
3
NỘI DUNG
I. ĐẠI CƢƠNG
- Vẩy nến (psoriasis) là bệnh da mạn tính, thường gặp và hay tái phát. Ở các
nước Âu Mỹ, tỉ lệ mắc bệnh vẩy nến chiếm 1-2% dân số. Ở Việt Nam, tỉ lệ vẩy nến
là 5-7% tổng số bệnh nhân da liễu đến khám tại các phòng khám da liễu.
- Căn nguyên - bệnh sinh của vẩy nến được nghiên cứu từ lâu song vẫn còn
nhiều điểm chưa sáng tỏ, ngày nay người ta cho rằng vẩy nến là bệnh da di truyền,
gen gây nên bệnh vẩy nến nằm trên nhiễm sắc thể số 6 có liên quan HLA- DR7,
B13, B17, B37, BW 57, CW6...
Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh (yếu tố khởi động, yếu tố môi trường)
như stress, nhiễm khuẩn, chấn thương cơ học, vật lý, rối loạn nội tiết, các thuốc...
gen này được khởi động dẫn đến tăng sản tế bào biểu bì sinh ra vẩy nến.
- Vẩy nến là một bệnh có cơ chế miễn dịch, vai trò của lymphô T hoạt hoá,
các cytokines, IGF1, EGF, TGF µ, IL 1, IL 6, IL 8, nhóm trung gian hóa học
eicosanoides, prostaglandine, plasminogen mà hậu quả cuối cùng là dẫn đến tăng
sinh tế bào biểu bì, tăng gián phân sinh ra vẩy nến.
- Đặc điểm lâm sàng chủ yếu là phát ban độc dạng, trên da có các đám mảng
đỏ kích thước to nhỏ khác nhau (từ vài milimet đến hàng chục centimet), nền cộm,
thâm nhiễm, bề mặt phủ vẩy trắng như nến, khu trú một vùng hay rải rác khắp đầu
mặt, thân mình, tay chân. Triệu chứng ngứa chiếm khoảng 20-40% số ca. Bệnh
thường xuất hiện nhiều nhất ở lứa tuổi 10-30, tỉ lệ nam và nữ xấp xỉ như nhau.
- Về tiến triển, bệnh tiến triển mãn tính, hầu như suốt đời nhưng lành tính,
trừ một vài thể nặng, có thể sinh biến chứng như vẩy nến thể khớp, vẩy nến đỏ da
toàn thân, các đợt vượng bệnh xen kẽ các đợt bệnh thuyên giảm. Chất lượng cuộc
sống bị giảm sút, bệnh ảnh hưởng nhiều đến tâm lý, sinh hoạt, thẩm mỹ.
+ Điều trị bệnh vẩy nến còn nan giải, có rất nhiều loại thuốc, nhiều phương
pháp được áp dụng, song chưa có loại nào chữa bệnh khỏi hẳn được, mới dừng lại