tôi đã nói là tôi mua bảo hiểm rồi, nhưng mà nhân viên của ngân hàng cứ nói về bảo hiểm, rồi họ tự cho rằng bảo hiểm của tôi chỉ mới bảo hiểm sức khỏe. Rồi họ nói rất nhiều, nói đủ loại bảo hiểm, rồi tự ghi tên tôi vào bản minh họa là người mua bảo hiểm, còn người này là người tư vấn bảo hiểm. Tôi có cảm giác tôi bị họ ép phải mua bảo hiểm, rất xxxi khó để từ chối. CG12: Hãng bảo hiểm giải quyết hơi lâu, hợp đồng ghi là giải quyết trong 90 ngày, sau 90 ngày sẽ trả lãi theo lãi suất ngân hàng. Nhưng sau này tôi có việc phải dùng đến bảo hiểm, tôi mới phát hiện rằng hợp đồng không ghi thời gian tối đa sau 90 ngày thì bao nhiêu ngày sẽ bị phạt hợp đồng dân sự. Người bình thường đâu phải ai cũng nắm rõ các kẽ hở này. Hãng bắt tôi phải có giấy công chứng, nhưng ra phường thì phường bảo mẫu này không công chứng. Ngay cả khi đã có giấy công chứng, tôi phải lên công ty nhiều lần. Mức độ hỗ trợ của hãng bảo hiểm yếu. Tôi phải liên lạc với người thẩm định. Tôi đến hãng bảo hiểm đòi đền bù nhưng lại yêu cầu tôi phải gửi thư xin giải quyết và làm quá nhiều bước, quá nhiêu khê, và chưa chắc ai cũng có thể làm được các bước này, cũng không phải ai cũng có thể liên hệ với người thẩm định để đòi được đền bù như tôi. xxxii PHỤ LỤC 8 HÌNH ẢNH MINH HỌA VIỆC GỬI LỜI MỜI THAM GIA PHỎNG VẤN Phụ lục 8.1: Thư mời tham gia phỏng vấn: Phụ lục 8.2: Thư trả lời chấp nhận tham gia phỏng vấn xxxiii PHỤ LỤC 9 HÌNH ẢNH MINH HỌA VIỆC GỬI LỜI MỜI THAM GIA KHẢO SÁT Phụ lục 9.1: Gửi lời mời người bán bảo hiểm tham gia khảo sát Phụ lục 9.2: Gửi lời chào mời phỏng vấn và khảo sát tại hãng bảo hiểm xxxiv PHỤ LỤC 10 PHIẾU KHẢO SÁT VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG (Khảo sát sơ bộ) Lời chào và giới thiệu về nghiên cứu Phần 1: Thông tin cơ bản Xin Ông/ Bà hãy chọn câu trả lời phù hợp cho mỗi câu hỏi sau. 1.Công việc của Ông/ Bà phải thường xuyên tư vấn cho khách hàng về sản phẩm bảo hiểm không có 2. Ông/ Bà phải chịu trách nhiệm về doanh số bán hàng của chính mình không có 3.Độ tuổi của Ông/ Bà Từ 20 -30 tuổi Từ 31 -40 tuổi Từ 41 tuổi trở lên 4.Doanh nghiệp hay Công ty bảo hiểm của Ông/ Bà: AIA Cathay MAP Life xxxv Dai-ichi Life Manulife Aviva Prudential Bảo Việt Sunlife Chubb Generali Khác Phần 2: Những phát biểu sau đây mô tả về công việc mà Ông/ Bà. Với mỗi phát biểu, xin hãy cho biết mức độ đồng ý của Ông/ Bà Quy ước: 1: hoàn toàn không đồng ý 7: hoàn toàn đồng ý STT Phát biểu Thang điểm 1 Các mục tiêu kinh doanh của tôi (chỉ tiêu doanh số, thị phần) rất khó để đạt được 2 Không quá khó để có thể đạt được các mục tiêu kinh doanh 3 Nhìn chung, các mục tiêu kinh doanh của tôi rất thách thức 4 Công ty tạo ra những sức ép bán hàng ngay cả khi các sản phẩm bảo hiểm không hoàn toàn phù hợp với khách hàng. 5 Công ty luôn tìm cách tạo ra áp lực buộc nhân viên phải bán được hàng 6 Chúng tôi được đào tạo làm sao để thuyết phục khách hàng, chứ không được đào tạo nhiều vào việc làm sao để tìm biết nhu cầu thực sự của khách hàng 7 Đôi khi tôi phải lách một số quy định để thực hiện các công việc nhiệm vụ của mình 8 Tôi thường phải làm những việc có mâu thuẫn với nhau (doanh nghiệp muốn thế này nhưng khách hàng muốn thế khác) 9 Tôi cảm thấy mình phải làm hài lòng quá nhiều người khác nhau xxxvi Phần 3: Những phát biểu sau đây mô tả những cảm nhận của Ông/ Bà trong thời gian gần đây. Với mỗi phát biểu dưới đây, hãy cho biết mức độ đồng ý của Ông/ Bà. Quy ước: 1: hoàn toàn không đồng ý 7: hoàn toàn đồng ý STT Phát biểu Thang điểm 1 Tôi thường lo sợ mình làm việc tệ 2 Tôi hay lo sợ kết quả công việc của mình thấp hơn các đồng nghiệp 3 Tôi rất căng thẳng nếu không đạt được các mục tiêu công việc 4 Tôi sẽ rất lo ngại nếu không nhận được cấp trên khen ngợi về kết quả công việc 5 Tôi thường lo lắng rằng mình không thể hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian cho phép 6 Tôi thường xuyên bận tâm việc người khác đánh giá mình làm việc như thế nào 7 Tôi lo lắng về việc tôi không thể đáp ứng tốt các yêu cầu công việc 8 Ngay cả khi tôi đã cố gắng hết sức, tôi vẫn lo sợ rằng kết quả làm việc của mình chưa tốt. 9 Tôi thấy kiệt sức 10 Tôi cảm thấy mình vẫn bình tĩnh và lý trí 11 Tôi cảm thấy mình vẫn suy nghĩ sắc sảo và tập trung 12 Năng lượng của tôi gần như đã cạn kiệt 13 Tôi đang cảm thấy mình không muốn làm gì nữa 14 Việc nói quá (phóng đại) trong kinh doanh là bình thường xxxvii 15 Không thể nói hết các thông tin sản phẩm cho khách hàng biết được. 16 Phóng đại sự thật một chút vì hình ảnh của công ty cũng được, không có gì nghiêm trọng cả 17 Nói dối khách hàng một chút chỉ là để giúp chúng ta bán được hàng, công việc kinh doanh là phải như vậy Phần 4: Phần này mô tả về hành vi giao tiếp bán hàng của Ông/ Bà. Với mỗi phát biểu dưới đây, hãy cho biết mức độ đồng ý của Ông/ Bà Quy ước: 1: hoàn toàn không đồng ý 7: hoàn toàn đồng ý STT Phát biểu Thang điểm 1 Đôi khi tôi không chắc chắn sản phẩm bảo hiểm của công ty tôi phù hợp với khách hàng, tôi vẫn cố gắng thuyết phục họ mua bảo hiểm. 2 Tôi thường cung cấp thông tin để khách hàng thấy sản phẩm công ty tôi hấp dẫn hơn công ty khác. 3 Tôi thường cố gắng nói tốt về các tính năng của sản phẩm bảo hiểm với khách hàng. Kính mong Ông/ Bà có thể giới thiệu bản khảo sát này người đồng nghiệp kinh doanh BHNT khác. Số điện thoại của người được giới thiệu………………… Xin cảm ơn Ông/ Bà. Kính chúc Ông/ Bà thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. xxxviii PHỤ LỤC 11 PHIẾU KHẢO SÁT VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG (Khảo sát chính thức bằng giấy) Lời chào và giới thiệu về nghiên cứu Phần 1: Thông tin cơ bản Xin Ông/ Bà hãy chọn câu trả lời phù hợp cho mỗi câu hỏi sau. 1.Công việc của Ông/ Bà phải thường xuyên tư vấn cho khách hàng về sản phẩm bảo hiểm có không 2. Ông/ Bà phải chịu trách nhiệm về doanh số bán hàng của chính mình có không 3.Độ tuổi của Ông/ Bà Từ 20 -30 tuổi Từ 31 -40 tuổi Từ 41 tuổi trở lên 4.Doanh nghiệp hay Công ty bảo hiểm của Ông/ Bà: AIA Cathay MAP Life xxxix Dai-ichi Life Manulife Aviva Prudential Bảo Việt Sunlife Chubb Generali Khác Phần 2: Những phát biểu sau đây mô tả về công việc mà Ông/ Bà. Với mỗi phát biểu, xin hãy cho biết mức độ đồng ý của Ông/ Bà Quy ước: 1: hoàn toàn không đồng ý 7: hoàn toàn đồng ý STT Phát biểu Thang điểm 1 Các mục tiêu kinh doanh của tôi (chỉ tiêu doanh số, thị phần) rất khó để đạt được 2 Không quá khó để có thể đạt được các mục tiêu kinh doanh 3 Nhìn chung, các mục tiêu kinh doanh của tôi rất thách thức 4 Công ty tạo ra những sức ép bán hàng ngay cả khi các sản phẩm bảo hiểm không hoàn toàn phù hợp với khách hàng. 5 Công ty luôn tìm cách tạo ra áp lực buộc nhân viên phải bán được hàng 6 Chúng tôi được đào tạo làm sao để thuyết phục khách hàng, chứ không được đào tạo nhiều vào việc làm sao để tìm biết nhu cầu thực sự của khách hàng 7 Đôi khi tôi phải lách một số quy định để thực hiện các công việc nhiệm vụ của mình 8 Tôi thường phải làm những việc có mâu thuẫn với nhau (doanh nghiệp muốn thế này nhưng khách hàng muốn thế khác) 9 Tôi cảm thấy mình phải làm hài lòng quá nhiều người khác nhau xl Phần 3: Những phát biểu sau đây mô tả những cảm nhận của Ông/ Bà trong thời gian gần đây. Với mỗi phát biểu dưới đây, hãy cho biết mức độ đồng ý của Ông/ Bà. Quy ước: 1: hoàn toàn không đồng ý 7: hoàn toàn đồng ý STT Phát biểu Thang điểm 1 Tôi thường lo sợ mình làm việc tệ 2 Tôi hay lo sợ kết quả công việc của mình thấp hơn các đồng nghiệp 3 Tôi rất căng thẳng nếu không đạt được các mục tiêu công việc 4 Tôi sẽ rất lo ngại nếu không nhận được cấp trên khen ngợi về kết quả công việc 5 Tôi thường lo lắng rằng mình không thể hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian cho phép 6 Tôi thường xuyên bận tâm việc người khác đánh giá mình làm việc như thế nào 7 Tôi lo lắng về việc tôi không thể đáp ứng tốt các yêu cầu công việc 8 Ngay cả khi tôi đã cố gắng hết sức, tôi vẫn lo sợ rằng kết quả làm việc của mình chưa tốt. 9 Tôi thấy kiệt sức 10 Tôi cảm thấy mình vẫn bình tĩnh và lý trí 11 Tôi cảm thấy mình vẫn suy nghĩ sắc sảo và tập trung 12 Năng lượng của tôi gần như đã cạn kiệt 13 Tôi đang cảm thấy mình không muốn làm gì nữa 14 Việc nói quá (phóng đại) trong kinh doanh là bình thường xli 15 Không thể nói hết các thông tin sản phẩm cho khách hàng biết được. 16 Phóng đại sự thật một chút vì hình ảnh của công ty cũng được, không có gì nghiêm trọng cả 17 Nói dối khách hàng một chút chỉ là để giúp chúng ta bán được hàng, công việc kinh doanh là phải như vậy Phần 4: Phần này mô tả về hành vi giao tiếp bán hàng của Ông/ Bà. Với mỗi phát biểu dưới đây, hãy cho biết mức độ đồng ý của Ông/ Bà Quy ước: 1: hoàn toàn không đồng ý 7: hoàn toàn đồng ý STT Phát biểu Thang điểm 1 Đôi khi tôi không chắc chắn sản phẩm bảo hiểm của công ty tôi phù hợp với khách hàng, tôi vẫn cố gắng thuyết phục họ mua bảo hiểm. 2 Tôi thường cung cấp thông tin để khách hàng thấy sản phẩm công ty tôi hấp dẫn hơn công ty khác. 3 Tôi thường cố gắng nói tốt về các tính năng của sản phẩm bảo hiểm với khách hàng. Kính mong Ông/ Bà có thể giới thiệu bản khảo sát này người đồng nghiệp kinh doanh BHNT khác. Số điện thoại của người được giới thiệu………………… Xin cảm ơn Ông/ Bà. Kính chúc Ông/ Bà thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. xlii PHỤ LỤC 12 PHIẾU KHẢO SÁT VỀ HÀNH VI BÁN HÀNG (khảo sát qua internet) Phiếu khảo sát được mô phỏng lại như sau: https://forms.gle/oimBWLtc7KBFtikVA xliii PHỤ LỤC 13 DANH SÁCH NGƯỜI THAM GIA PHỎNG VẤN Vì tính chất đạo đức trong nghiên cứu, nên danh tính của những người tham gia phỏng vấn không được công bố ở đây. Mã hóa Công Mô tả về người tham gia phỏng vấn người tham việc gia CG1 Giảng Công tác tại Học viện Bảo hiểm và quản trị rủi ro viên tài chính (IFRM) Tham gia giảng dạy về bảo hiểm. CG2 Giảng Tham gia giảng dạy về bảo hiểm, tài chính ngân viên hàng. CG3 Giảng Tham gia giảng dạy về bảo hiểm. viên CG4 Giảng Giảng dạy và tham gia tư vấn kinh tế Đài phát viên thanh Việt Nam (VOV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV) trên các bản tin thời sự, tài chính tiêu dùng, dạo quanh thị trường và VOV giao thông. Thành viên ban biên tập Thời báo Nữ Doanh Nhân. CG5 Đại lý Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT BHNT của hãng BHNT AIA Thâm niên trong ngành: 6 năm CG6 Đại lý Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT BHNT của hãng BHNT Manulife Thâm niên trong ngành: 3 năm CG7 Đại lý Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT BHNT của hãng BHNT Manulife xliv Thâm niên trong ngành: 10 năm CG8 Nhân Làm việc tại ngân hàng ACB, chi nhánh Bình Triệu viên văn Bộ phận quản lý giao dịch khách hàng phòng Chịu trách nhiệm quản lý và tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT của hãng BHNT AIA Thâm niên trong ngành: 3 năm CG9 Đại lý Đại lý tư vấn bán các sản phẩm dịch vụ BHNT tư vấn của hãng BHNT AIA BHNT Thâm niên trong ngành: 5 năm CG10 Kinh Khách hàng đã mua BHNT hãng Prudential doanh Công tác tại Công ty TNHH Phần mềm ASM, quận 12, Tp.HCM CG11 Giảng Khách hàng đã mua BHNT hãng Manulife viên Trú tại Thủ Đức CG12 Nhân Khách hàng đã mua BHNT hãng AIA và đã được hãng AIA chi trả bệnh hiểm nghèo. viên Trú tại quận Bình Thạnh. văn phòng Nguồn: tác giả tổng hợp xlv PHỤ LỤC 14 KẾT QUẢ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU CHÍNH THỨC (LẦN 2) xlvi Phụ lục 14.2: Các giá trị Q2 Case 1 Case 4 641,165 596,447 653,381 567,947 409,302 369,176 0,098 375,420 338,281 0,099 215,317 215,317 280,785 280,785 315,436 265,290 0,159 321,723 283,856 0,118 232,439 232,439 249,906 249,906 276,821 276,821 219,520 219,520 242,156 197,471 0,185 246,560 216,151 0,123 Case 2 Case 5 580,244 511,743 686,662 618,171 422,009 397,977 0,057 377,980 359,885 0,048 255,984 255,984 251,819 251,819 320,387 276,466 0,137 335,093 291,405 0,130 252,119 252,119 246,190 246,190 235,764 235,764 251,395 251,395 249,050 193,232 0,224 214,717 182,252 0,151 Case 3 654,547 578,148 425,289 397,655 0,065 202,094 202,094 315,361 255,981 0,188 225,347 225,347 222,499 222,499 253,517 192,095 0,242 Ghi chú: bước nhảy là 5 Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả xlvii Phụ lục 14.3: Các giá trị của thang đo chính thức (lần 2) RCO SPR1
SPR2
SPR3 GDI1
GDI2
GDI3 ANJ1
ANJ2
ANJ3
ANJ4
ANJ5
ANJ6
ANJ7
ANJ8 EGD1
EGD2
EGD3
EGD4
EGD5 SPR
GDI
ANJ
EGD
MJU MJU1
MJU2
MJU3
MJU4 USB 0,876
0,847
0,861
0,888
0,848
0,817
0,886 0,702
0,649
0,674
0,500
0,539
0,527
0,725 USB1
USB2
USB3 0,862
0,835
0,816
0,818
0,778
0,821
0,835
0,846
0,760
0,744
0,749
0,682
0,763
0,649
0,705
0,705
0,648
0,822
0,819
0,807
0,726
0,413
0,722
0,724
0,704
0,753
0,894
0,807
0,850
Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả xlviii Phụ lục 14.4: Tổng hợp kết quả kiểm định các ảnh hưởng (lần 2) -0,075 -0,075 0,038 0,053 RCO->USB 0,202 0,202 0,044 0,000 SPR->USB -0,008 -0,008 0,041 0,847 GDI->USB 0,212 0,209 0,045 0,000 RCO->ANJ 0,233 0,231 0,043 0,000 SPR->ANJ 0,325 0,323 0,045 0,000 GDI->ANJ 0,108 0,107 0,049 0,030 RCO->EGD 0,336 0,333 0,040 0,000 SPR-> EGD 0,163 0,161 0,043 0,000 GDI->EGD 0,113 0,113 0,045 0,012 ANJ->USB 0,176 0,176 0,053 0,001 ANJ->MJU 0,272 0,271 0,063 0,000 MJU->USB 0,206 0,204 0,058 0,000 EGD->USB 0,203 0,201 0,047 0,000 EGD->MJU 0,205 0,205 0,038 0,000 RCO->MJU 0,150 0,150 0,042 0,000 SPR->MJU 0,168 0,167 0,037 0,000 GDI->MJU 0,049 0,048 0,021 0,021 ANJ -> MJU -> USB 0,055 0,054 0,017 0,002 EGD->MJU->USB 0,024 0,024 0,011 0,026 RCO->ANJ->USB 0,027 0,026 0,012 0,033 SPR->ANJ->USB 0,037 0,036 0,016 0,023 GDI->ANJ->USB 0,022 0,022 0,012 0,072 RCO->EGD->USB 0,069 0,068 0,020 0,001 SPR->EGD->USB 0,034 0,033 0,014 0,017 GDI->EGD->USB 0,056 0,056 0,017 0,001 RCO->MJU->USB 0,041 0,041 0,015 0,007 SPR->MJU->USB 0,045 0,045 0,014 0,001 GDI->MJU->USB 0,010 0,010 0,005 0,047 RCO->ANJ->MJU->USB 0,011 0,011 0,005 0,035 SPR->ANJ->MJU->USB 0,016 0,015 0,007 0,036 GDI->ANJ->MJU->USB 0,006 0,006 0,003 0,085 RCO->EGD->MJU->USB 0,018 0,018 0,007 0,006 SPR->EGD->MJU->USB 0,009 0,009 0,004 0,018 GDI->EGD->MJU->USB Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giảSSO
SSE
SSO
SSE
Q²
(=1-SSE/SSO)
0,070
Q²
(=1-SSE/SSO)
0,131
ANJ
ANJ
EGD
EGD
GDI
GDI
MJU
MJU
RCO
RCO
SPR
SPR
USB
USB
SSO
SSE
SSO
SSE
Q²
(=1-SSE/SSO)
0,118
Q²
(=1-SSE/SSO)
0,100
ANJ
ANJ
EGD
EGD
GDI
GDI
MJU
MJU
RCO
RCO
SPR
SPR
USB
USB
SSO
SSE
Q²
(=1-SSE/SSO)
0,117
ANJ
EGD
GDI
MJU
RCO
SPR
USB
CR
Thang đo
OL
AVE
Biến quan
sát
RCO1
RCO2
RCO3
Giá trị trung
bình
2,995
3,025
3,037
4,361
4,525
4,507
5,405
5,435
5,483
4,614
4,637
4,649
4,587
4,672
4,485
4,507
4,694
2,998
2,945
3,020
3,774
3,296
1,721
1,634
1,684
1,749
2,995
3,025
3,037
Cronbach's
alpha
0,789
0,732
0,761
0,857
0,790
0,701
0,810
Các ảnh hưởng
Hệ số gốc Hệ số trung bình Sai số chuẩn P value
Các ảnh hưởng trực tiếp
Các ảnh hưởng gián tiếp cụ thể